ĐỀ ÁN TRONG THÁNG
12-2009
TUỆ
Trí Tuệ Thể
HiệnTrong Đời
Sống
|
Trí
Tuệ Thể Hiện Trong Nếp Sống Hàng Ngày/ - TT Giác Đẳng
Thế
giới
ngày nay, đặc
biệt là trong nền văn
hoá Tây Phương
người
ta thường
đề
ra sự
b́nh đẳng
của con người.
Sự b́nh
đẳng
giữa
nam nữ,
sự b́nh
đẳng
giữa
những
giai cấp, giàu nghèo, chủng tộc,
màu da. Lư do dễ hiểu là hơn
1,000 năm
dài Âu Châu đă
sống trong tăm
tối của một thời
đại
mà với
những
giá trị trước
nhất người
ta áp đặt
một số giá trị lên nhiều
giai tầng khác nhau ở
xă hội. Từ
sự kềm
kẹp của chủ nghĩa giai cấp
người
ta bước
sang một chủ nghĩa tự
do b́nh đẳng
của tất cả mọi người.
Và v́ vậy đôi
khi nó tạo thành một niềm
hănh diện rất lớn,
người
ta nghĩ rằng
đó là
một cuộc cách mạng giải
phóng con người.
Nhưng
trên thực
tế th́ Đức
Phật Ngài dạy tất cả
chúng sanh đều
mong cầu sự
an vui và chúng ta nên đối
xử với
tất cả chúng sanh đều
với ḷng
từ. Nhưng
Ngài cũng cho chúng ta biết rằng
có nhiều khác biệt mà khác biệt
này không thể phủ nhận được.
Sự phân
biệt đó
đă
t́m thấy ở
trong kinh điển
của Đạo
Phật khi Đức
Phật Ngài nói về hai hạng người:
người
ngu và người
trí.
Xem
Tiếp
|
|
Kinh Tiểu Nghiệp Phân Biệt/Trung
Bộ Kinh
Con
đường đưa đến
đầy đủ trí tuệ là
sau khi đến Sa-môn hay Bà-la-môn,
có hỏi: "Thưa Tôn giả,
thế nào là thiện? Thế nào
là bất thiện? Thế nào là phạm
tội? Thế nào là không phạm
tội? Thế nào là cần phải
thực hành? Thế nào là không cần
phải thực hành? Tôi đă làm
ǵ để phải không lợi
ích và đau khổ lâu dài? Hay tôi
đă làm ǵ để được
lợi ích và an lạc, hạnh
phúc lâu dài?"....
Xem
Tiếp
|
|
Ư Thức Tiên Khởi - TT Giác Đẳng
giảng
Trong bài "ư thức tiên
khởi" này gợi cho chúng
ta một ư thức quan trọng, là
tất cả cuộc hành tŕnh
tốt đẹp đều có
một ư thức bắt đầu
hết sức tốt đẹp.
Ư thức đó là một ư
thức quan trạng, một ư
thức tỉnh táo, một ư
thức cho chúng ta biết là ḿnh
phải đặt đúng vấn
đề, đặt đúng
chỗ. Đôi khi người
ta rất dễ dàng để
đưa ra ư kiến này và ư
kiến khác. Nhưng đặt ư
kiến chính xác để có
được một câu trả
lời chính xác, và từ đó
khởi đi một hành tŕnh chân
thực, điều đó không
phải dễ dàng. Chúng ta có hàng
trăm ngàn thứ băng khoăn
trong đời sống, nhưng
đa phần những thứ băng
khoăn đó nó vốn không có cái
giá trị, mà nó chỉ là một
mảnh rời của cuộc
sống, và từ từ nó tan
biến vào hư không mà nó không
kết nối lại trở thành
một cái ǵ đáng giá. Bởi v́
nó đă không đến từ ư
thức tiên khởi chân thật. ....
Xem
Tiếp
|
|
Định
nghĩa
Người
Ngu Người Trí trong tinh thần đạo Phật - TT Giác Đẳng giảng
Định
nghĩa người ngu và người
trí theo tinh thần của Đạo
Phật, có hai phương diện
là sự thể hiện và sự
nhận thức. Sự thể
hiện là Đức Phật Ngài
không định nghĩa mơ
hồ mà Ngài nói rất rơ ràng. Ngài
nói rằng người ngu là người
có thân ác, khẩu ác và ư ác. Người
trí là người có thân thiện,
khẩu thiện và ư thiện. Nói
rơ hơn là thân ác, khẩu ác, ư
ác, tức là tự ḿnh làm khổ
cho ḿnh và gây khổ cho người
khác. Một người có thân
hiền thiện, khẩu hiền
thiện, ư hiền thiện,
tức là tự ḿnh an lạc và
mang lại sự an lạc cho người
khác.
Xem
Tiếp
|
|
Thân
Cận Người Hiền Trí - Bhikkhu Bodhi / Access to Insight
Nguyễn Văn Ḥa chuyển
dịch/Ch́a
Khóa Học Phật
Kinh
Đại Hạnh Phúc (Maha-mangala
Sutta), là một bài kinh thuyết
giảng về những điều
hạnh phúc, một trong những bài
kinh rất quan trọng trong Tam
Tạng kinh điển, bao gồm
trong tất cả các tài liệu tiêu
chuẩn của thánh ca Pali. Bài kinh
bắt đầu khi một vị
thần tuyệt đẹp,
hiện xuống trần gian trong
một đêm thanh vắng, đến
gặp Đức Phật trong vườn
Kỳ Đà và hỏi về cách
thức để có phước lành
cao thượng. Trong đoạn
kệ đầu tiên của Ngài,
Đức Phật dạy rằng phước
lành cao thượng đến
từ việc tránh xa kẻ xấu
ác và thân cận người
hiền (asevana ca balanam, panditanan ca
sevana). Những phần kệ c̣n
lại của bài kinh th́ đi vào
kư họa tất cả các khía
cạnh khác nhau của điều
mang lại hạnh phúc loài người,
cả hai cơi trần và chư thiên,
trong đoạn kệ đầu tiên
về sự việc thân cận
với người hiền trí là
những đoạn thi ca nhấn
mạnh một điểm quan
trọng: sự tiến bộ
dọc theo con đường
của Giáo Pháp trên căn bản làm
cho những lựa chọn đúng
trong t́nh bạn của chúng ta.
Xem
Tiếp
|
|
Từ
quan điểm đến hiện thực/Bhikku
Bodhi/Access
To Insight
Minh
Hạnh chuyển ngữ/Ch́a Khóa Học Phật
Lời
giáo huấn của Đức
Phật luôn liên tục cảnh báo
chúng ta về những nguy hiểm
trong sự dính mắc --dính mắc vào
các tài sản, dính mắc vào các
điều vui, dính mắc vào người,
dính mắc vào cảnh. Đức
Phật ban ra những lời lưu
ư như vậy v́ Ngài nhận
thức rơ trong sự dính mắc là
nguyên nhân lớn của đau
khổ, và như vậy Ngài khuyên chúng
ta rằng cái giá chúng ta phải
trả để đi đến các
"bến bờ " của
giải thoát là sự từ bỏ
tất cả các loại dính mắc.
Trong một động thái mà lúc
mới nh́n qua thậm chí có vẻ
giống như tự hủy hoại
đối với một người
sáng lập tôn giáo, Đức Phật
nói rằng chúng ta không nên bám víu
ngay cả đối với lời
dạy của Ngài, và ngay cả
những nguyên tắc thiện
của Giáo Pháp cũng phải
được coi như chiếc bè
tạm dùng để đưa chúng
ta băng qua gịng suối.
Xem
Tiếp
|
|
Thân
làm thiện, khẩu nói thiện, ư suy nghĩ
thiện -- TT Giác Đẳng giảng
Trong câu hỏi là hành
động thân làm thiện,
khẩu nói thiện, ư suy nghĩ
thiện do thuộc về giới
không thuộc về trí. Tại sao
một người có thân khẩu
ư thiện gọi là người trí?
Khi chúng ta nói về
tam học chúng ta nói: giới, định
và huệ. Th́ điều đó chúng
ta chia ra làm ba phần:
Phần huệ gồm có chánh
kiến, chánh tư duy.
Giới th́ có chánh ngữ, chánh
nghiệp, chánh mạng.
Định có chánh tinh tấn, chánh
niệm, chánh định.
Đó là một sự phân chia khác
liên quan đến đời
sống tu tập. Và cái chi đạo
giải thoát th́ chúng ta nói một
phương diện khác.
Xem
Tiếp
|
|
Khéo
Tác Ư
- TT Tuệ Siêu
Có những yếu
tố nào giúp cho chúng ta có
được một trí tuệ sáng
suốt, để chúng ta suy nghĩ
sáng suốt, sáng suốt làm nên
những hành động sáng
suốt, như làm những điều
thiện chẳng hạn.
Nếu chúng ta nói nguyên
nhân xa th́ một người sanh ra
ở đời và người
đó có một trí tuệ sáng
suốt có thể nhận hiểu
được điều lợi
ích cho ḿnh và cho người khác,
th́ người đó đă huân
tập trí tuệ chân chánh này
từ ở trong đời quá
khứ. Thường thường
th́ những chúng sanh ở trong
đời quá khứ đă quen tu
tập, đă quen hành thiện, và
nghĩ đến việc thiện
quen rồi, th́ ngay trong kiếp
hiện tại do thường
cận y duyên đó mà người
này có được tiến hoá sáng
suốt để có thể dẫn
dắt hành động chân chánh,
đó là chúng ta nói nguyên nhân xa.
Xem
Tiếp
|
|
Chuẩn
mực nào để giới hạn về sở hành mà
được gọi là người trí hay ngưiờ
ngu - TT Giác Đẳng giảng
Khi
Đức Phật thuyết về
hành động sở hành của
một người là dấu
hiệu để biết được
đó là người trí hay là người
ngu. Nếu là như vậy th́
ở đây đối với
kẻ phàm phu của chúng ta ở
trong đời sống này làm
thiện cũng có mà làm ác cũng
có, không phải giống như
bậc thánh bậc Tu Đà Hườn
trở lên bậc A Na Hàm, bậc
hữu học th́ luôn luôn làm
thiện c̣n bậc A La Hán th́
từ bỏ cả thiện lẫn
ác v́ phận sự đă làm xong,
nhưng đối với kẻ phàm
phu th́ làm ác cũng có làm thiện
cũng có. Như vậy th́ chúng ta
có chủng mực nào hay có
giới hạn làm thiện bao nhiêu
phần trăm ở trong cuộc
đời và làm ác bao nhiêu
phần trăm hay không, để
được đánh giá là người
trí hay là kẻ ngu.
Xem
Tiếp
|
|
Tu
Tập Tuệ Uẩn - TT Chánh Minh
Trong thời giảng
pháp hôm nay chúng tôi xin giảng
đề tài "Tu tập tuệ
uẩn". Như hàng Phật
tử chúng ta được
biết rằng thời giảng pháp
đầu tiên của Đức
Thế Tôn đă làm rung chuyển
quả địa cầu này
với bài kinh "Chuyển Pháp Luân"
và "Xoay Bánh Xe Pháp". Trong bài
kinh này th́ nội dung của Đức
Thế Tôn Ngài dạy cho chúng sanh
tránh xa hai cực đoan: cực
đoan thứ nhất là lợi dưỡng,
cực đoan thứ hai là khổ
hạnh. Cũng trong bài kinh này
Đức Phật Ngài nêu lên
bốn sự thật mà không
một samôn hay Bà La Môn nào có
thể chỉ trích hay có thể
phản đối hay có thể
bắt bẻ được,
tức là sự khổ, nguyên nhân
sinh ra sự khổ và sự
diệt khổ và con đường
đưa tới sự diệt
khổ. Trong bốn sự thật này
th́ sự thật "Con đường
đưa tới sự diệt
khổ" là đạo lộ duy
nhất để đưa chúng
sanh thoát khỏi gịng sinh tử luân
hồi, con đường tám chi này
được nói gọn là
tuể uẩn, định uẩn và
giới uẩn. ..
Xem
Tiếp
|
|
Bậc
Trí không giao động trước khen chê - Kinh Pháp Cú - TT Giác Đẳng giảng
V́
thế người ta nói rằng
một người trưởng thành
ở trong cuộc đời nầy
là người đủ sự b́nh
tĩnh để đặt lại
vần đề là tại sao tôi vui,
tại sao tôi buồn. Ở trong trường
hợp nào ḿnh nên phản ứng và
ở trong trường hợp nào ḿnh
nên im lặng. Chỉ có một
sự trưởng thành già dặn
đầy đủ trong tâm hồn
th́ có một cái nh́n nghiêm túc đủ
để cho chúng ta b́nh an trong
cuộc đời đầy phong ba
băo tố nầy. Ở trong sớ
giải có nhắc rằng, có
một từ ngữ là ninda`pasa.msa`su,
ở đây chỉ nói là khen
tặng và chê bai nhưng thật ra nó
đề cập đến tám
ngọn gió đời: khen chê vui
khổ đặng thất vinh
nhục, những thứ đó
xảy ra rất thường,
hầu như ngày nào cũng có trong
đời sống của ḿnh
Xem Tiếp
|
|
Người
Trí Vui Trong Chánh Pháp
- kinh Pháp Cú -TT Trí Siêu giảng
Trong
bài kệ Pháp cú này chúng ta sẽ t́m
hiểu một ư nghĩa hết
sức đặc biệt, mong
rằng sẽ đem lại cho đại
chúng một sự hiểu biết
về giáo lư của Đức
Phật. Không phải chúng ta nghe
Phật Pháp cho có nghe hoặc nghe
để có thái độ không
tốt. V́ khi chúng ta nghe pháp như
vậy chắc chắn chúng ta sẽ
không lănh hội được điều
ǵ hết. Giống như một người
không có trí tuệ và không có sự
hiểu biết, người ấy
thấy một viên kim cương,
người đó chẳng biết
giá trị của nó và do vậy cho
nên họ bỏ qua hoặc đem
liệng bỏ ở một hốc xó
nào đó. Khi nghe pháp cần nhất
chúng ta hiểu được pháp
với niềm tin. Khi hiểu
được pháp chúng ta nên hoan
hỷ trong pháp và thực hành theo th́
mới có lợi lạc. Ở đây
tự mỗi một người chúng
ta hăy t́m cho ḿnh một hướng
đi, hăy t́m cho ḿnh một lối
sống với tư tưởng an b́nh
và tốt đẹp. Như vậy
tự chúng ta sẽ t́m được
hạnh phúc cho ḿnh trong cuộc đời
này.
Xem Tiếp
|
|
Làm
Việc Một Nguồn Vui
- Tarthang Tulku Rinpoche
Ni
Sư Thích Nữ Trí Hải chuyển ngữ/www.quangduc.com
Đối
với nhiều người ngày nay,
công việc làm đă mất dần
ư nghĩa. Nỗi chán chường này
không chỉ giới hạn vào
một số nghề nghiệp, môi
trường hay tín ngưỡng nào,
nó từ từ thấm lan khắp
mọi ngơ nghách của công việc
nói chung. Đây quả là điều
bất hạnh, v́ công việc
vốn dĩ là một phương
tiện rất hữu hiệu để
chúng ta t́m được lạc thú
sâu xa trong đời sống. Công
việc có thể là một nguồn
suối của sự tăng trưởng,
một cơ hội cho ta hiểu thêm
về chính ta và để phát
triển những tương quan tích
cực, lành mạnh với mọi người.
Nếu nh́n công việc theo cách
ấy th́ ta sẽ thấy thực không
có ǵ khác nhau giữa sự dành năng
lượng tâm trí ḿnh cho công
việc và dành năng lượng
để cải thiện sự
tỉnh thức và để thưởng
thức hương vị đời
sống.
Xem Tiếp
|
|
Tín
và Tuệ trong Thiền - Thiền sinh Ashin
Ottama
TK.
Chánh Kiến chuyển ngữ
Nhiều người
cho rằng đức tin và trí
tuệ trong thiền quán (vipassanà)
đối nghịch nhau, mâu thuẫn
và không thể phối hợp.
Không phải vậy! chúng
thân hữu và là hai nội lực
quan trọng.
Trong thông tin vừa
rồi, tôi đă viết về
những điểm đặc thù và
khác biệt giữa các hành giả
châu Aù và phương Tây. Người
Aù châu t́m đến lời dạy
của đức Phật từ khía
cạnh niềm tin tôn giáo, c̣n người
mang giáo dục tây phương đạt
tới giáo pháp hầu hết
thuần túy từ góc cạnh
kiến thức - trí tuệ. Tôi nghĩ
rằng, chẳng ích lợi ǵ để
đánh giá và so đo. Trong những
dịp thích hợp, tín và tuệ
hỗ trợ lẫn nhau, nên đức
Phật dạy phải quân b́nh hai Căn
quyết định này .
Xem
Tiếp
|
|
Chánh Kiến/Bát Chánh
Đạo - Bhikkhu Bodhi/Access To
Insight
Nguyễn Văn Hoà và
Minh Hạnh chuyển ngữ
Tám yếu tố
của Bát Chánh Đạo th́ không
phải là những yếu tố
được sắp xếp theo
thứ tự nhất định,
yếu tố này theo sau yếu
tố kia. Những yếu tố này
có thể được diễn
tả thích hợp hơn đó là
những yếu tố chớ không
phải là những tiến tŕnh, cũng
giống sợi giây cáp được
quấn bằng nhiều sợi dây
sắt nhỏ, cần phải có
sự góp sức của mọi
sợi dây sắt nhỏ th́ sợi
dây cáp mới đạt được
độ bền cực điểm.
Qua một mức độ tiến
triển tất cả tám yếu
tố có thể biểu thị cùng
một lúc, yếu tố này hổ
trợ cho yếu tố kia. Tuy nhiên,
cho đến khi mà điểm đó
đạt được, cũng có
những lúc có những điều
trắc trở trên con đường
tu tập mà không thể tránh
được. Trên quan điểm
của việc rèn luyện thiết
thực, tám yếu tố chia làm ba
nhóm:
(i) Nhóm giới đức
(silakkhandha), được tạo thành
bởi chánh ngữ, chánh nghiệp và
chánh mạng.
(ii) nhóm tâm định
(samadhikkhandha), được tạo
thành bởi chánh tin tấn, chánh
niệm và chánh định.
và (iii) nhóm trí tuệ
(paññakkhandha), được tạo
thành bởi chánh tri kiến và chánh
tư duy.
...
Xem
Tiếp
|
|
Chánh Tư Duy/ Bát Chánh Đạo -
Bhikkhu/Access to Insight
Nguyễn Văn Hoà và Minh Hạnh Việt dịch/Ch́a Khóa Học
Phật
Yếu
tố thứ hai của Bát Chánh
Đạo được gọi
trong ngôn ngữ Pali là samma sankappa,
được dịch là "Chánh tư
duy." Thuật ngữ này đôi
khi phiên dịch là "tư tưởng
đúng," sự phiên dịch
đó có thể chấp nhận
nếu chúng ta nói thêm rằng trong
mạch văn hiện nay danh từ
"tư tưởng" đặc
biệt ám chỉ trạng thái
hoạt động tinh thần có
mục tiêu và có nhận thức,
trạng thái nhận thức hiện
được bao gồm trong yếu
tố thứ nhất, là chánh
kiến. Tuy nhiên, thật là gượng
gạo nếu cứ khăng khăng
đ̣i hỏi phải có sự phân
chia giữa hai chức năng này.
Từ quan điểm Phật Giáo,
những khía cạnh về nhận
thức và chủ ư của tâm không
cô lập trong những khung pḥng riêng
rẽ nhưng dung ḥa và phối
hợp nhau trong mối tương
quan gần gủi. Sở thích cá nhân
gây ảnh hưởng tới quan
niệm, và quan niệm lại xác
định sở thích cá nhân. Như
vậy quan niệm chính chắn
về bản chất của sự
hiện hữu, đạt được
nhờ suy nghiệm thâm sâu, có
hiệu lực nhờ nghiên cứu tường
tận, quan niệm này tạo
lại những giá trị để
tâm hướng về mục tiêu
xứng với cái nh́n mới.
Sự áp dụng của tâm cần có
để đạt được
những mục tiêu đó là ư nghĩa
của chánh tư duy.
...
Xem
Tiếp
|
|
Như
thế nào gọi là bạn lành/TT Liễu Tông
giảng
Tùy theo ḿnh muốn nói về phương
diện nào. Đức Phật
dạy chân đế lẫn tục
đế, tức là chế định
pháp và chân đế pháp.
Nếu ḿnh muốn có bạn lành
theo chân đế pháp, tức là
những lộ tŕnh tâm của ḿnh
khi nói, khi làm, khi nghĩ đều là
thiện pháp, th́ lúc đó được
coi như là đă có bạn lành, người
đó đang là bậc thiện trí.
Lúc nào trong lộ tŕnh tâm của ḿnh
mà khi nói, khi nghĩ, khi làm với các
ác pháp th́ lúc đó được
gọi là người đó đang
gần bạn ác, hay chính người
đó là người ác, đó là nói
theo pháp của Đức Phật.
C̣n nói theo pháp của tục đế
bên ngoài th́ bạn lành là người
bạn làm việc thiện và nghĩ
cũng nghĩ điều thiện, nói
cũng nói điều thiện và khi
ḿnh gặp khó khăn th́ họ
tận t́nh giúp đỡ, khi ḿnh có
ác pháp họ không bỏ ḿnh. Đó
là những điều dạy trong bài
kinh Sigalovada.
Xem
Tiếp
|
|
Với
trí tu mà không có kiến thức kinh điển...
TT Giác Đẳng giảng
Có lẽ là phần
đông chúng ta đều quen
thuộc với ư nghĩa của trí
văn và trí tu. Trong Đạo
Phật có nói đến 3 thứ
trí tuệ mà ở trong chữ Hán
gọi là văn huệ, tư
huệ và tu huệ, chúng ta thường
gọi là trí văn, trí tư, và
trí tu.
Văn huệ
được hiểu như
một thứ trí do chúng ta lănh
hội từ lời dạy của
người khác, từ sách báo,
tức là từ cái ǵ chúng ta
học hỏi được
từ bên ngoài.
Tư huệ tức là trí tuệ
do chúng ta suy tư thẩm nghiệm
để thấy biết.
Tu huệ tức là trí huệ do
sự tu tập cho lắng đọng
phiền năo, do chánh niệm, do
định lực những thứ
đó cho phép chúng ta nh́n thấy
sự vật ở một cách khác
đi. Th́ cả ba trí này đều
có vai tṛ đặc biệt của
riêng mỗi thứ.
Xem
Tiếp
|
|
Làm
sao để gần bạn lành - TT Chánh Minh
Bạn
lành ở cuộc đời là
những người có nếp
sống đạo đức,
tức là thân không rơi vào ác
nghiệp, ngữ không rơi vào ác
nghiệp. Và đặc biệt người
bạn lành là khi ḿnh sắp
sửa làm việc tội lỗi th́
ngăn cản liền. C̣n trái
lại khi ḿnh làm việc ác
bất thiện pháp mà người
bạn mà đốc xúi ḿnh làm th́
người này trên danh nghĩa là
bạn nhưng thật sự không
phải là bạn. Đây là
lời dạy của Đức
Phật trong Trường Bộ kinh,
kinh Thầy Giáo Thọ Thi Ca La
Việt. Trái lại người
bạn khi ḿnh sắp sửa vi
phạm vào các ác bất thiện
pháp nào th́ cản ngăn liền
đó là người bạn lành. Và
đối với người
bạn lành khi ḿnh chưa muốn làm
việc thiện đă khuyến khích
ḿnh làm việc thiện, tán
trợ ủng hộ ḿnh th́ đó
là người bạn lành. C̣n
nếu như ḿnh chuẩn bị làm
việc thiện th́ cản ngăn
nói này nói kia, th́ người này
trên danh nghĩa là bạn nhưng
thật sự th́ không phải là
bạn. Đây cũng là lời
Đức Phật dạy ở
trong bài kinh Giáo thọ Thi Ca La
Việt.
Xem
Tiếp
|
|
Sen
mọc giữa bùn tanh/kinh Pháp Cú - TT Giác
Đẳng
Nói một cách
ngắn gọn, trong bài kệ nói lên
một đệ tử Phật
sống giữa cuộc đời
đến và đi không mang một
tâm trạng không có âm mưu nào làm
hại người khác hay có mưu
đồ nào làm cho ḿnh hay hơn
người khác, giỏi hơn người
khác hay vĩ đại hơn người
khác. Người này sống
với tâm hồn rất trong
sạch, Đức Phật ví
dụ tâm hồn trong sạch và trí
tuệ như một đóa
tịnh liên, một đóa sen
nở ,đẹp, thơm từ
trong đống bùn. H́nh ảnh này
là một ví dụ chúng tôi nghĩ
rằng chúng ta có thể t́m
thấy được rất
nhiều người cư sĩ
sống giữa tràn gian trong
những tranh chấp hơn thua và
những người này sống như
một thế ngoại cao nhân,
sống vượt lên trên tất
cả những thế toái ràng
buộc của đời sống.
Như giữa đống bùn nhơ
Quăng bỏ bên đường
lớn
Chỗ ấy hoa sen nở
Thơm sạch đẹp ư người
Cũng vậy giữa quần
sanh
Uế nhiễm, mù, phàm tục
Đệ tử bậc chánh giác
Sáng ngời với tuệ tri
H́nh ảnh này chẳng
những đẹp mà c̣n có ư nghĩa,
và hơn thế nữa là một
điều đáng để chúng
ta suy ngẫm giữa thế
giới quá nhiều sự tranh
chấp ngày hôm nay.
Xem
Tiếp |
|
Thấy
các pháp như thưc - Venerable Nyanaponika
Maha Thera/Access To Insight
Minh Hạnh chuyển ngữ/Ch́a Khóa
Học Phật
Nếu quán sát ngay
cả một khoảng nhỏ nhoi
trong phạm vi rộng lớn
của đời sống, chúng ta
đối diện với nhiều
h́nh thức sống động khác
nhau, bao quát đến nổi không
sao diễn tả hết. Tuy nhiên ba
đặc điểm căn
bản có thể được
nhận thức như là chung cho các
pháp có tri giác, từ một con vi
khuẩn đến loài người,
từ những cảm giác
đơn sơ nhất đến
những tư tưởng của
một thiên tài sáng tạo.
- Vô thường
hoặc là sự thay đổi
- Khổ hoặc là
sự bất măn.
- Vô ngă hoặc là không
có thực chất.
Xem Tiếp |
|
|
|
Ban
Biên Tập dieuphap.com Hoan
hỉ đón nhận
những ư kiến, tài
liệu cũng như bài
viết. Mọi liên lạc
xin gởi về email:
minhhanh49@yahoo.com
|
|
|
|
|
|
|
|
|
|
.
Đề ÁN THÁNG TRƯỚC
LƯU
TRỮ
|
|
|
|