T̀NH ĐỜI Ư ĐẠO
Mục lục
Một Tâm Hồn
Nơi hoàng cung Ca-b́-la-vệ
Đời bằng hữu
Lệnh bà Mahà Pajàpati
Yêu là khổ
Chạy trốn t́nh yêu
Đoạn ĺa phiền năo
Tể tướng
Bandhula và Nhà vua
Nơi rừng Xu-xi
Bản chất Ái dục
Ngôi chùa Kỳ-viên
Năm mỹ tướng
Đại tín nữ Vísàkhà
Phật lực
Phước và Tội
Người thiện, người ác
Một nghĩa cử vô cùng cảm động
Một tấm ḷng
Biểu tượng
Pháp bảo
Công đức tri ân
Lần gặp gỡ sau cùng
Giây phút quyết định
Đại đức Ananđa khóc kể
Tại vườn Long Thọ
Trước giờ
kết tập
Hạnh ngộ bên ao sen
Một chuyện t́nh
Gái đẹp và cha già
Không hạnh phúc nào bằng sự an tịnh
Lời nói
đầu
Ăn cơm có canh tu hành có bạn. Trong hầu hết hoàn cảnh sống, sự kết giao thân cận để có đối tượng tôn thờ, nương tựa là điều tối cần. Thiếu đối tượng, chúng ta sẽ lạc lơng, bơ vơ, cuộc sống trở thành mất hương vị, vô bổ. Bản chất đời sống là t́nh cảm. Lộ tŕnh thành đạt nguyện ước đời sống là lư trí. T́nh cảm thiếu lư trí là t́nh cảm ích kỷ, yếu hèn. Lư trí thiếu t́nh cảm là lư trí lập dị, cực đoan. Sự dung ḥa được hai yếu tố cơ bản này là một đóng góp lớn trong công tŕnh thực hiện một thế giới "Nhân gian cực lạc".
Nếu cuộc đời có cả mật ngọt và mật đắng, có nghĩa địa và có vườn hoa th́ tại sao ta không áo mật ngọt ngoài viên thuốc đắng; và tại sao ta không thiết lập vườn hoa tại nghĩa địa để làm dịu quang cảnh chết chóc thê lương, hoặc tại sao ta không trồng hoa dọc theo con đường đưa đến nghĩa trang để mọi người thưởng ngoạn. Cái ư nghĩa đích thực của cuộc sống là ở chổ đó.
Nếu biển cả có những hải triều gào thét liên hồi, xô đẩy mảnh liệt, th́ cũng có những cánh buồm căng gió nhảy sóng nhịp nhàng, nhấp nhô ẩn hiện khiến nhà thơ tức cảnh sanh t́nh.
Cái vui của đời tại ḿnh ích kỷ muốn ôm giữ làm của riêng nên nguồn vui không được rộng tỏa, cái vui bị giới hạn, không được cùng nhau san sẻ. C̣n cái khổ th́ cố t́nh xô đuổi một ḿnh, xô đuổi không được th́ bực ḷng khổ sở v́ thiếu người thông cảm sớt chia. Chúng ta quên rằng cái vui th́ bao la như bầu trời, cái khổ th́ mênh mông như biển cả. Hăy để bầu trời cho không gian, hăy để biển cả cho nguyên vị. Đừng ngây thơ phí sức trong hành động lấp bể vá trời.
Đi ngược sự thật là chuốc lấy đau khổ. Thái độ khôn ngoan để khỏi bị đau khổ là dám chấp nhận sự thật, hoặc không chối bỏ sự thật. Mà sự thật đấy là có cả mật ngọt và mật đắng trong cuộc đời.
Để có đối tượng tôn thờ, nương tựa, chúng ta hăy quay về chánh pháp, quay về cuộc sống nội tâm. Bản tánh nguyên thủy vốn trong sáng nhưng v́ chúng ta vô t́nh chối bỏ không bám víu để làm đối tượng nên chúng ta bị đẩy ra khỏi ánh sáng. Do đó, đời sống mịt mờ, tương lai tắt nghẻn.
Như đă nói: t́nh cảm và lư trí là hai yếu tố vô cùng quan thiết. Phối hợp nhịp nhàng được cả hai là chúng ta đă có đối tượng sống.
T́nh cảm và lư trí từ con người mà có. Vậy đối tượng cuộc sống là con người. Đức Phật là chứng nhân đă dung hợp và thực nghiệm có kết quả.
Sự dung hợp của Đức Phật không có tính cách cố định. Không nhất đáng lư trí phải thắng t́nh cảm hay ngược lại. Mà tất cả tùy thuộc nhân duyên. Nếu nhân duyên thích hợp với t́nh cảm th́ Ngài dùng t́nh cảm trước, c̣n nhân duyên ứng dụng với lư trí th́ Ngài áp dụng lư trí. Cái trước và cái sau của Đức Phật được thể hiện một cách diệu dụng.
V́ vậy, trên phương diện nhập thế dẫn đạo, Đức Phật và hàng môn đệ cũng linh động khế lư tùy cơ. Trường hợp Đức Phật nhất quyết không chấp nhận dùng cháo của Đại đức Ananda, không nhận thực phẩm của thầy Subhadda v.v... chứng tỏ thái độ cứng rắn, dùng lư trí trước t́nh cảm. Trường hợp Ngài đích thân qua Tây cung để an ủi Da-du-đà-la hoặc cho phép thiếu nữ Kokilà vào hầu v.v... chứng tỏ thái độ mềm dẽo, dùng t́nh cảm trước lư trí.
Con nhà tông không giống lông cũng giống cánh. Hàng môn đệ của Ngài cũng đă thành công nhờ nguyên tắc căn bản: "Tùy duyên bất biến" này. Điển h́nh là Đại đức Ananđa mà nội dung quyển sách nhỏ này đề cập đến một phần lớn. Chẳng hạn như lúc c̣n là công tử, Đại đức cũng đă cứng rắn và quyết liệt trong vấn đề cử phái đoàn đi thỉnh Phật, và quyết định một ḷng xuất gia theo Phật. Sau khi xuất gia, Đại đức đă noi gương Đức Phật trong công cuộc độ đời. Có lúc Đại đức tỏ ra cứng rắn dứt khoát như trường hợp quyết hy sinh mạng sống thay cho Đức Phật. Sự quyết tâm bất chuyển của Đại đức đă được minh định như sau khi Đức Phật 3 lần bảo lùi lại sau mà Đại đức vẫn bất động trong tư thế quyết tử. Đây là sự dung hợp t́nh cảm lư trí một cách nhịp nhàng trong sự rung cảm chân thành của con tim và sự khẳng định thuần lư của khối óc.
Có khi Đại đức phải khổ cực trong vấn đề tiếp độ mà lộ tŕnh được dẫn đầu bằng t́nh cảm. Chẳng hạn như thái độ thực sự mềm dẽo của Đại đức trong câu chuyện tiếp độ thiếu nữ Kokilà, thái độ tích cực năn nỉ Đức Phật cho phép nữ giới được xuất gia, thái độ chịu khó ngồi nghe hoàng tử Tứ Binh kể chuyện t́nh ái v.v... Tất cả biểu lộ khả năng tiếp nhận để khơi nguồn cho gịng suối giác ngộ. Và cũng chính đó là những nét độc đáo, thực tế, thực nghiệm, và thực chứng của Đạo Phật.
Thân thế, sự nghiệp và công tŕnh đóng góp lớn lao cho Đạo pháp của Đại đức đă được ghi đậm trong trang sử đạo, sáng ngời qua thời gian và không gian.
Chúng tôi nhận thấy tác phẩm hữu ích có tánh cách thời đại nên cố gắng soạn dịch. Về nội dung và chương mục th́ chúng tôi có mạn phép bỏ bớt để phù hợp với tâm t́nh của người Việt Nam.
Chúng tôi cảm thấy ngần ngại, băng khoăn trong việc thời đại hóa những sự kiện liên hệ đến một nhân vật lịch sử, một vị Thánh Tăng như Đại đức Ananda.
Tuy nhiên, chúng tôi tự biện hộ rằng dù sao quyển sách nhỏ này cũng góp phần khiêm tốn trong việc đầu tư kiến thức đạo đức vào đời sống anh, chị, em thanh niên, thiếu nữ có dịp thưởng ngoạn sắc hương của vườn hoa đạo.
Tất cả sự kiện
được mô tả ở đây là những tấm
gương sáng phản ảnh trung thực t́nh
người, t́nh thầy tṛ, t́nh đạo bạn. Do
đó, chúng tôi đặt tên quyển sách: "T́nh
Đời, Ư Đạo"
Trích từ web site Quảng Đức .
Trở Lại Trang Truyện Ngắn
Trở lại Trang Chánh