T̀NH ĐỜI Ư ĐẠO
T́nh
đời, Ư đạo
(Cuộc đời Thánh tăng Ananda)
Ḥa thượng Hộ Giác
Phần 2
Yêu là khổ
Ngoài bản chất từ bi hay thương người và sẵn sàng cảm thông giúp đỡ, Đại đức Ananđa rất khiêm nhă, phong cách uy nghi, lại thêm sắc diện sáng tươi khả ái đă vô t́nh khiến cho một thiếu nữ say mê cuồng nhiệt. Câu chuyện như vầy:
Có một hôm mùa hè nóng bức, Đại đức hữu sự đi đường xa, lúc trở về Kỳ viên tịnh xá ánh nắng gay gắt như đốt cháy thịt da, khiến Đại đức khát nước khô cổ, mồ hôi nhễ nhại. Vừa lúc ấy, một thiếu nữ đang xách nước xuất hiện như một cứu tinh. Quá vui mừng, Đại đức đến gần và lên tiếng:
- Này tín nữ, bần đạo đi đường xa nên khát nước, nếu không thấy phiền xin tín nữ vui ḷng cho bần đạo ít nước giải khát.
Nghe lời nói vô cùng lịch sự tao nhă, thiếu nữ ngước lên nh́n, nàng giựt ḿnh mất b́nh tĩnh, vừa bước lui vừa nói:
- Thưa Đại đức, tôi không dám dâng
nước cho Đại đức đâu. Đại đức
cũng không nên uống nước này v́ Đại đức
là ḍng dơi quí tộc, c̣n tôi là ḍng nô lệ thấp hèn.
- Tín nữ không nên nghĩ như vậy. Bần đạo
là người vô giai cấp. Bần đạo là Thích
tử Sa môn chứ không phải vua chúa, bà la môn,
thương gia hay lao động, mà chỉ là một con
người như tín nữ vậy.
- Tôi chỉ sợ làm hoen ố đến Đại
đức v́ Đại đức nhận nước từ
tay người khác giai cấp, mà kẻ ấy lại là
tôi, một giai cấp hèn hạ, nô tỳ và chính cá nhân tôi
cũng bị đắc tội. Chớ thực ra tôi
đâu tiếc rẻ ǵ với Đại đức - Nàng
trả lời với giọng nhẹ nhàng và xúc
động.
- Tín nữ này, sự hoen ố và tội lỗi không bao
giờ có nơi người nặng ḷng từ bi và
nhiều nhân ái. Sự hoen ố và tội lỗi chỉ có
trong hành vi bất thiện. Như vấn đề này,
bần đạo là người xin nước, tín nữ
là người thí nước, tất cả đều là
hành động đạo lư, mà hành động đạo
lư th́ không thể bị hoen ố và có tội, trái lại nó
là chất nước trong sạch để tẩy
rửa những vật dơ bẩn. Truyền thống
giai cấp mà Bà la môn giáo chủ xướng không tạo
được sự b́nh đẳng mà chỉ tạo thêm
sự ngăn cách, làm tổn thương nhân phẩm.
Đức Tôn Sư của bần đạo có dạy rằng:
không có giai cấp trong ḍng máu cùng đỏ, không có sự
bất b́nh đẳng trong giọt nước mắt cùng
mặn. Tất cả sự thật, bần đạo
đă giải bày, nếu tín nữ có thể cho
được th́ xin đổ nước vào cái bát này.
Nàng cảm thấy thấm thía, ngọt ngào qua lời nói vừa thành thật vừa hữu lư của Đại đức. Đấy là lần đầu tiên trong đời bất hạnh của nàng mới được nghe, nhất là lời nói đó phát xuất từ con người, mà đời cho là thượng lưu quí tộc. Dư âm lời nói dường như cứ ngân nhẹ trong tai nàng. Bàn tay dịu dàng, trịnh trọng đổ nước vào bát Đại đức trong tư thế qú một chân, c̣n Đại đức Ananđa th́ đứng cúi xuống nhận nước và uống một cách ngon lành. Nàng ngước nh́n Đại đức uống nước mà niềm vui tràn ngập cả tâm hồn.
Uống xong Đại đức phúc chúc:
- Cầu cho tín nữ được nhiều hạnh phúc.
Nàng nghiêng thùng nước và mời:
- Bạch Đại đức, xin Đại
đức uống thêm cho thật hết khát.
- Vừa đủ rồi tín nữ ạ!
- Bạch Đại đức, làm sao tôi có hân hạnh
được biết quí danh Đại đức?
- Tín nữ có từng nghe Ananđa, thị giả của
Đức Phật bao giờ chưa?
- Dạ có.
- Có từng thấy mặt không?
- Dạ không.
- Chính tín nữ đang tiếp chuyện với Ananđa
đó.
Nàng bàng hoàng v́ sung sướng ngập ḷng. Quả thật, nàng chưa bao giờ dám mơ ước được thấy mặt con người bằng xương bằng thịt huống chi được hầu chuyện cùng Đại đức Thị giả của Đức Thế Tôn. Hào quang của sự sung sướng tỏa chiếu ra ngoài sắc mặt và ánh mắt. Nàng nói thật nhẹ, giọng nói hơi run:
- Bạch Đại đức, thật là một diễm phúc lớn cho tôi được gặp Đại đức, người có giới hạnh, có danh vị mà tôi cứ tưởng là ḿnh nằm mộng.
Đại đức Ananđa từ giă nàng và về Kỳ Viên tịnh xá. Được một đổi đường, Đại đức nghe tiếng chân người phía sau, bèn quay lại nh́n th́ thấy thiếu nữ ban năy. Đinh ninh nhà cô ta ở cùng đường, nên Đại đức cứ tiếp tục đi, không nghi ngờ chi cả. Nhưng khi đến gần cổng chùa không c̣n ngă rẻ, Đại đức quay nh́n lại, vẫn thấy nàng lẽo đẽo theo sau, cặp mắt đắm đuối nh́n ḿnh, bèn dừng bước, chờ nàng đến gần, và hỏi:
- Tín nữ đi về đâu?
- Dạ, tôi đi về chùa Kỳ viên.
- Tín nữ vào đó để làm ǵ?
- Để được gặp Đại đức và tṛ chuyện
với Đại đức.
- Tín nữ không nên vào đây nếu không có lư do chính đáng,
v́ đây là chỗ ở của chư tăng. Tốt
hơn, tín nữ nên về nhà.
- Tôi không về nhà nữa. Tôi thương Đại
đức. Đời tôi chưa bao giờ gặp ai khả
kính, khả ái như Đại đức.
- Này tín nữ, Đức Tôn Sư dạy rằng: muốn
biết người tốt xấu phải ở chung lâu
ngày, nhận xét vô tư và phải phán quyết sáng suốt.
Ở đây, tín nữ mới gặp bần đạo
một lần th́ làm sao dám quả quyết là bần
đạo khả kính, khả ái. Nếu bần đạo
đă mượn danh Đại đức Ananđa, th́ tín nữ
nghĩ sao? Thôi tín nữ hăy về nhà, đừng vào chùa
bất tiện lắm.
- Dù Đại đức là ai, tôi vẫn thương Đại
đức.
- Tín nữ, Đức Tôn Sư dạy rằng: yêu là khổ.
Yêu sanh ra lo sợ. Yêu là nguồn gốc của mọi
tội lỗi. Tín nữ không sợ khổ sao?
- Thưa Đại đức, tôi sợ khổ và không
muốn bị khổ. Mọi người trên thế gian
cũng như tôi. Tuy nhiên, tôi muốn được
thương yêu đặc biệt là yêu thương
Đại đức.
- Làm sao được hở tín nữ? V́ nhân quả lúc nào
cũng liên quan mật thiết. Cái nhân thương đă
gieo, th́ cái quả khổ phải gặt.
- Đại đức nói vậy, chớ tôi nào thấy
khổ. Tôi chỉ thấy vui sướng và hạnh phúc khi
được gặp gỡ, chuyện tṛ với Đại
đức, người mà tôi yêu thương, quí kính
nhất đời.
- Nếu sau này không gặp bần đạo nữa th́ tín
nữ có khổ không?
- Chắc chắn là phải khổ nhiều lắm.
- Như vậy chứng tỏ yêu là khổ.
- Không phải vậy. Đó là do sự xa cách người
thương, chớ không phải do bản chất sự
thương yêu.
- Nếu xa cách người không thương th́ có khổ
không ?
- Dạ không.
- Này tín nữ, như vậy tín nữ đă tự thú
nhận rằng chính sự thương yêu là nguyên nhân
của đau khổ.
- Bạch Đại đức, sự đau khổ mà Đại
đức vừa nói đó là sự đau khổ của
người không được thương yêu, nếu
được thương yêu th́ đâu có khổ.
- Tín nữ đă từng được yêu thương
lần nào chưa?
- Từ trước th́ chưa.
- Nếu chưa từng được yêu thương th́
tín nữ làm sao biết chắc là không đau khổ.
Người bốc lửa dù cố ư hay vô t́nh cùng bị
nóng phải không tín nữ?
- Dạ phải.
- Vậy th́ cái khôn ngoan nhất là đừng bốc
lửa th́ không nóng, cũng như không yêu là không khổ.
- Bạch Đại đức, dù Đại đức có
giải thích cách nào tôi cũng yêu Đại đức. Nếu
Đại đức không chấp nhận t́nh yêu đơn
phương của tôi, th́ Đại đức cứ
nhận tôi như một người giúp việc trung thành
để tôi được phục dịch Đại
đức và riêng tôi cũng cảm thấy hạnh phúc và
măn nguyện.
- Thật tội cho tín nữ quá! Tại sao tín nữ
lại thương một người như bần
đạo, trong khi t́nh thương yêu của bần
đạo đă hiến dâng trọn vẹn cho Đức Tôn Sư
rồi. Thú thật với tín nữ, trái tim bần
đạo không c̣n khoảng trống. Bần đạo
cũng không thể chấp nhận tín nữ như
người giúp việc, v́ điều này Đức Tôn Sư
đă cấm chỉ. Bần đạo thông cảm nỗi
ḷng tín nữ, song bần đạo không thể
vượt ra ngoài khuôn khổ luật định. Tín
nữ hăy về đi. Không khéo chư vị tỳ kheo,
sa-di thấy được th́ họ sẽ chê trách bần
đạo. Vả lại, nơi đây rất gần
hương thất Đức Bổn Sư. Tín nữ hăy nên
tự trọng.
Đức Bổn Sư nghe rơ câu chuyện đối đáp giữa hai người, bèn lên tiếng hỏi:
- Chuyện ǵ đó Anan?
- Bạch Thế Tôn, một thiếu nữ đ̣i theo
đệ tử vào chùa.
- Hăy cho cô ta vào, và dẫn đến đây gặp Như
Lai.
Đại đức Ananđa hướng dẫn thiếu nữ vào bái kiến Đức Phật. Đức Tôn sư hỏi:
- Ananđa, câu chuyện xảy ra thế nào mà cô đây đ̣i theo ngươi vào chùa?
Sau khi nghe Đại đức Ananđa tường thuật, Đức Tôn Sư hỏi thiếu nữ:
- Này tín nữ, tín nữ thương
Ananđa phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn phải.
- Tín nữ thương chổ nào?
- Đệ tử thương cặp mắt.
- Tín nữ này, mắt là nơi qui tụ một số
thần kinh hệ và hai cục thịt mềm, chứa
đựng nhiều trược chất: nước
mắt, cức ghèn, nước nhờn và mủ máu.
Vậy tín nữ c̣n thương cặp mắt của
Ananđa nữa không?
- Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy th́ đệ
tử thương cái mũi của Ananđa.
- Này tín nữ, cái mũi cũng là nơi liên kết một
số thần kinh hệ, bên trong chứa nhiều
trược chất: nước mũi, cức mũi,
nước nhờn... và rất hôi hám. Vậy tín nữ c̣n
thương cái mũi của Ananđa nữa không?
Nàng mắc cở, đâm liều, cứ nói thương cái này đến thương cái khác. Nàng nói thương bộ phận nào th́ Đức Tôn Sư đều giải thích cái uế trược của nó. Cuối cùng nàng cúi đầu yên lặng. Đức Phật dạy:
- Tín nữ ơi, xác thân này chỉ là cái bị da, được tạo dựng lên bằng xương thịt và máu mủ, các vật uế trược thường trực chảy theo cửu khiếu, là nhà trọ, là nghĩa trang của các loại sinh trùng, là ổ bịnh tật, là nhà vệ sinh cố định, nếu không chịu khó rửa ráy thường xuyên th́ mùi hôi thúi sẽ xông ra tức khắc. Tín nữ ơi, xác thân này sở dĩ đẹp đẽ là nhờ da thịt bên ngoài che đậy các vật uế trược bên trong, cũng như quan tài được sơn phết màu mè, được trau chuốt trơn láng mà bên trong là tử thi hôi thúi. Không ai ưa thích quan tài có tử thi śnh thúi. Vậy tại sao tín nữ lại ưa thích xác thân có nhiều trược chất và sinh trùng?
Lẽ ra, giọt nước cành dương đă rủ sạch ḷng trần. Nhưng tội nghiệp nàng, v́ nàng quá thương yêu Đại đức Ananđa, thương đắm đuối, cuồng nhiệt, quên thân phận hiện tại, quên cuộc sống cách ngăn, quên cả sự hiện diện tôn quí và pháp âm mầu nhiệm của Đức Bổn Sư. Tâm trạng nàng chỉ nghĩ đến Đại đức Ananđa. Trái tim nàng chỉ có h́nh ảnh độc nhất của người nàng yêu. Quả thật t́nh yêu của nàng là t́nh yêu đơn phương, song nàng bất chấp, v́ trong cái cay đắng ấy nàng vẫn cảm thấy thú vị ngọt ngào.
Thỉnh thoảng, ánh sáng chánh pháp lóe lên trong tâm hồn nàng, rồi vụt tắt thật nhanh như điện trời. Nàng như chiếc xe tuột dốc mà bộ phận thắng đă hư. Lửa ái dục đang bốc cháy rực trời mà nước cam lồ chưa dập tắt được. Nàng suy nghĩ lung lắm, t́m phương cách nào để được gần gủi Đại đức Ananđa nhưng vấn đề hoàn toàn bế tắt. Thất vọng nàng bái biệt Đức Phật ra về. Nàng cũng không quên liếc nh́n Đại đức Ananđa như trao gởi hẹn ḥ.
Thời gian nàng gặp gỡ Đại đức Ananđa rồi theo Đại đức về chùa bái kiến Đức Phật đă hết nữa ngày. Trời chiều băng lăng. Nàng phập pḥng lo sợ sự vắng mặt quá lâu của ḿnh sẽ trở nên đại tội nếu chủ nhà cần gọi. V́ đă có lần nàng bị hành hạ tàn nhẫn chỉ v́ cái lỗi này. Thật tội nghiệp cho thân phận và kiếp sống tôi đ̣i.
Nhưng may mắn làm sao! Suốt thời gian ấy chủ nhà tuyệt nhiên không gọi đến nàng. Một sự kiện ngoại lệ. Có lẽ đây là Phật lực.
Đêm ấy nàng Cô-ki-la trằn trọc, thao thức suốt canh trường. Mở mắt th́ nóng rát, mệt mỏi; nhắm mắt th́ h́nh ảnh Đại đức Ananđa hiện lên như thiên thần bất tử. Giác quan thứ sáu của nàng gần như không c̣n đối tượng, ngoại trừ h́nh ảnh của Đại đức Ananđa. Nàng tâm niệm tên Đại đức liên tục không gián đoạn, như tín đồ ngoan đạo niệm hồng danh Đức Bổn Sư. Thỉnh thoảng h́nh ảnh từ bi thanh tịnh của Đức Bổn Sư hiện lên trong tiềm thức và nàng cũng cảm thấy yên tịnh đôi phần. Nàng cũng có cảm giác của khách lữ hành giữa trưa hè nắng gắt được núp bóng tàn cây. Nhưng cuối cùng h́nh ảnh từ bi, thanh tịnh của Đức Phật mờ dần, nhường cho h́nh ảnh khả ái của Đại đức Ananđa ngự trị. Tội nghiệp, nàng hoàn toàn bất lực trước trận giặc t́nh, nên đă tự mâu thuẩn với nổi niềm riêng.
Tiếng gà đă gáy sang canh. Tiếng gáy thúc dục, liên hồi báo hiệu b́nh minh mới. Gió mai thổi hơi sương luồn qua cửa sổ khiến nàng cảm thấy phấn khởi và tỉnh táo. Nàng đứng lên cởi bỏ áo choàng, chuẩn bị thức ăn sáng cho chủ. Mặc dù bận rộn, nàng vẫn không quên được h́nh bóng của Đại đức Ananđa. Nàng thầm van vái thần linh xui khiến cho Đại đức sáng nay đi khất thực ngang qua nhà nàng đang ở.
Nắng mai khiến nàng dễ chịu. Làm xong bổn phận, nàng ra đứng trước cửa, cặp mắt mơ màng, nh́n xa xăm. Bỗng nàng trông thấy một vị tỳ kheo ni, tay ôm b́nh bát, ḿnh mặc áo cà-sa đang đi khất thực và tiến tới nhà nàng. Một ư nghĩ khác thường thoáng hiện qua tâm thức, khiến nàng sung sướng như bắt được vàng.
- Tỳ kheo ni! Ta sẽ xuất gia làm tỳ kheo ni, sẽ được ở gần Kỳ viên tịnh xá, sẽ có cơ hội gặp gỡ chuyện tṛ với người thương.
Quyết định xong, nàng xin nghỉ việc, đến chùa bái kiến Đức Thế Tôn và xin xuất gia. Đức Thế Tôn thấy rơ thiện duyên thánh quả của nàng nên Ngài hoan hỉ chấp thuận và cho ở chung với ni chúng gần Kỳ viên tịnh xá. Sau khi xuất gia, tân ni cô tích cực học tập, làu thông kinh luật, hạnh kiểm trang nghiêm, thu thúc lục căn, sống ḥa ḿnh, có kỷ cương và rất đẹp ḷng ni chúng. Yếu tố giúp nàng thành công trong nếp sống phạm hạnh là đức tính trầm lặng.
Mặc dù tinh tiến vượt bực nhưng nàng cũng không tránh khỏi xao xuyến khi Đại đức Ananđa đến dạy đạo tại ni viện mỗi buổi chiều. Có một lần, nàng được nghe Đức Bổn Sư thuyết pháp về phiền năo là tham ái, sân hận và si mê. Ngài dạy:
- Cả ba thứ phiền năo đều thiêu đốt chúng sanh thường trực, nhất là hạng chúng sanh chịu dưới quyền sai sử của nó. Nhưng tính chất khinh trọng khác nhau: tham ái tội nhẹ, khó diệt. Sân hận tội nặng dễ trừ. Si mê vừa nặng tội vừa khó dứt. Người xuất gia, mặc dù cuộc sống xa cách tham ái nhưng nếu tâm hồn c̣n bị sai sử th́ con đường giải thoát vẫn c̣n ngưng trệ. Ví như khúc gỗ tươi, dù để nơi khô ráo cũng không phải là nhiên liệu phát hỏa.
Nghe xong bài pháp, nàng lănh hội trọn vẹn và cảm nhận sâu xa. Nàng tự thẹn, v́ thấy mục đích xuất gia của ḿnh không phải để tẩy trừ phiền năo hoặc để liễu ngộ Niết bàn mà chỉ v́ muốn được gần gủi người yêu. Quả thật ḿnh đă hành động liều lĩnh, thiếu sáng suốt, v́ như thế có khác nào để dầu gần lửa, tránh sao cho khỏi bốc cháy một sớm một chiều.
Càng suy nghĩ càng xao xuyến, hoang mang. Vả lại, nàng cũng chưa thấy Đại đức Ananđa có một cử chỉ đặc biệt nào đối với nàng. Đành rằng sự gặp gở người yêu là hạnh phúc, song hạnh phúc ấy quá nhỏ nhoi nếu đem so sánh với nỗi buồn cô đơn dầy xéo, và nỗi khổ đọa đầy của kiếp sống cách ngăn. Chiếc áo cà-sa là bức tường ngăn cách giữa nàng và Đại đức. Một sự ngăn cách hữu h́nh, nhưng không thể san bằng vượt thoát. Nàng cảm tưởng như bất thần bị tạt nước đá vào mặt. Tâm trạng nàng chán chường tuyệt vọng.
Nàng cố quên Đại đức Ananđa bằng cách tích cực trau dồi kinh luật. Nàng rất sợ sự gián đoạn của thời gian và khoảng trống của không gian. Tuy đă cố gắng và phấn đấu nhưng h́nh ảnh Đại đức Ananđa cứ hiện lên như thiên thần đối diện. Nàng hoàn toàn bất lực trong ư niệm chạy trốn t́nh yêu. V́ t́nh yêu là nam châm mà trái tim nàng là một loại kim khí.
Một hôm, nàng đưa một cô ni bạn đến gặp Đại đức. Vốn bẩm tánh nhă nhặn lịch sự, Đại đức tiếp nàng rất niềm nở, đạo t́nh. Nàng sung sướng và vui mừng chi xiết. Nàng cảm thấy cuộc đời sáng tươi, đáng yêu, đáng sống. Tâm trạng nàng như hoa xuân đang nở rộ, như lúa háp gặp mưa. Nhưng trước khi nàng ra về, Đại đức nhắc khéo:
- Này cô, từ nay, nếu không có lư do chính đáng th́ cô đừng nên đến đây. C̣n nếu có điều chi thắc mắc liên quan đến giáo lư, th́ nên hỏi, khi tôi đến dạy đạo tại quí viện.
Đêm ấy nàng đă khóc rất nhiều. Có lẽ, nước mắt đă chảy ra suốt đêm trường. Nàng cảm thấy vừa buồn khổ, vừa tủi hờn, vừa đau đớn. Sự đau khổ trào dâng, nàng uất nghẹn nói một ḿnh đứt quảng:
- Phải mà, ông ta có bao giờ nghĩ đến ḿnh đâu. Ḷng dạ ǵ mà như sắt đá!
Một ni cô ngủ gần nghe tiếng nấc giữa đêm khuya, bèn lật đật đến hỏi:
- Kokilà, có sao không?
- À, không có sao, Sumitra. Tôi vừa trải qua cơn ác mộng
khủng khiếp quá. Thành thật cám ơn Sumitrà đă
thương t́nh lo lắng cho tôi.
- Đức Phật dạy, người răi ḷng từ bi
sẽ không nằm thấy ác mộng. Kokilà có nhập
từ bi quán trước khi ngủ không?
- À, vậy là trước khi ngủ phải răi ḷng từ
bi th́ sẽ không nằm mơ thấy ác mộng phải
không?
- Phải.
- Đêm nay, trước khi ngủ tôi đă quên, không nhập
từ bi quán. Tôi thành thật xin lỗi v́ đă vô t́nh làm
kinh động giấc ngủ Sumitrà.
Sau khi Sumitrà đi rồi, Kokilà nghĩ đến thân phận bèo bọt của ḿnh. Quả thật đời nàng là một chuổi dài bất hạnh. Lúc chưa xuất gia th́ nàng là một kẻ nô tỳ bằng thể xác, đến khi được xuất gia th́ nô lệ bằng tâm hồn. Thật vậy, người bị mắc bẫy t́nh th́ tha nhân không gỡ được mà phải tự lực giải thoát. Nàng chợp mắt trong t́nh trạng uể oải, mỏi ṃn khi trời gần sáng.
Chạy trốn t́nh yêu
Cuối cùng, nàng không đủ can đảm chịu đựng nhiều hơn v́ sức người có hạn. Nàng dứt khoát xin phép Đức Bổn Sư và Đại đức Ananđa, từ giă ni chúng đồng đạo, ra đi sang xứ Cô-sâm-bi ( Kosambi) và tạm ngụ tại chùa Khô-si-ta-ra-má (Ghośtàrama) với ư niệm, sự xa cách là phương thuốc nhiệm mầu để xoa dịu niềm đau t́nh ái. Trước phút ra đi, nàng cảm thấy xao xuyến bồi hồi.
Nàng an cư kiết hạ tại một ni viện gần chùa Khô-si-tà-rà-ma do ông Bá hộ Khô-si-ta cúng dường Đức Bổn Sư. Suốt ba tháng sống xa Đại đức Ananđa, tâm hồn nàng tương đối yên tịnh. Đạo hạnh tăng tiến khả quan. Nàng tin tưởng rồi đây sự nhớ thương sẽ có cơ giảm thiểu.
Tuy nhiên, t́nh yêu lúc nào cũng có cái lẩn quẩn của nó, trừ phi, tự nó tan biến hay bị thời gian đào thải. Đời sống lắm rắc rối, đầy cạm bẫy và nhiều mâu thuẩn. Chẳng hạn như, ta chạy theo vật sở thích th́ nó lánh xa; ta không cần th́ nó đến.
Cũng như bóng với h́nh; h́nh t́m bóng th́ bóng lẫn trốn; h́nh lẫn trốn th́ bóng không rời.
Chính cái thông lệ ấy đă đến với Cô-ki-là khi hay tin Đức Bổn Sư sẽ quang lâm Cô-sâm-bi và Đại đức Ananđa sẽ là thị giả.
Tin này được loan truyền vô cùng nhanh chóng. Từ thành thị đến thôn quê, đâu đâu cũng nghe bàn tán và ai ai cũng sốt ruột mong cho mau đến ngày hội ngộ cùng Đức Bổn Sư. Đức vua U-đê-na mặc dù chưa được diện kiến Đức Bổn Sư, cũng vui mừng ra mặt.
Nhóm Lục sư ngoại đạo th́ chuẩn bị vấn nạn. Có vị quyết ăn thua, có vị muốn t́m hiểu để so sánh, có vị muốn phô trương, có vị chỉ muốn tiêu khiển. Chư vị phàm tăng th́ hy vọng được gội nhuần mưa pháp.
Trong lúc đó, nào ai biết được tâm trạng Cô-ki-là khi một cô ni bạn đến báo tin mừng:
- Cô-ki-là, cô có hay tin Đức Bổn Sư
sẽ quang lâm đến đây không?
- Thật vậy hả cô, chắc Đức Bổn Sư
quang lâm một ḿnh?
- Đức Bổn Sư đâu có quang lâm một ḿnh. Ai ai
cũng biết Đức Bổn Sư quang lâm đến
đâu th́ cũng có số đông tỳ kheo tháp tùng
đến đó và vị thị giả là Đại
đức Ananđa.
- Đại đức Ananđa! - Nàng la lớn và lấy tay
đè ngực.
- Có chuyện ǵ hở Cô-ki-là. Tại sao cô hoảng hốt?
- Không. Đâu có chuyện ǵ. Tại tôi quá vui mừng, quá xúc
động nên mất b́nh tĩnh.
- Mọi người đều vui mừng như vậy.
Chúng ta chắc chắn sẽ được lănh hội
giáo lư cao siêu mầu nhiệm từ kim khẩu Đức
Bổn Sư hoặc do chư Đại đức Xá Lợi
Phất, Đại đức Ca Diếp hoặc Đại
đức Ananđa phụ tráchg thuyết giảng.
Ngày chờ đợi đă đến. Đức Tôn Sư và số chư vị thánh tăng tháp tùng đă đến Cô- sâm- bi. Đức vua, văn quan, vơ tướng, thân hào, nhân sĩ, Sa-môn, Bà la môn, đón rước Đức Bổn Sư vô cùng trọng thể. Riêng dân chúng th́ tự động đứng làm hàng rào danh dự, tay cầm hoa thơm và các thứ hương liệu cúng dường Đức Bổn Sư trên khoảng đường dài nhiều dặm. Hoa tươi đầy đường. Hương thơm ngào ngạt. Đức Bổn Sư và chư tháng tăng gần như đi trên lớp hoa mềm.
Từ ngoài cổng chùa, tỳ kheo, tỳ kheo ni đă vân tập qú đănh lễ Đức Bổn Sư vô cùng trang trọng. Nỗi vui mừng gần như phỉ lạc. Toàn thể đều hướng nh́n về phía Đức Bổn Sư và Đại đức Ananđa để chiêm ngưỡng. Trong số ấy, người chiêm ngưỡng Đại đức nhiều nhất là Cô-ki-là.
Vừa gặp lại Đại đức Ananđa, sự yêu thương tự nhiên bừng sống dậy như cỏ héo gặp mưa. V́ đă ba tháng rồi, ba tháng dài vắng bóng người thương - Giờ th́ người thương bằng xương bằng thịt đang ở trước mắt. Và trong khung cảnh tưng bừng, khấp khởi ấy, mọi người đều chiêm ngưỡng người thương, th́ bảo sao nàng không vừa hănh diện vừa ghen tức cho được.
Nàng tách khỏi đám đông về tư pḥng, tim nàng đau nhói như bị kim châm, muối xát. Nàng thầm nghĩ: "Trên thế gian này, không lửa nào nóng bằng lửa dục ái! "
Thật vậy, tiếng gọi của t́nh yêu lúc nào cũng thúc dục liên hồi như tiếng kèn xung trận. Sức mạnh của t́nh yêu là vô địch. Không có sự chinh phục nào tốc chiến, tốc thắng bằng cuộc chinh phục của t́nh yêu. Đạo binh t́nh yêu chỉ có thể bại trận trước đạo binh Thánh đạo. Ngoài đạo binh thiện chiến này ra, không một đạo binh nào đủ sức chiến đấu, chớ đừng nói đến vấn đề thủ thắng. Trận giặc t́nh yêu không có chiến tuyến. Đúng hơn là một cuộc nổi loạn, một cuộc đột kích bất thần, một trận băo ḷng thần tốc.
Có hai yếu tố thúc đẩy hành động: một là trách nhiệm, hai là tiếng ḷng. Yếu tố trước nếu bất thành, người ta đau khổ, nhưng tương đối nhẹ nhàng. C̣n yếu tố thứ hai, nếu bất thành th́ hậu quả của nó là thất vọng, tuyệt t́nh, quyên sinh, tự ải.
Tội nghiệp Cô-ki-là! Nàng phải chiến đấu một lúc trong hai trận tuyến. Trách nhiệm của nàng hiện tại là học đạo, hành đạo và thành tựu cứu cánh của đạo. Nàng không c̣n là một thiếu nữ tầm thường, mà là một ni cô xuất gia đầu Phật. Nếp sống thiền môn cũng đă giúp nàng quen mùi thiền vị. Sự luyến ái nam nữ sẽ phá hủy toàn bộ yếu tố trách nhiệm. Nhưng tội cho nàng! Tiếng gọi t́nh yêu lại thúc dục liên hồi như nhịp khúc hành quân, và cũng thiết tha mê hồn như khúc nhạc t́nh liêu trai thần thoại. Nàng không c̣n đủ sáng suốt để phân tích lợi hại. Quả thật trong thâm tâm nàng không muốn có sự thắng bại giữa trách nhiệm và tiếng ḷng. V́ nếu trách nhiệm thắng th́ nàng sẽ tuyệt t́nh, c̣n tiếng ḷng thắng th́ nàng sẽ mất đạo.
Tâm lư nữ giới thường hay hướng ngoại. Một khi đă yêu th́ không phân biệt địa vị, hoàn cảnh. Mặc dù biết rằng t́nh yêu đơn phương của ḿnh là tuyệt vọng nhưng nàng không lùi bước.
Ngày Đức Phật quang lâm đến, chính đêm ấy nàng xót xa và hờn tủi nhiều. V́ nàng thấy vua, quan, thân hào, nhân sĩ, bá hộ, thương gia, đủ thành phần giai cấp xă hội kéo nhau đến bái kiến Đức Phật như gịng suối chảy, trong số ấy nhiều nhất là nữ giới, mà nàng biết chắc rằng họ sẽ chuyện tṛ với Đại đức Ananđa trước khi vào bái kiến Đức Phật. Và Đại đức có bao giờ nghĩ đến nàng đâu.
Suối lệ tuôn rơi lúc nào nàng cũng không hay biết. Đến khi nước mắt chảy thật nhiều nàng mới cảm thấy dễ chịu, ngực bớt nặng và tim bớt nhói. Có lẽ, nước mắt là người bạn trung thành nhất của nữ giới. Gần như ngoài nước mắt, không c̣n người bạn nào thân thiết, chung t́nh và cảm thông hơn.
Sở dĩ có hiện tượng này là v́ nữ giới quan niệm t́nh yêu là cốt tủy của cuộc sống trong khi nam giới chỉ xem t́nh yêu như là một trong những yếu tố của cuộc sống. Do đó khi đă yêu th́ nữ giới sẵn sàng hy sinh thể xác, linh hồn và sẵn sàng nô lệ cho t́nh yêu không cần cân nhắc.
Chiều hôm sau, nàng bách bộ quanh chùa ngắm cảnh, để tâm hồn được phần nào nhẹ nhàng. Đứng nh́n cảnh muôn hoa đua nở, ḷng nàng đắm đuối, say mê. Đây hoa thảo đường khoe nhụy đưa hương cợt đùa lũ ong, kia nàng dạ lư lẳng lơ đưa t́nh với bướm; nọ là đóa sen trắng ấp ủ hương trinh, biểu tượng một vẻ đẹp thanh kỳ, quư phái. Mỗi loài có một vẻ đẹp khác nhau; một đàng th́ phóng đảng kiêu sa; một đàng lại dịu dàng thanh nhă. Chung quanh ao sen có băng đá dài để ngồi hóng mát, ngắm cảnh. Nàng thường ra đây ngồi, nh́n những con bướm lượn. Gió chiều thổi nhẹ, đưa hương sen vào bờ, một mùi thơm nhẹ nhàng tinh khiết. Trước cảnh hữu t́nh ấy nàng cảm thấy phấn khởi. Cảnh vật thiên nhiên lúc nào cũng có giá trị đối với cuộc sống. Nó là người bạn trung thành trong những giây phút vui, buồn. Nếu được sống gần gủi thiên nhiên chúng ta sẽ cảm thấy vô cùng hạnh phúc. Càng sống xa thiên nhiên càng bị phủ phàng, nghiệt ngă.
Trong lúc nàng măi thả hồn theo ngoại cảnh, bỗng có tiếng chân người phía sau đi tới. Vội quay đầu nh́n lại, nàng bắt gặp Đại đức Ananđa và ông chủ chùa. H́nh ảnh ấy làm tan biến không khí yên tịnh thần tiên của nàng. Trong giây phút bàng hoàng, nữa mơ, nữa tỉnh, không biết nàng mừng hay lo mà bàn tay và vành môi run lên nhè nhẹ. Khi Đại đức Ananđa đến gần th́ nàng bước lùi, nàng không c̣n nhớ được rằng phía sau lưng là ao nước. Nàng cứ tiếp tục lùi và vô t́nh vấp phải cục đất cứng, mất thăng bằng, nàng ngă xuống.
Cả Đại đức Ananđa và ông bá hộ đều không ai dám đỡ nàng v́ nàng là một tỳ kheo ni. Nàng tự gượng đứng lên, qú gối, đầu cúi xuống.
- Này cô, - giọng nói của Đại đức Ananđa vừa lo lắng vừa thương hại - tôi thành thật xin lỗi v́ đă làm kinh động, khiến cô phải khổ sở. Cô có đau lắm không?
Những lời hỏi han đầy lo lắng và nhiệt t́nh của Đại đức Ananđa như món thần dược giúp nàng hết cơn đau nhức. Thật vậy, không có ǵ khiến cho người nữ vui mừng bằng, khi biết người yêu lo lắng và tưởng nhớ đến ḿnh. Họ quên tất cả lỗi lầm quá khứ của người yêu, và rất dễ tha thứ, như trẻ thơ quên khóc, quên la khi được bú sữa mẹ.
Nàng rất cảm động muốn thốt lời cảm tạ, nhưng nghẹn ngào v́ quá xúc động. Cuối cùng nàng đành yên lặng.
Đại đức Ananđa hỏi tiếp:
- Cô có đau lắm không? Tôi cảm thấy
ái ngại quá!
- Bạch Đại đức, không sao.
- Cô đến ở đây có an vui không?
- Bạch Đại đức, tạm an.
Ông bá hộ xen lời:
- Thưa sư cô, nếu sư cô cần chi trong tứ sự, tôi xin t́nh nguyện cúng dường.
Nói xong, Đại đức và ông bá hộ lại tiếp tục đi. Nàng nh́n theo Đại đức Ananđa mà tâm hồn như chết lặng. Nhưng sực nhớ cử chỉ lo lắng vừa rồi của Đại đức, nàng cảm thấy vô cùng sung sướng và ước ǵ được té năm mười lần trong một ngày. Mất tự chủ, nàng tự động bước theo Đại đức. Đi được một khoảng đường nàng dừng bước. Động tác nàng lúc ấy trông thật đáng thương. Cuối cùng, nàng quay về tư pḥng với tâm hồn u ẩn. Nàng thèm gặp gỡ, chuyện tṛ với Đại đức Ananđa, như người chết khát thèm nước. Khi muốn gặp nhau, th́ người ta dùng đủ phương cách, kể cả thủ đoạn bất chánh để đạt sở nguyện, v́ yêu là mù quáng.
Nàng đóng cửa nằm như người bịnh nặng. Sú-nan-đà, một cô ni ở gần, gỏ cửa hỏi:
- Có sao không Cô-ki-là?
- Cám ơn Sú-nan-đà, tôi chỉ hơi nhức đầu
và cảm thấy khó chịu trong người.
- Có uống thuốc chưa?
- Dạ có.
- Có cần tôi giúp chi cứ nói, đừng ngại nhé!
- Vâng. Cám ơn Sú-nan-đà. Cô có quen biết Đại
đức Ananđa không?
- Biết chớ, ai mà không biết Đại đức,
họa chăng người ấy không biết Đức
Phật. Bộ cô có chuyện ǵ liên hệ với Đại
đức phải không?
- Vâng, tôi muốn nhờ cô hoan hỉ thỉnh cầu
Đại đức quang lâm đến đây để tôi
được nghe lời chỉ giáo sau cùng. V́ tôi cảm
thấy mạng sống không bảo đảm. Đức
phật có dạy: sanh, bệnh, thời giờ, địa
điểm và cảnh giới là những diều bất
định. Do đó, xin cô thương t́nh đến
thỉnh cầu Đại đức theo lời khẩn
thiết của tôi như vầy: Cô-ki-là tỳ kheo ni, xin
đê đầu đănh lễ Đại đức, giờ
đây nàng đau rất nặng, không ngồi dậy
được, xin Đại đức mở ḷng từ bi
đến thăm bệnh nhân lần cuối. Sự quang
lâm của Đại đức sẽ là một điều
rất hạnh phúc cho nàng.
Trời đă về chiều. Bóng chùa và những bóng cổ thụ nghiêng ḿnh ngă dài khiến vị trí quanh chùa trở nên mát mẻ u nhàn. Trên cành, chim hót líu lo. Có cặp th́ đứng sát gần nhau, vừa rỉa lông vừa chuyện tṛ ríu rít. Loài phi cầm tuy không đủ khôn ngoan như loài người, nhưng đời sống vô cùng hạnh phúc, trong khi loài người mệnh danh là thông minh, tài trí, nhưng đă có mấy ai hạnh phúc, thanh nhàn. Sự thật, hạnh phúc là do sự an phận, mà loài người v́ quá thông minh nên quá nhiều dục vọng. Hậu quả dục vọng là khổ sở, lo phiền. T́m hạnh phúc trong ái nhiễm chẳng khác ǵ t́m dầu trong đá sỏi. Hăy ra khỏi nhà lửa tham dục th́ lập tức có sự mát mẻ, an lạc. Đi t́m hạnh phúc ngoại giới cũng như người khát t́m nước ở sa mạc. Cái triết lư t́m hạnh phúc là t́m ở nội tâm. Trước hết phải nh́n thẳng sự thật khổ đau và truy t́m nguyên lư khổ đau là hạnh phúc. Ví như bệnh nhân muốn được sống an vui, lạc thú th́ trước hết phải truy tầm bịnh căn phục dược. Sự hoàn toàn b́nh phục là điều hạnh phúc.
Lời khẩn cầu của Cô-ki-là được chuyển đến Đại đức Ananđa khiến Ngài lấy làm bâng khuâng, thầm nghĩ:
- Có lẽ nàng bị té ban chiều mà sanh ra bệnh? Thật là tội! Nàng yêu ḿnh trong khi ḿnh không thể yêu nàng. T́nh yêu của nàng ví như trẻ thơ thấy mẹ nằm chết, cứ kêu réo bảo trả lời. Bản tánh nữ nhi vốn yếu mềm hơn nam giới, nhưng có một điều là nam nhi phải đầu hàng vô điều kiện đó là sự chịu đựng đau khổ.
Đại đức Ananđa nhờ một vị tỳ kheo đi với ḿnh đến chổ ở Cô-ki-là để thăm bệnh. Nhưng khi trông thấy bệnh t́nh Cô-ki-là th́ Đại đức bớt lo lắng một phần lớn. Trí tuệ bén nhạy của Đại đức đă soi thấu được bệnh căn của nàng. Nhưng Đại đức tự nhủ: đây là cơ hội tốt nhất để ḿnh giác ngộ nàng.
Đoạn ĺa phiền năo
Chủ đích đă có, Đại đức Ananđa an ủi và khích lệ:
- Này Cô-ki-là, đời sống bắt đầu từ những yếu tố đáng nhờm gớm và hổ thẹn. Hiện hữu của nó là sự tập hợp của tứ đại. Chung cuộc của nó là tiêu tán khổ đau. Mở mắt chào đời ta khóc. Nhắm mắt ĺa đời ta cũng khóc. Nếu lúc chào đời trẻ thơ nắm chặt đôi tay biểu hiện cho khả năng chiếm hữu th́ khi nhắm mắt ĺa đời người ta x̣e tay cảnh tỉnh thế nhân hăy hồi quang tu tỉnh. Này cô, tôi xin phép kể cô nghe cuộc đời của tôi. Tôi là em họ Đức Tôn Sư, được sinh trưởng trong ḍng Thích Ca quí tộc và xuất gia lúc 36 tuổi. Một công tử tuổi đời như vậy th́ tránh sao khỏi vướng dây t́nh ái. Chính nhờ sự từng trải, lịch kinh nên tôi khẳng định được rằng: Yêu là khổ. T́nh yêu hành hạ thể xác, đày đọa linh hồn. Mọi người đều muốn được như ư nguyện trong địa hạt t́nh yêu, nhưng chính t́nh yêu th́ chưa cho ai được toại nguyện. Nó là độc chất phá hoại toàn bộ cơ cấu nội tâm. Hạnh phúc của t́nh yêu cũng giống như bệnh nhân muốn mau b́nh phục rồi uống mă tiền. Cô không nên chạy theo tiếng gọi của t́nh yêu v́ khi t́nh yêu ngự trị, sai sử th́ tâm hồn đâm ra loạn động, càng loạn động càng khổ sở. T́nh yêu trông xa đẹp như núi tuyết, nhưng đến gần chỉ có lạnh lẽo, hoang liêu. Cô hăy nh́n thẳng vào cuộc sống, đừng nuối tiếc những ǵ đă qua, đừng mong cầu những ǵ chưa đến. Cuộc sống tuy có hiện thành nhưng mau tiêu tán, như lượn hải triều trườn ḿnh lên băi cát. Cô-ki-là ơi, t́nh yêu sẽ làm mờ tối lương tri như áng mây trôi che vầng trăng sáng. Bẩm tánh nữ giới hay mắc cở, xấu hổ nhưng khi đă yêu th́ không c̣n biết xấu hổ nữa. Do đó, rất dễ đi sâu vào con đường tối tăm, tội lỗi, như trẻ thơ bị lạc ở trong rừng. Lúc bấy giờ cái cô đơn nguy hiểm của rừng sâu, không c̣n là vấn đề, mà chính sự cô đơn, hoang mang, lo sợ của đứa trẻ mới đáng ngại. Có những người, trông h́nh thức bên ngoài thật là ấm êm, hạnh phúc, nhưng nội tâm là trận cuồng phong băo tố. Cái cô đơn của người đâu phải v́ thiếu bạn, thiếu t́nh mà v́ thiếu lư tưởng để tôn thờ, thiếu hải đảo chánh pháp để nương tựa. C̣n riêng cô th́ đă có tất cả. Vậy cô hăy tiếp tục tôn thờ và nương tựa. Hăy chấp nhận dấn thân cho mục đích cao đẹp đó. C̣n t́nh yêu th́ như chiếc thuyền lủng đáy, bám vào nó là tự trầm ḿnh.
Chánh pháp là thuyền từ cứu độ, là đuốc tuệ soi đường. Khách trầm luân hăy bám vào thuyền Từ, c̣n kẻ lạc lối, hăy cầm lấy đuốc Tuệ. Bất cứ hành động nào đưa đến hậu quả đắng cay, ân hận, Đức Tôn Sư khuyên chúng ta tuyệt đối không nên làm. Do đó, dù thể xác héo hon, dù cuộc đời cay đắng, cô không nên bỏ quên chánh pháp. Nếu phải chết thà chết v́ chánh pháp chớ không nên chết v́ t́nh yêu. Làm người ai cũng có lúc quên ḿnh, lầm lỗi, nhưng một khi đă hồi quang phản tỉnh th́ đài sen giác ngộ cũng gần. Biển cả bao la nhưng quay đầu sẽ thấy bến. Hơn nữa cô là bậc xuất gia, một phẩm hạnh thanh cao, một tâm hồn ly tục, một ư chí kiên cường, th́ cô hăy tích cực và xứng đáng.
Các loài trầm, kỳ dù khô vẫn giữ được mùi vị; tượng chiến lâm trận dù chết không lùi, mía dù bị ép, bị nấu vẫn ngọt; bậc trí tuệ dù gặp khổ đau thà chết vẫn không bỏ đạo. Cô đă từ bỏ cuộc sống của một thiếu nữ tầm thường, đă từ bỏ h́nh thức thế nhân, đă đem thân nương nhờ cửa Phật th́ cô hăy cố gắng từ bỏ những liên hệ về tư tưởng khác phái, v́ nó là kẻ thù nguy hiểm của phạm hạnh. Chắc cô cũng biết: trong năm người mới có một người anh dũng, ngàn người mới có một người nói thật, nhưng trong loài người khó t́m được một kẻ thoát ly.
Đức Tôn Sư có dạy, nhờ ái dục để dứt ái dục, nhờ kiêu mạng để ĺa kiêu mạng, nhờ vật thực để ngăn vật thực, nhưng vấn đề t́nh dục th́ không thể như vậy được.
Câu nói: "Nhờ ái dục để dứt ái dục" , nghĩa là khi ta được nghe có vị tỳ kheo, tỳ kheo ni, u-bà-tắc, u-bà-di đắc đạo chứng quả, rồi ta cố gắng tu hành để được thành đạt như những người đó, gọi là nhờ ái dục để dứt ái dục.
Câu nói: "Nhờ kiêu mạng để ĺa kiêu mạng ", nghĩa là khi nghe có người đắc đạo chứng quả th́ tự ái nổi lên, nghĩ rằng người ta làm được tại sao ḿnh không làm được rồi cố gắng tu hành để thành đạt đạo quả. Ấy gọi là nhờ kiêu mạng để ĺa kiêu mạng.
Câu nói: "Nhờ vật thực để ngăn vật thực ", nghĩa là các bậc chân tu thường quán tưởng: vật thực chỉ để nuôi mạng sống như người lạc giữa sa mạc bắt buộc phải ăn xác chết để tự cứu. Nhờ đó các Ngài không bị dính trong vị ngon và cố gắng công phu hành đạo. Gọi là nhờ vật thực để ngăn vật thực.
Này Cô-ki-là, riêng t́nh dục th́ không thể nhờ chính nó để dứt được, trừ phi tích cực hành đạo để đoạn ĺa. Đức Phật dạy: ngũ dục là vô thường, vui ít khổ nhiều, dẫy đầy tội lỗi, cực nhọc là nhân, khổ sở là quả. T́nh dục là mẹ đẻ của luân hồi.
Giảng xong, Đại đức chờ xem phản ứng. Quả thật, thời giảng có kết quả. Nàng ngồi dậy, đắp y chỉnh tề, qú đănh lễ gần chân Đại đức, tức tửi, nói chẳng nên lời.
Trên thế gian này, nếu sự đau khổ và sự nhục nhă không tác động song hành th́ hậu quả không đáng kể. Nhưng nếu cả hai cùng lúc phát khởi th́ tác hại của nó sẽ vô cùng khủng khiếp nhất là đối với phái nữ.
Nàng tủi thẹn và hờn tức v́ t́nh yêu không được đáp ứng. Lời nói của Đại đức Ananđa như mũi lao nhọn đâm vào tim nàng. Càng xấu hổ hơn nữa, khi nàng nhận thấy Đại đức không tin thái độ và tư cách của ḿnh. Nàng cảm thấy như bị tạt nước vào mặt. Nàng qú im lặng, nghẹn ngào. Giây phút trôi qua, Đại đức Ananđa lên tiếng:
- Cô-ki-là hăy nín đi, đừng khóc nữa. V́ khóc lóc không giải quyết được ǵ và cũng không làm vơi cạn sự khổ đau ngập ḷng. Tội nghiệp cho nàng, v́ Đại đức Ananđa chỉ nói toàn những lời của bậc thánh nhân thoát tục.
Vị tỳ kheo phải quay mặt nơi khác v́ không đủ can đảm nh́n cảnh đoạn trường của người khác phái.
- Bạch Đại đức - nàng nói qua tiếng nấc - tôi sẽ quyết tâm phụng hành lời dạy của Đại đức dù phải đắng cay cùng cực. Tôi không tự trọng nên phải khổ lụy đến mức này. Thân phận tôi chỉ là một kẻ nô tỳ hèn hạ. T́nh yêu đă làm tôi mù quáng, quên giai cấp, ḍng dơi, đi yêu một người thượng lưu quí tộc. Bạch Đại đức, thân nghiệp và khẩu nghiệp của tôi hoàn toàn vô tội, nhưng ư nghiệp chắc chắn là đă bợn nhơ. Tôi yêu Đại đức, một t́nh yêu chân thành tuyệt đối, nếu hành động ấy có lỗi, xin Đại đức từ bi hỉ xả.
Nói xong nàng cúi xuống, nước mắt dầm dề làm ướt một phần chiếc áo cà-sa.
Nh́n gương mặt bơ phờ ủ dột của nàng, Đại đức an ủi:
- Này Cô-ki-là, cô không nên đề cập đến vấn đề giai cấp, v́ tôi đă quên nghĩ đến lâu rồi. Sở dĩ tôi không yêu cô không phải v́ sự dị biệt giai cấp, mà v́ tôi nhận chân được cái tội lỗi và hậu quả đắng cay của t́nh yêu. Hiện tại, tôi có bổn phận phục dịch Đức Bổn Sư và cố gắng thành đạt đạo quả để đoạn trừ phiền năo. Bao giờ phiền năo c̣n, là bấy giờ luân hồi c̣n. Đức Bổn Sư dạy rằng: hiện hữu là nguyên nhân của thống khổ. Nếu dễ duôi để bị đọa vào khổ cảnh th́ con đường giải thoát sẽ bị tŕ trệ lâu dài. Cô đừng bận tâm về việc bất đồng giai cấp. Mọi người sinh ra để rồi chịu chung định luật già, đau, chết. Tất cả đều bất lực và cô đơn. Vả lại, con người máu đều đỏ, nước mắt đều mặn, biết tham sống, sợ chết, ghét khổ ưa vui cũng như các loài cây khi bị đốt cháy th́ màu than vẫn đen, màu tro vẫn xám và màu lửa vẫn hồng. Ḥa ḿnh chung lo hạnh phúc an b́nh cho chúng sanh là một hành động thức thời, hữu ích. C̣n giai cấp cao thấp không thành vấn đề. V́ bất cứ giai cấp nào một khi đă hành động bất thiện th́ tội ác như nhau, c̣n nếu hành động thánh thiện th́ phước đức cũng như nhau.
Tôi ước mong cô đừng nghĩ tới vấn đề giai cấp làm chi cho thêm tủi phiền, mà hăy cố gắng, tích cực hành đạo cho mau giải thoát.
Cô-ki-là ơi! Bản chất t́nh yêu vốn đau khổ, lại càng đau khổ hơn nếu yêu không đúng chổ. Chẳng hạn như cô yêu tôi, hay tôi yêu cô, gọi là yêu không đúng chổ. Vậy xin cô hăy tự dứt khoát, đừng vương vấn mà chuốc lấy lụy phiền. Nếu làm được như vậy, là cô sẽ đạt đến một hạnh phúc tuyệt vời, vừa an lạc, vừa thanh tịnh.
Trên đường về Đại đức Ananđa đi thẳng đến ao sen và ngồi nghỉ trên một băng đá. Đại đức thở dài, nặng nhọc như muốn trút bỏ những nổi u hoài. Đại đức bảo vị tỳ kheo đi chung về trước và dặn:
- Khi nào Đức Bổn Sư gọi, hăy ra đây t́m tôi.
Hồi tưởng những chuyện đă qua, Đại đức cảm nhận có một thứ t́nh cảm nhẹ nhàng đối với Cô-ki-là. Nhưng nhờ đại duyên, đại hạnh trong tiền kiếp yểm trợ, nên Đại đức tự ngăn được sóng ḷng. Đại đức tự giáo hóa: này Ananđa, ngươi mới đắc Tu đà hườn, tham ái, sân hận, si mê vẫn c̣n. Ngươi không nên dễ duôi, gần gủi và gặp gỡ Cô-ki-là, v́ ư căn rất khó uốn nắn, chế ngự như voi nổi cơn tà dục.
Ananđa, ngươi hăy huy động chánh niệm để án ngự ư căn, không nên để nó tự do phóng túng mà phải nắm thế chủ động. Người mà Đức Tôn Sư ban khen là chiến sĩ là người có khả năng chế ngự và tự thắng.
Sau khi tự giáo hóa, Đại đức vào bái kiến Đức Phật và tường thuật đầy đủ diễn tiến của sự việc v́ Đại đức không bao giờ dấu diếm Đức Phật bất cứ điều ǵ. Đức Tôn Sư dạy:
- Này Ananđa, ngươi quên rằng bậc tu đà hườn không bao giờ đọa vào hạ cảnh và chắc chắn sẽ đắc Alahán trong một hoàn cảnh thuận duyên. Ngươi chớ khá nghĩ suy, phiền năo. Lời dạy vừa chí t́nh, vừa khích lệ ấy khiến Đại đức Ananđa vô cùng hoan hỉ.
Chiều hôm sau, tại giảng đường chùa Khô-si-ta, khi Phật tử tập trung đông đảo, Đức Tôn Sư đăng lâm pháp ṭa, uy nghiêm như Đức Thiên Vương Đế Thích nơi thiên điện. Ngài phóng hào quang rực rỡ như ánh thái dương. Hội trường im lặng. Ngài nh́n tứ chúng với đôi mắt từ bi. Đức Tôn Sư nghĩ: đại chúng quả thật nghiêm trang, xứng đáng, chân tay không cử động, không một tiếng ho hen đằng hắng, chứng tỏ một sự tôn kính tuyệt đối. Nếu Như Lai không lên tiếng trước chắc chắn họ sẽ tiếp tục thinh lặng.
Qua huệ nhăn, Ngài thấy rơ thiện duyên thánh quả của tỳ kheo ni Cô-ki-là đă đến thời kỳ liễu chứng. Để chuyển hóa và tiếp độ, Ngài đề cập đến bài pháp Chuyển Pháp Luân:
- Này tứ chúng, có hai cực đoan mà các người không nên hành tŕ. Một là lợi dưỡng hưởng lạc. Hai là khổ hạnh ép xác. Cả hai đều không phải thánh đạo, là con đường hèn hạ, tầm thường, phàm tục, bất thiện và vô bổ. Trái lại, này tứ chúng, có một con đường trung dung cao thượng, thánh thiện, hữu ích, giác ngộ, đó là con đường thánh đạo có tám chi: thấy đúng, nghĩ đúng, nói đúng, nghề nghiệp đúng, nuôi mạng đúng, tinh tiến đúng, niệm tưởng đúng, và định tâm đúng.
- Này tứ chúng, khổ là sự thật. Hiện hữu là sự tập thành của ngũ uẩn và tứ đại. Do đó, hiện hữu khai nguồn cho thống khổ: sanh khổ, già khổ, đau khổ, chết khổ, ái biệt ly khổ, oán tắng hội khổ, cầu bất đắc khổ... Tóm lại, những ǵ liên hệ đến ngũ uẩn là khổ, khổ thường trực, khổ lớn lao.
- Này tứ chúng, khổ là sự thật. Nguyên nhân khổ cũng là sự thật. Nguyên nhân ấy là ái dục, tức sự khao khát, mắc dính trong cảnh giới vừa ḷng, trong sự hiện hữu và trong những vật sở hữu. Những sự mắc dính khao khát vừa kể là nguyên nhân của mọi thống khổ.
- Này tứ chúng, cảnh giới an lạc tuyệt đối không c̣n bị chi phối bởi phiền năo và các sự thống khổ, chính là sự đoạn diệt, ly tham, không c̣n dư tàn khát ái, là sự khai trừ, quăng bỏ, giải thoát, không c̣n chấp trước là một sự thật.
- Này tứ chúng, con đường hành tŕnh đến cảnh giới Niết bàn cũng là một sự thật. Con đường có 8 chi này Như Lai đă đề cập nơi phần Trung đạo.
- Các ngươi hăy nương nhờ chánh pháp. Như Lai chỉ là người hướng đạo. Phần tinh tiến thiêu hũy phiền năo là nhiệm vụ của các ngươi. Con đường giải thoát Như Lai đă chỉ dạy, vậy các ngươi hăy tự hành tŕnh.
Thời pháp hôm ấy, kết quả vô cùng khích lệ. Riêng tỳ kheo ni Cô-ki-là th́ như người chết đuối vớ được phao, như lữ hành sa mạc gặp nước. Nổi vui mừng biến thành phỉ lạc. Năng lực định tâm chuyển thành minh sát. Những vi tế phiền năo đă bị đoạn ĺa. Tâm trạng Cô-ki-là vô ưu, vô nhiễm, và chứng ngộ Thánh đạo Alahán. Từ đây tỳ kheo ni Cô-ki-là được dự phần trong đại gia đ́nh Thánh nhơn vô lậu.