T̀NH ĐỜI Ư ĐẠO

T́nh đời, Ư đạo
(Cuộc đời Thánh tăng Ananda)
Ḥa thượng Hộ Giác

Phần 5

 

Biểu tượng Pháp bảo

Có một lần, một vị Bà-la-môn bái kiến Đức Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn, đối với Phật bảo và Tăng bảo th́ đệ tử đă từng cúng dường nhưng đối với Pháp bảo th́ đệ tử phải làm cách nào mới gọi là cúng dường chân chính.

Đức Phật dạy nên cúng dường đến vị bác thông giáo lư. Và khi được bạch hỏi vị nào th́ Đức Phật dạy nên hỏi các vị tỳ kheo. Tất cả đều tôn xưng Đại đức Ananđa, thị giả Đức Tôn sư là bậc bác thông giáo lư. Ông bà-la-môn bèn đem y cà-sa cúng dường cho Đại đức. Sự kiện này chứng tỏ Đại đức Anađa là biểu tượng Pháp bảo.

Nói cách khác, người không dễ duôi xem thường chánh pháp, và luôn y cứ phụng hành, gọi là cúng dường chánh pháp cách cao thượng. V́ chính Đức Tôn sư cũng sùng bái chánh pháp.

Trong kinh có nhắc rằng: sau khi chứng quả Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tuần thứ năm, trong khi tọa thiền dưới gốc cây da, nơi mục đồng làm địa điểm họp mặt, Đức Phật tự nghĩ: đời sống không có đối tượng nương tựa, tôn sùng th́ thật là bất tiện. Ngài không thấy bất cứ một đối tượng nào cao quí hơn Ngài trên phương diện giới, định, huệ, giải thoát, giải thoát tri kiến. Cuối cùng, Ngài tự quyết định chọn chánh pháp làm đối tượng.

Tóm lại, Phật, Pháp, Tăng chỉ khác nhau trên mặt danh từ và cảm giác, nhưng mặt lư giác th́ đồng nhất bất khả phân. Ví như mặt ngọc tam giác.

Pháp là chân lư. Phật là vị giác ngộ chân lư. Tăng là bậc thừa kế, có nhiệm vụ truyền tŕ chân lư. Một buổi trưa, Đại đức Ananđa ngồi nghỉ.

Đức Tôn sư từng đề cập các vấn đề liên hệ đến chư Phật quá khứ như cha mẹ, tuổi thọ, sự giác ngộ, tăng hội, đại đệ tử, thị giả v.v... chỉ riêng vấn đề Bố-tát (1) th́ Ngài chưa phán dạy. Để có sự hiểu biết rốt ráo, Đại đức bèn vào bạch Phật về vấn đề này.

Chú thích: (1) Uposatha: Ngày đọc giới và sám hối của các vị tỳ kheo trong ngày rằm và 30.

Đức Phật dạy:

- Này Ananđa, định kỳ Bố-tát của chư Phật đều khác nhau. Riêng phần giải thoát (Ovàdap-pàtimokkha) th́ đồng nhất:

- Đức Phật Ví-pá-si (Vipassi) 7 năm bố-tát một lần.
- Đức Phật Sí-khí (Sikhi) và Vê-sá-phu (Vessabhù) 6 năm bố-tát một lần.
- Đức Phật Kakusandha (Cùlutôn) và Konàgamana (Câunahàm) mỗi năm bố-tát một lần.
- Đức Phật Kassapa (Ca-diếp) mỗi 6 tháng bố-tát một lần.
- Riêng Như Lai th́ mỗi nữa tháng bố-tát một lần.

Định kỳ bố-tát tuy có khác nhau nhưng đại cương giải thoát giáo th́ không khác.

Phần đầu Ngài dạy tổng quát:

Nhẫn nại với mọi nguyên nhân phát sinh tham, sân , si, và lời phỉ báng của kẻ khác là pháp thiêu hủy phiền năo. Chư Phật gọi Niết bàn là cứu cánh của phạm hạnh. Bậc xuất gia c̣n hăm hại kẻ khác không đáng gọi là Sa môn.

Phần hai: Ngài dạy giáo lư căn bản:

Nên dứt bỏ điều ác, tu tập hạnh lành, trau dồi tâm sạch. Lời dạy này nhằm mục đích chỉ rơ tội của ác ngiệp, phước của thiện nghiệp và sự thành công trong đạo nghiệp cách mạng tâm linh.

Phần ba: Ngài dạy đức tính người truyền giáo:

- Không nói xấu kẻ khác.
- Không khủng bố hoặc mua chuộc.
- Ẩm thực điều độ.
- Thúc liễm các căn.
- Không làm vừa ḷng kẻ khác mà bỏ quên đạo đức bản thân.
- Ở nơi thanh vắng.
- Quán tu thiền định.

Công đức tri ân

Tâm từ bi vô lượng mà Đức Tôn sư đă cưu mang qua nhiều A tăng kỳ kiếp, từ khi mới phát nguyện thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác nhằm mục đích cứu độ chúng sanh như một sứ mạng thiêng liêng thúc đẩy không ngừng.

Chính ḷng từ ấy biện minh cho chúng sanh rằng: tŕnh độ tu chứng tuy có thượng, trung, hạ nhưng tất cả đều có chủng tử Phật cũng như hoa sen tuy khác nhau về thời gian nở nhưng giống nhau về phương diện sắc hương.

Dùng Phật nhăn quan sát, Ngài nhận thấy chúng sanh có sự sai khác như sau:

- Nhiều phiền năo, ít phiền năo.
- Thượng căn, hạ căn.
- Thiện nghiệp, ác nghiệp.
- Thượng trí, hạ trí.

Ngài tuyên bố, "cánh cửa vô sinh Như Lai đă mở, mọi người đều có quyền bước vào". Đấy là yếu tố nguyên lai khai đạo của Đức Từ phụ. Suốt gịng lịch sử truyền bá, Đức Phật chưa làm đổ một giọt máu hồng, một gịng lệ nóng. V́ Ngài là hiện thân của t́nh thương rộng lớn, là cha lành của bốn loại chúng sanh, là đạo sư của khách trần lạc lơng.

Đạo của Ngài là thuyền từ cứu độ, là đuốc tuệ soi đường, là địa bàn chỉ hướng, là mạch nước giữa sa mạc muôn trùng.

Đạo của Ngài đẹp tuyệt vời, thơm tuyệt diệu, là cứ điểm tuyệt đối an toàn. Đẹp hơn trăng rằm v́ tính cách sơ thiện, trung thiện, và hậu thiện. Thơm hơn các loại trầm kỳ v́ bản chất giới hương, định hương, và huệ hương. Là cứ điểm tuyệt đối an toàn v́ thành quả giải thoát tri kiến.

Thật vậy, trăng rằm tuy đẹp, nhưng nếu bị mây che, nhựt thực, hoặc người đui, người không thích ánh sáng, người có tâm sự buồn, người mất trí v.v... th́ trăng rằm không c̣n đẹp, hấp dẫn và cần thiết. Sự chi phối bởi ngoại cảnh đă khiến cái đẹp của mặt trăng không c̣n độc đáo và hiệu năng.

Các loại trầm kỳ tuy có thơm nhưng chỉ thơm xuôi gió và thơm trong khoảng cách hữu hạn. Do đó, sự tác dụng của mùi thơm bị hạn chế tối đa. Trong trường hợp khác như người đang bịnh nặng, đang hấp hối, đang quá đói khát, đang mang tâm sự quá khổ, quá buồn, hoặc khứu giác bị hư th́ mùi thơm đối với họ hoàn toàn vô nghĩa. Trái lại, mùi thơm giới, định, huệ của các bậc chân tu đắc đạo th́ chẳng những loài người mà các tầng trời cũng đều ngửi thấy. Chính Đại đức Ananđa có lần bạch hỏi Đức Thế Tôn về vấn đề này. Đức Tôn sư dạy:

- Này Ananđa, trong thế gian này không có hương thơm nào bằng hương thơm của giới. Người có giới hằng được trời, người, và các bậc thiện đức quí kính, yêu thương và ca tụng.

Nói cách khác, giới có khả năng rửa sạch tất cả tội lỗi trong tâm. Ngoài ra không có phương tiện nào khác hiệu lực hơn. Nước sông, nước biển chỉ rửa sạch những dơ uế bên ngoài. Sự khổ năo nóng nảy thường trực của tâm hồn không thể dập tắt bằng chất nước thường mà phải dùng nước giới.

Người có giới đẹp từ nhỏ đến già, sống lợi lạc, chết an nhàn, hạnh phúc kiếp này, cực lạc kiếp sau. Người có giới dù sang, hèn, nghèo, giàu, già, trẻ, nam, nữ, sống giữa thành thị hay rừng núi hoang vu, c̣n sống hay đă chết hương thơm vẫn bay tỏa bốn phương ngào ngạt.

Cái đẹp của người có giới là cái đẹp thiên thu bất biến. Không một đám mây tội lỗi nào có thể che khuất ánh sáng huyền diệu của vầng trăng Giới đức. Chỉ có ánh sáng Giới đức mới đủ năng lực soi tỏ đến tận cùng nội tâm thầm kín, và là trái tim nóng hổi làm cho gịng máu tươi được lưu độ điều ḥa trong mạch sống.

Người không giới là người thích sống cuộc đời phù phiếm xa hoa, ham lợi háo danh và thích hưởng thụ. Những thú vui trần tục này là cặn bă làm mờ tối lương tri và làm đ́nh trệ con đường giải thoát.

Đạo đức là cơ quan an ninh hữu hiệu cho xă hội và loài người. Nhưng người ư thức và tích cực tŕ hành đạo đức th́ quá ít. Do đó, loài nguời tự làm khổ, đầy ải, nghiệt ngă bản thân và kẻ khác. Mục đích thanh b́nh, an lạc bị bóp chết. Người không đạo đức là đại họa cho gia đ́nh, xă hội, và loài người. Người đạo đức là đại phúc cho tất cả.

Đại đức Ananđa là mẫu người vừa kể, mẫu người biết ưu tư và thao thức đối với hạnh phúc và lợi lạc của cộng đồng. Câu chuyện điển h́nh như vầy:

Sơ thời, Đức Phật chỉ cho phép tỳ kheo dùng Tam y là: Y tăng-già-lê hai hoặc ba lớp để đắp lạnh. Y uất-đà-la-tăng để trùm ngoài, và y an-đà-hội để mặc trong. Ngoài ra không có quyền cất giữ y dư. Một hôm, Đại đức Ananđa có một số y dư muốn cúng dường cho Đại đức Xá lợi phất đang ở tại thị trấn Sa-kê-tá nhưng không biết làm sao, bèn thỉnh tôn ư Đức Phật. Đức Tôn sư hỏi:

- Chừng bao lâu Xá-lợi-phất về?
- Bạch Đức Thế Tôn, chừng mười hôm nữa.
- Nếu vậy, Ananđa cứ tạm cất chờ xem.

Nhân câu chuyện này, Đức Tôn sư chế luật:

- Này các tỳ kheo, Như Lai cho phép các thầy giữ y tối đa 10 ngày. Quá hạn định, bị phạm ưng phát lộ và y dư phải bị ưng xă.

Đại đức Ananđa được măn nguyện. V́ Đại đức Xá-lợi-phất về trong hạn định.

Về điều này, Đức Phật chế định một nguyên tắc linh động hơn, danh từ chuyên môn gọi là Ví-câp-pá nghĩa là biến thành cộng hữu. Phương thức như vầy:

- Tỳ kheo có y dư đem tŕnh trực tiếp với một vị tỳ kheo khác rằng ḿnh sẵn ḷng xă bỏ, vị nào cần th́ được quyền sử dụng. Vị sau có thể nhờ vị trước cất xài chung.

Đại đức Ananđa đă đóng góp phần lớn cho vấn đề này, giúp ích hữu hiệu cho hiện tiền tăng. Công đức này được bậc xuất gia và hàng cư sĩ luôn luôn nhớ ơn. V́ bậc xuất gia th́ được có y phục đầy đủ rộng răi, c̣n hàng cư sĩ th́ có cơ hội tùy nghi cúng dường.

Đại đức cũng từng nghĩ rằng: bạn lành là nữa phần của phạm hạnh. Nhưng Đức Tôn sư dạy rằng: "Bạn lành là toàn phần của phạm hạnh ".

Đại đức được Đức Tôn sư ban khen và toàn thể pháp lữ tán dương qua 5 đức tính:

1- Bậc thông tuệ, thuộc và nhớ nhiều Phật ngôn.
2- Bậc pháp sư lỗi lạc, người nghe không chán.
3- Có trí nhớ đặc biệt và thích nghi với mọi hoàn cảnh.
4- Tinh tấn không lùi.
5- Phục dịch Đức Tôn sư vô cùng chu đáo.

Khi có cơ hội, Đại đức thường đàm đạo với Đại đức Xá lợi phất. Trong Tăng nhất bộ có đề cập những đoạn kinh đối thoại của hai vị. Như vấn đề Niết bàn và thiền định. Vấn đề tỳ kheo không thông tuệ và thông tuệ v.v...

Trong lănh vực luận đạo, Đại đức Xá lợi phất công nhận Đại đức Ananđa có nhiều đức tính lành đáng ca tụng:

1- Nghe nhiều học rộng.
2- Có biệt tài trùng tuyên một cách đầy đủ và chính xác.
3- Có khả năng giải rộng những điều khó hiểu.
4- Thích trầm lặng.
5- Thích giao du, thân cận các bậc bác thông kinh luật.
6- Tích cực học hỏi để được thông suốt thêm.

Quả thật Đại đức Ananđa xứng đáng nhận sự biết ơn, cúng dường và chiêm ngưỡng của phật tử xuất gia và tại gia.

Lần gặp gỡ sau cùng

Đại đức Ananđa phục dịch Đức Tôn sư vô cùng cẩn trọng, chu đáo, bất chấp nắng mưa, ngày đêm cực khổ, hiến dâng trọn đời ḿnh cho Đức Phật. Tâm hồn Đại đức lúc nào cũng hiền lành nhưng cương quyết, sẵn sàng hy sinh nhưng không tự phụ, quán triệt nhưng không kiêu mạng.

Công tŕnh phục vụ Đức Tôn sư của Đại đức Ananđa quả thật độc nhất vô nhị, sáng như mặt trời, mát như mặt trăng và đẹp như hoa xuân nở rộ.

Năm Đức Tôn sư 79 tuổi, tuổi đă già, như ánh hoàng hôn gượng sáng để rồi ch́m hẳn vào màn đêm. Thuở ấy, Đức Tôn sư ngụ tại núi Kư xà quật (Gijjhakùta) gần thành Vương xá (Rajagaha). Lúc bấy giờ, đức vua A-xà-thế (Ajàtasatu) đang chuẩn bị cất quân chinh phạt xứ Vách-chi. Nhà vua sai đại thần Vá-sá-ca-rá đến bái kiến và thỉnh ư Đức Tôn sư. Tuân hành quân lịnh, đại thần đến núi bái kiến Đức Phật.

- Bạch Đức Thế Tôn, đức vua A-xà-thế đang chuẩn bị cất quân chinh phạt xứ Vách-chi (Vajji), có sai đệ tử thay người bái kiến, vấn an sức khỏe và xin đê đầu đănh lễ Đức Thế Tôn.

Đức Tôn sư không trả lời đại thần Vá-sá-ca-ra (Vassakàra) mà chỉ phán hỏi Đại đức Ananđa, dân chúng xứ Vajji c̣n tích cực tŕ hành pháp bất hoại không?

- Bạch Thế Tôn c̣n.

- Này Ananđa, bất hoại pháp có 7 chi:

1- Thường xuyên hội họp đông đảo.
2- Đoàn kết trong những lúc hội họp, giải tán và công tác.
3- Thượng tôn luật pháp. Không hủy bỏ những luật pháp cũ có tính cách nhân đạo, không ban hành những luật mới, quá khắc khe.
4- Tôn trọng và lănh giáo các bậc trưởng thượng.
5- Củng cố đạo đức cổ truyền nhất là không cưỡng ép đàn bà, con gái phải sống với ngoại nhân.
6- Duy tŕ nền văn hóa cổ xưa, như các ngôi danh lam, tôn miếu thờ cúng các vị anh hùng, liệt sĩ và chư linh.
7- Đăi ngộ xứng đáng các bậc chân tài, chân tu để được cộng tác hoặc ủng hộ.

Này Ananđa, khi nào dân chúng Vách-chi c̣n tŕ hành tích cực 7 pháp bất hoại này th́ chẳng những không bị tiêu diệt mà c̣n phồn vinh, hùng mạnh.

Đức Tôn sư bèn ngỏ lời với vị đại thần:

- Này Vás-sa-ka-rá, một thời Như Lai ngụ tại tháp Sa-ranh-đá (Sàranda) gần thị trấn Vesali, có chỉ dạy 7 pháp bất hoại này cho dân chúng Vajji và Như Lai tin rằng họ sẽ không bị tiêu diệt nếu c̣n tŕ hành tích cực 7 pháp ấy.

- Bạch Đức Thế Tôn, theo ngu ư đệ tử, th́ dân xứ Vách-chi dù chỉ tŕ hành một pháp thôi cũng đủ thắng lợi, phồn vinh, hùng mạnh và sẽ không bao giờ bị tiêu diệt.

Sau khi đại thần Vás-sá-ka-rá bái biệt, Đức Tôn sư dạy Đại đức Ananđa triệu tập các hàng tỳ kheo và Ngài phán dạy:

- Này các tỳ kheo, các thầy sẽ được thăng tiến, lợi lạc không bị hoại diệt, nếu các thầy thường xuyên hội họp, đoàn kết keo sơn, nghiêm tŕ giới luật, tôn trọng tăng trưởng, không nô lệ ái dục, thích nơi thanh vắng và mong được tiếp kiến các bậc chân tu.

- Lại nữa, này các tỳ kheo, các thầy sẽ được tuyệt đối tiến hóa, không bị hoại diệt

nếu các thầy không quá bận rộn công tác, không thích nói chuyện tào lao, không thích ngủ nhiều, không thích cuộc sống chung chạ, không ham muốn đê hèn, không thân cận bạn ác và tích cực công phu hành đạo để chứng ngộ.

Đức Tôn sư tạm ngụ tại núi Kỳ xà quật một thời gian bèn cùng Đại đức Ananđa trực chỉ nước Vê-sa-li, qua nhiều làng mạc như Âm-bá-lá-thi-ka, Na-lăn-đà, và Pataligama là những căn cứ chiến thuật do đức vua A-xà-thế thành lập nhằm bao vây và cô lập xứ Vách-chi.

Tại thị trấn Nà-lan-đà này, Đại đức Xá lợi phất từng bày tỏ sự ngưỡng mộ tuyệt đối nơi Đức Tôn sư rằng trong quá khứ, hiện tại và vị lai không có vị sa môn, bà-la-môn nào hơn Đức Phật trên phương diện chánh đẳng chánh giác.

Khi ngự đến thị trấn Pá-tá-lí-ga-má, trước số đông Phật tử bái kiến, Đức Tôn sư dạy về 5 tội phá giới:

1- Người phá giới sẽ bị phá sản.
2- Tiếng xấu đồn xa.
3- Không tự nhiên hiên ngang giữa đại chúng.
4- Sắp mạng chung bị bấn loạn tinh thần,
5- Sau khi mạng chung bị đọa vào khổ cảnh.

C̣n người có giới đức th́ hưởng được 5 quả phước theo ư nghĩa tương phản.

Suốt quảng đường từ Pá-tá-lí-ga-má đến Vê-sa-li Ngài đều giảng đạo chung cho giới xuất gia, tại gia và riêng cho Đại đức Ananđa. Vấn đề tứ thánh đế, vấn đề chánh pháp là gương sáng v.v... đều được Ngài chỉ dạy tận tường. Đến Vê-sa-li, Ngài ngụ tại vườn cây của cô kỹ nữ Âm-bá-pà-li. Đức vua Lic-chá-vi cung thỉnh Ngài vào ngụ trong nội thành nhưng Ngài từ khước.

Sự từ khước này mang một ư nghĩa từ bi, b́nh đẳng, tránh được sự mâu thuẩn chính trị giữa hai vương quốc thù nghịch. V́ vua A-xà-thế nước Ra-já-gá-há muốn chinh phạt xứ Vách-chi nước Vê-sa-li do vua Pá-sê-ná-đí cai trị. Do đó, nếu Ngài nhận lời vào ngụ trong thành nội th́ sẽ mất ḷng vua A-xà-thế và nhà vua có thể nghĩ quấy cho rằng Ngài về phe hoặc ủng hộ vua Pá-sê-ná-đí.

Để tiếp độ dân xứ Vách-chi và để chận đứng mưu đồ chinh phạt của vua A-xà-thế, gần trọn năm ấy, Ngài không đi đâu xa mà chỉ quanh quẩn xứ Vách-chi. Măi đến mùa mưaNgài mới an cư kiết hạ tại chùa Vê-lú-vá. Quả thật ḷng từ bi và sự hiện diện của Đức Tôn sư đă khiến vua A-xà-thế không nỡ cất quân chinh phạt. Thế là hàng triệu người khỏi bị hy sinh oan uổng. Hành động này chứng tỏ Đức Tôn sư chẳng những thành công trên phương diện đạo đức mà ngay trên b́nh diện chánh trị Ngài cũng quán triệt và diệu dụng.

Mùa hạ này là mùa cuối cùng. Đức Tôn sư bị bịnh kiết lỵ trầm trọng. Nhưng tự biết chưa đến giờ nhập diệt nên Ngài dùng năng lực định-thần-túc loại trừ bịnh tật bằng Á-thí-va-sá-ná-khan-ti (1). Đại đức Ananđa, một buổi chiều mát trời vào bạch Phật:

- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử đă mục kích sự nhẫn nại của Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn chẳng những giảng dạy pháp nhẫn nại mà chính ḿnh đă làm gương và làm chứng. Đúng như dư luận đă tán thán rằng Đức Thế Tôn nói sao làm vậy, làm sao nói vậy. Nhưng bạch Thế Tôn, suốt thời gian Thế Tôn ngọa bịnh, đệ tử lo lắng, sốt ruột quá chừng. Toàn thân đệ tử như bị nhấc bổng và xoay tṛn, trời đất tối tăm quay cuồng. Cảm giác của đệ tử như chim non trên cành bị giông băo. Nh́n Thế Tôn đau mà ruột gan đệ tử quặn thắt. Đệ tử cảm thấy đau đớn hơn Thế Tôn. Tuy nhiên, đệ tử không đến nổi tuyệt vọng v́ Đức Thế Tôn chưa triệu tập tăng già, chưa để lời di giáo tối hậu. Do đó, đệ tử tin Thế Tôn chưa nhập Niết bàn.

- Ananđa ơi, ngươi và tăng chúng c̣n mong mỏi ǵ nơi Như Lai nữa. Những điều nói, Như Lai đă nói hết rồi, Như Lai không dấu diếm điều ǵ. Gia tài pháp luật tuyệt hảo của chư Phật, Như Lai đă chuyển giao toàn bộ cho ngươi và giáo hội.

- Ananđa ơi, hăy nh́n Như Lai, nh́n thể chất Như Lai. Như Lai đă già rồi, răng rụng, tóc bạc, má cóp, da nhăn, thân h́nh tiều tụy, như xe cũ sửa rồi sửa nữa, giai đoạn hoàn toàn bất lực chỉ là vấn đề thời gian. Thời gian phá hũy tàn bạo mọi hiện hữu. Không sức mạnh hoặc phép lạ nào có thể ngăn được gịng thời gian. Các ngươi hăy nương nhờ chánh pháp v́ chỉ có hải đảo chánh pháp mới không bị hồng thủy luân hồi nhận ch́m oan uổng.

Chú thích: (1) Adh́vasanakhanti chịu đựng mọi sự đau đớn của cơ thể. Dhitikhanti chịu đựng mọi sự nóng lạnh cơ cực. T́tikhàkhanti chịu đựng mọi hiện tượng làm phát sanh tham sân si.

Vê-lú-ga-má thuộc xứ Vá-ji-chi cho đến măn mùa đông, Đức Tôn sư biết rơ trong người suy yếu thật sự và sự sống chỉ là ngọn đèn trước gió. Tuy nhiên, Ngài giữ im lặng, chưa cho Đại đức Ananđa biết. Trước Niết bàn 3 tháng, chính lúc ấy, Đức Tôn sư gần như mất hẳn sức khỏe, đau ốm liên miên. Mặc dù vậy, Đức Tôn sư v́ ḷng đại từ bi đối với tất cả chúng sinh, nên Ngài phải chấp nhận cuộc hành tŕnh vô cùng vất vả.

Rời Vê-lú-ga-má Đức Tôn sư ngự đến Ku-ta-ga-rá-sa-la trong rừng Đại lâm (Mahàvana) do vua xứ Lích-xá-vi kiến tạo cúng dường. Đến nơi chưa hết mệt, Đức Tôn sư dạy đại đức Ananđa khẩn triệu tập tăng chúng ở quanh kinh đô Vesali. Ngài giảng dạy pháp liễu ngộ là pháp đoạn ĺa phiền năo gồm có: Tứ niệm xứ, Tứ chánh cần, Tứ thần túc, Ngũ căn, Ngũ lực, Thất giác chi, và Bát thánh đạo.

Sáng hôm sau, Ngài vào thành Vesali khất thực. Dân chúng vô cùng mừng rỡ được bái kiến cúng dường Đức Tôn sư bao nhiêu th́ linh tính cũng báo cho họ biết đây là sự gặp gỡ sau cùng. Do đó, họ buồn khổ bấy nhiêu.

Đức Tôn sư an ủi và nhắc nhở:

- Này các Phật tử, các hữu vi pháp đều vô thường, có sanh tất có diệt, đó là định luật chung cho pháp giới chúng sanh. Sự buồn khổ khóc than không kéo được mùa xuân khi thu về lá rụng.

Sau đó, Đức tôn sư đi thẳng về hướng ngoại thành. Vừa ra khỏi cổng ngoài, Đức Tôn sư quay lại nh́n Vesali lần chót, như tượng chúa quay mặt từ giă núi rừng trước khi bị dẫn đem về hoàng cung làm ngự tượng. Phút giây im lặng, thiêng liêng trôi qua. Đức Tôn sư phán dạy Đại đức Ananđa:

- Này Ananđa, đây là lần cuối cùng Như Lai được nh́n Vesali. Ananđa ơi, các hữu vi pháp đều có sanh có diệt. Không ai có thể tránh khỏi cái địnhh luật phủ phàng ấy. Đi Ananđa, chúng ta đi đến tháp Pa-va-lá.

Đại đức Ananđa đi theo sau Đức Tôn sư mà cơi ḷng tan nát đau xót.

Giây phút quyết định

Khi đến tháp Pa-va-lá, Đức Tôn sư ngụ dưới gốc đại thọ và phán dạy Đại đức Ananđa:

- Này Ananđa, người thuần thục bốn thần lực như Như Lai, nếu muốn, có thể sống 120 tuổi.

Đức Tôn sư phán dạy như vậy ba lượt, nhưng Đại đức Ananđa không có bất cứ phản ứng nào v́ sự xúc động mănh liệt đă khiến Đại đức mất hẳn sự sáng suốt cố hữu, không đoán được tôn ư Đức Tôn sư. Quả thật, Đại đức đă bỏ mất cơ hội ngàn vàng. Thấy Đại đức Ananđa như kẻ mất hồn, Đức Tôn sư dạy:

- Này Ananđa, trông ngươi mệt mỏi nhiều, ngươi nên tạm nghĩ lấy sức. Như Lai cũng cần an nghĩ một chút.

Đại đức bèn t́m một gốc cây không xa ngồi tịnh dưỡng. Ngay lúc ấy Đức Tôn sư hồi tưởng quá tŕnh truyền đạo suốt 45 năm dài từ ngày mới thành chánh quả. Nào ngại chúng sanh không lănh hội giáo lư giải thoát, nào ngại không đủ nhân duyên thành lập giáo hội đạo tràng, nào ngại đệ tử xuất gia và tại gia không đủ khả năng đối thoại với những chủ thuyết ngoại đạo đối nghịch, nên Ngài chưa vội Niết bàn. Nhưng nay th́ số đông chúng sanh đă lănh hội được giáo lư giải thoát, giáo hội, đạo tràng đă được thành h́nh, tứ chúng: tỳ kheo, tỳ kheo ni, thiện nam, tín nữ đă đủ khả năng đối thoại với những chủ thuyết ngoại đạo và đủ sức thừa kế sự nghiệp truyền tŕ chánh pháp. Do đó, Ngài có thể Niết bàn v́ công tŕnh độ đời đă viên măn.

Sau giây phút hồi tưởng, Đức Tôn sư đi đến quyết định chọn ngày rằm tháng tư để tịch diệt. Sự quyết định tối hậu này đă khiến địa cầu rung chuyển, b́nh địa nổi phong ba, cây cối cúi đầu, đại dương gào thét, lưng trời biến thành màu đỏ, chim chóc bay tán loạn kêu lên những tiếng năo ruột vang cả núi rừng. Đại đức Ananđa thấy hiện tượng kỳ lạ, lập tức vào hầu Đức Tôn sư:

- Bạch Đức Thế Tôn, địa cầu đă xảy ra hiện tượng bất tường khiến đệ tử lo quá. Xin Đức Thế Tôn từ bi cho đệ tử biết rơ nguyên nhân.

Đức Tôn sư phán:

- Ananđa ơi, những trường hợp sau đây khiến cho địa cầu phải rung chuyển, đó là: ngày Phật đản sanh, Phật thành đạo, Phật chuyển Pháp luân, và ngày Phật quyết định Niết bàn.

Vừa nghe xong, Đại đức Ananđa không c̣n b́nh tĩnh được nữa, liền ôm chầm đôi chân Đức Tôn sư nước mắt tuôn rơi đầm đ́a. Qua tiếng nấc đứt quảng, Đại đức nghẹn ngào gượng bạch:

- Bạch Đức Thế Tôn, xin Đức Thế Tôn thương xót đệ tử và chúng sanh mà tiếp tục duy tŕ mạng căn chớ vội Niết bàn.

Sự đau đớn tột cùng đă khiến Đại đức không nói thêm được lời nào.

Với nét mặt và ánh mắt b́nh lặng cố hữu, Đức Tôn sư phán:

- Ananđa ơi, muộn mất rồi. Đấng Như Lai không bao giờ hành động trái với điều tự hứa. Như Lai sẽ nhập Niết bàn vào ngày rằm tháng tư, nghĩa là c̣n đúng ba tháng nữa. Này Ananđa, Như Lai đă gợi ư cho ngươi ít nhất là 16 lần rằng: người có bốn thần lực, nếu muốn, có thể duy tŕ mạng căn đến 120 tuổi, nhưng ngươi im lặng không có phản ứng. Như Lai cũng định rằng, trong những lần ấy nếu ngươi yêu cầu, Như Lai sẽ từ chối tối đa hai lượt và đến lần thứ ba Như Lai sẽ nhận lời. Nhưng giờ đây th́ mọi việc đă an bài. Như Lai không c̣n đổi ư được nữa.

Im lặng một lúc Đức Tôn sư nói tiếp:

- Ananđa, ngươi nhớ chăng? Tại núi Kỳ xà quật (Gijjhakùta), tại hang đá Sú-ká-rí-kha-ta, và những lần khác: tại đại thọ Gô-tá-mí-ní-grô-dhí, tại hồ Sit-tá-păn-ná núi Vê-pha-rá, tại tảng đá đen núi Í-si-gí-lí, tại ngọn núi Síp-pí-sô-đi-ka rừng lạnh, tại chùa Tá-cô-đà-ra-má, tại chùa Trúc lâm (Veluvana), tại vườn xoài của danh y Kô-ma-rá-phắc-chá, và tại rừng Mắt-tá-kút-chí-mí-gá-đa-dá. Chính tại 10 địa điểm thuộc xứ Rà-já-gá-há này, Như Lai cũng gợi ư như vậy và ngươi cũng im lặng.

Sau đó, khi đến xứ Vesali, Như Lai cũng gợi ư tại 6 địa điểm nữa là: tại tháp Ú-đê-ná, tháp Săt-tam-bá, tháp Gô-tá-má-ká, tháp Bá-hú-pút-tá, tháp Sa-răn-đá và tháp Pa-va-lá nhưng ngươi vẫn tiếp tục im lặng. Đó là sự sơ sót của ngươi, vậy ngươi đừng khóc than nữa.

Ananđa ơi, giờ đây ngũ uẩn Như Lai như cỗ xe cũ, như thuyền lủng đáy, Như Lai đă quyết bỏ rồi. Vấn đề không thể kéo lại. Theo thông lệ, chư Phật không nói hai lời, không quyết định hai lần.

Ananđa này, Như Lai không phụ ngươi đâu. Ngươi hăy an tâm, đừng tủi thân khóc than nữa. Ngươi đă làm tṛn bổn phận một cách tốt đẹp. Vậy ngươi có quyền hoan hỉ và niềm tự hào sẽ an ủi ngươi.

Ananđa ơi, Như Lai đă từng nói với ngươi rằng, người đời phải bị chia ĺa tất cả nhân vật yêu quí một cách vĩnh viễn. Sự cách biệt phân ly là mức đến của kiếp người.

Tiếp tục hành tŕnh, Đức Tôn sư đến làng Phanh-đú-ga-má (Bhandugàma) và từ đó Ngài thẳng qua xứ Phô-gá. Tại những nơi tạm trú, Đức Tôn sư đều dùng th́ giờ ngàn vàng ấy giáo huấn các hàng tỳ kheo về xuất thế pháp là: giới, định, huệ, giải thoát, và giải thoát tri kiến.

Đức Thế Tôn giải thích thêm:

- Này các tỳ kheo, giới là căn bản các hạnh lành, như trái đất là nơi dung thân của các loài động vật và thực vật. Người có giới sống thanh nhàn, thoải mái như ngôi nhà đă quét dọn sạch sẽ và trang trí mỹ thuật, tránh được sự phiền phức bởi rác rến và các đồ dơ uế, mất vệ sinh.

Nhờ giới sanh định. Người có định hằng sống an tịnh, trầm mặc và b́nh thản trước mọi chướng duyên, nghịch cảnh gây nên bởi 8 thế gian pháp (1). Lửa phiền năo dù nóng bức đến đâu cũng không đốt cháy được định tâm. Như ngôi nhà kiên cố, vách phênh chắc chắn, mái lợp kín đáo th́ không sợ nắng táp, mưa dầm, gió dữ.

Nhờ định phát huệ. Người có huệ là người nhận chân được sự thật của vạn hữu một cách thấu triệt, không lầm lẫn. Sự thật ấy là ba định lư bất kiến: chư hành vô thường, chư pháp vô ngă, tịch tịnh Niết bàn. Trí huệ nhận chân là ngọn gươm sắc bén vô song có thể đoạn ĺa gốc rể phiền năo là ái dục, sân hận và si mê một cách diệu dụng. Chân tâm đă được giới, định, huệ xây dựng, hậu thuẩn th́ kết quả là giải thoát toàn diện, vô cấu, vô nhiễm, thể nhập vào Phật tánh: thường, lạc, ngă, tịnh.

Chú thích: (1) Được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, được khen, bị chê, gặp vui, bị khổ. Cũng gọi là Bát phong.

Này các tỳ kheo, người giải thoát sẽ tự ḿnh thưởng thức quả vị tuyệt vời của sự giải thoát. Họ có cảm giác của người t́m gặp kho tàng hoặc của bịnh nhân lâu ngày được b́nh phục. Người ấy biết được rằng các vi tế phiền năo đă bị tiêu diệt toàn bộ, duyên sanh không c̣n, sự sanh đă dứt và gánh nặng luân hồi đă được quăng xuống.

Nhờ thấm nhuần mưa pháp, một số lớn tỳ kheo được đắc đạo chứng quả.

Tin Đức Tôn sư sắp nhập diệt gây xúc động mănh liệt trong hàng Phật tử xuất gia và tại gia. Họ dụm năm tụm bảy bàn tán xôn xao, than vắn, thở dài, xót xa bi lụy. Riêng các bậc thánh nhân vô lậu th́ cảm nhận sâu xa định luật vô thường của vạn hữu.

Một vị tỳ kheo tên Thăm-ma-ra-má tự nghĩ: chỉ c̣n ba tháng ngắn ngủi, Đức Tôn sư sẽ nhập Niết bàn. Ta được xuất gia theo chánh pháp nhưng phiền năo ta vẫn c̣n. Vậy ta hăy tích cực công phu hành đạo và bằng mọi cách phải đạt thành quả La hán kịp lúc Đức Tôn sư c̣n tại thế. Quyết định xong, Đại đức tách rời hàng ngũ chúng tăng, t́m nơi thanh vắng, một ḿnh hành đạo.

Thấy Đại đức có cử chỉ lạ, các vị tỳ kheo cho rằng Đại đức vô t́nh không thương tưởng Đức Phật, bèn đem câu chuyện ấy bạch Phật. Đức Tôn sư cho gọi Đại đức đến và phán hỏi:

- Như Lai nghe rằng ngươi có hành động như vậy phải không?
- Bạch Đức Thế Tôn, phải.
- Tại sao ngươi hành động như vậy?
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử nghĩ rằng, đệ tử được xuất gia đúng theo chánh pháp nhưng phiền năo vẫn c̣n. Cho nên đệ tử phải cố gắng hành đạo để sớm đắc quả kịp lúc Đức Thế Tôn c̣n tại thế. Và đệ tử cho rằng chỉ có cách cúng dường ấy mới gọi là cúng dường cao thượng.

Đức Tôn sư ban thưởng bằng tiếng "lành thay" ba lần. Đồng thời Ngài khuyên nhủ các vị tỳ kheo:

- Này các tỳ kheo, vị nào thương tưởng kính yêu Như Lai thực sự th́ vị ấy phải noi gương thầy Thăm-ma-ra-má. Hành động ấy mới đáng gọi là thờ kính cúng dường Như Lai cao thượng. Này các tỳ kheo, người ưa thích, nhớ tưởng và thực hành chánh pháp sẽ đạt đến cứu cánh Niết bàn.

Mặc dù vậy, các tỳ kheo vẫn bao quanh Đức Tôn sư trong suốt cuộc hành tŕnh. Thấy thế, Đức Tôn sư khuyên các vị nên t́m nơi thanh vắng để hành đạo cho mau giải thoát. Ngài nhấn mạnh:

- Này các tỳ kheo, trong các đạo chỉ có bát chánh đạo là quí nhất; trong các đế chỉ có tứ thánh đế là quí nhất; trong các pháp chỉ có pháp ly dục là quí nhất; trong loài người chỉ có Đức Như Lai là quí nhất. Các thầy hăy hành tŕ theo bát chánh đạo v́ chỉ có con đường độc nhất này mới đánh lạc hướng theo dơi của Ma vương. Các thầy hăy tích cực hành đạo để diệt khổ. Sự nổ lực là nhiệm vụ của các thầy, c̣n Như Lai chỉ là bậc đạo sư.

Đức Tôn sư gọi Đại đức Ananđa:

- Này Ananđa, chúng ta qua xứ Kú-sí-na-ra.

Đại đức tuyên bố cho chư tăng biết và cùng nhau tiếp tục hành tŕnh. Dọc đường, Đức Tôn sư mệt nhiều, nên dạy Đại đức Ananđa trải y Tăng già lê xếp thành bốn lớp cho Ngài nằm nghỉ.

- Này Anan- Đức Tôn sư nói thật nhỏ v́ mệt- Như Lai cảm thấy đuối sức. Bịnh củ tái phát trầm trọng, Như Lai khát nước quá. Ananđa t́m nước cho Như Lai uống đỡ khát.

Cơi ḷng tê tái, Đại đức nói như khóc:

- Bạch Đức Thế Tôn, 500 cỗ xe ḅ vừa đi ngang, nước sông đục cặn và dơ quá sức. Xin Thế Tôn ráng thêm chút nữa sẽ đến con sông Cá-cú-tha (Kakudha) nước vừa trong vừa ngọt.

- Không được đâu Ananđa. Như Lai khát nước lắm. Trong người nóng ran, cổ họng khô gắt. Ananđa đi mau, đừng chần chờ nữa.

Đại đức Ananđa thương Phật vô cùng, đành ḷng ôm bát đi múc nước dơ. Nhưng Phật lực quả thật phi thường. Nước đục, lẫn lộn bùn dơ tự biến thành trong và ngọt.

Sở dĩ bịnh căn tái phát trầm trọng là v́ khi Ngài ngự ngang xứ Pàvà, ngụ tạm tại vườn xoài của người thợ bạc tên Chun-đá (Cunda), được chủ vườn mời về nhà thọ trai và sau buổi ăn này, Đức Tôn sư bị bịnh kiết lỵ. Nguyên nhân Ngài mắc bịnh là do ḷng từ bi với hàng tỳ kheo. Ngài dạy thí chủ chỉ nên cúng riêng cho Ngài, c̣n dư ra th́ đem chôn bỏ v́ thức ăn ấy tương đối khó tiêu. Hành động này đă nói lên sự hy sinh tuyệt đối: thà thiệt ḿnh nhưng lợi người. Một tâm hồn như vậy chỉ có thể t́m thấy nơi Đức Phật hoặc nơi người mẹ ruột.

-oOo-

Xem Tiếp Phần 5 Trang 2

Trở Laị Phần 4 Trang 2