T̀NH ĐỜI Ư ĐẠO
T́nh
đời, Ư đạo
(Cuộc đời Thánh tăng Ananda)
Ḥa thượng Hộ Giác
Một Tâm Hồn
Có hai vị Sa-môn đi ngang qua cánh rừng và đang tiếp tục trên lộ tŕnh bằng phẳng. Vị đi trước sắc diện hồng hào, nghi dung trang nhă, phong điệu uy nghiêm, đáng cho mọi người chiêm ngưỡng. Lá y màu vàng bằng vải thô nhưng cũng đủ thanh lịch.
Vị đi sau tuy không phương phi, uy dũng như vị đi trước nhưng tương đối cũng trang nghiêm phong nhă. Khoảng cách giữa hai vị vừa vặn, không quá xa, không quá gần.
Khi đến khúc đường rẻ đôi, vị đi trước vừa định quẹo phải th́ vị đi sau liền lên tiếng:
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử hữu sự rẻ trái.
- Này Na-gá-sá-ma-lá, không nên. Như Lai có duyên sự quan trọng cần phải độ sinh ở phía tay phải.
- Đệ tử hữu sự muốn rẻ trái.
Đức Phật năn nỉ:
- Này Nagasamala, đừng làm như vậy, hăy theo Như Lai đi về tay phải.
Mặc dù Đức Phật đă ba lần ngăn cản nhưng Nagasamala không tuân lời. Cuối cùng, thầy bỏ bát Đức Phật giữa đường và liền đi về tay trái theo sở thích. Đức Phật lượm bát, một ḿnh thui thủi hướng về phía tay mặt.
Một lần khác, thầy Mêkhida làm thị giả, theo Đức Phật đi qua làng Chanh-tu, tỉnh Ba-chi-ná-oăn-sá. Buổi sáng, thầy đi khất thực. Lúc trở về, thấy một vườn xoài xum xuê, mát mẻ, thầy nảy sanh ư định đến đây tham thiền, bèn bạch xin phép Đức Phật.
Đức Phật khuyên ngăn ba lần.
Nhưng thầy Mê-khí-dá một mực cải lời, bỏ Đức Phật một ḿnh và ra đi về hướng vườn xoài để hành đạo. Song thầy hoàn toàn thất bại. Tâm thầy xáo trộn, vọng động không ngừng. Các tà tư duy, như tư duy về ái dục, về nhiễu hại, về oán thù, nổi lên đột phá dữ dội, dù trạng thái yên lặng tạm thời, thầy cũng không t́m được.
Cuối cùng đành phải trở về lễ Phật. Đức Phật chẳng những không để tâm về những hành động nông nổi gần như phạm thượng của thầy mà trái lại c̣n dùng lời từ mẫu khuyên lơn:
-Mê-khí-dá ơi, tâm vốn loạn động, khó giữ, khó dạy. Bậc trí tuệ tích cực uốn nắn, khiến nó phải thuần thục như tay thiện xạ uốn nắn mũi tên. Mê-khí-dá này, tâm hằng chạy theo nhập cuộc ngoại cảnh nhất là ngũ dục như cá thích nước. Do đó, nếu bị bắt lên bờ th́ nó dăy dụa không yên. Tâm tuy khó dạy, nhưng nếu dạy được th́ sẽ hàng phục được Ma Vương.
Sự thật Đức Thế Tôn nào muốn ngăn cản công tŕnh tu chứng của môn đồ, nhưng v́ thấy rỏ căn cơ chưa đến thời kỳ liễu ngộ, nên Ngài mới khuyên ngăn đó thôi.
Suốt 20 năm đầu kể từ ngày thành đạo, khoảng thời gian 35 đến 54 tuổi Đức Phật không có vị Thinh văn nào làm thị giả cố định: khi thầy U-bá-va-nạ, khi thầy Na-ghí-tá, khi thầy Su-năc-khăt-tá, khi thầy Sa-gá-tá, khi thầy Rathá, khi thầy Na-gá-sá-ma-lá hoặc thầy Mê-khí-dá đă hành động nông nổi như vừa lược kể và, c̣n có Sadi Chuôn-tá, bào đệ của Ngài Đại đức Xá Lợi Phất nữa.
V́ không có thị giả phục dịch thường xuyên, nên Đức Phật phải chịu cực khổ vô cùng. Các vị thị giả bất đắc dĩ cứ thay nhau phục dịch Ngài một cách gượng gạo, tắt trách.
Vấn đề thị giả là một sự cần thiết, hợp lư, v́ Đức Phật có rất nhiều Phật sự phải làm, một ḿnh không thể hoàn tất mọi việc nên Ngài rất cần thị giả. Chẳng hạn như ngoài 5 điều thường hành Phật sự có tánh cách cập nhật hóa Ngài c̣n phải họp tăng, tiếp khách tứ phương, từ hàng vua chúa thượng lưu đến hàng thường dân lao động, từ bậc xuất gia đến hàng cư sĩ nhất là nữ Phật tử. Tư cách một vị Phật tổ không cho Ngài tiếp khách nữ một ḿnh. Đó là chưa nói đến thỉnh thoảng Đức Phật nhập thất, không tiếp bất cứ ai. Trường hợp ấy, lẽ dĩ nhiên, mọi Phật sự đều do thầy thị giả xử lư.
Vấn đề thị giả quan trọng và cần thiết là như vậy. Chúng ta không nên vô t́nh hiểu sai hoặc cố t́nh xuyên tạc cho rằng Đức Phật muốn quan trọng quá cá nhân mà mang tội.
V́ những lư do vừa kể, có một lần, tại Kỳ Viên Tịnh xá, kinh đô Sa-quách-thi, xứ Cô-sa-la trước số đông chư vị Tỳ kheo nhất là các vị Tôn túc trưởng lăo, có cả nhị vị Đại đệ tử Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên, Đức Phật đề cập đến vấn đề thị giả:
- Này các Tỳ kheo, Như Lai đă già rồi, một số các thầy v́ sở thích riêng tư nên đă bỏ Như Lai một ḿnh hoặc bỏ y bát của Như Lai dưới đất rồi ra đi một cách thản nhiên. Do đó, Như Lai yêu cầu chư tăng tuyển chọn cho Như Lai một thị giả cố định.
Chư tỳ kheo vô cùng xúc động, Đại đức Xá Lợi Phất lên tiếng trước nhất xin t́nh nguyện làm thị giả.
Đức Phật bày tỏ sự hoan hỉ và dạy:
- Này Xá Lợi Phất, không nên đâu. V́ thầy ở nơi nào th́ đem lợi lạc đến nơi đó. Lời giảng dạy của thầy không khác lời dạy của Như Lai. Thầy có khả năng chuyển Pháp luân như Như Lai. Những người được thân cận đàm đạo với thầy cũng như được thân cận đàm đạo với Như Lai.
Chư Đại đức Trưởng lăo khác cũng t́nh nguyện xin làm thị giả, nhưng Đức Phật đều khước từ. Chỉ c̣n một ḿnh Đại đức Ananđa ngồi yên lặng. Đại đức Xá Lợi Phất khuyến khích:
- Thầy Ananđa, tại sao thầy ngồi yên lặng?
- Bạch Đại đức, chức vụ mà ḿnh van xin hoặc t́nh nguyện, tôi tưởng không được cao quí mấy. Vả chăng, Đức Thế Tôn đă biết rơ tâm trạng của tôi. Nếu thấy được, Đức Thế Tôn sẽ chỉ định tôi trong chức vụ ấy. Thiện chí cũng như t́nh cảm của tôi thế nào, Đức Thế Tôn đều quán thấu.
Hội trường im lặng. Không một cử động. Không một lời nói. Một sự im lặng tuyệt đối gần như hội trường không có người.
Giữa không khí ấy, Đức Phật long trọng xác nhận vai tṛ Đại đức Ananđa:
- Này các Tỳ kheo, Ananđa đă có ư nguyện làm thị giả Như Lai từ lâu. Sự xác nhận hôm nay chỉ nhằm mục đích công khai hóa vai tṛ thị giả của Ananđa mà thôi. Bắt đầu từ giờ phút này, Ananđa là thị giả chính thức và cố định của Như Lai.
Cử chỉ này quả thật vô cùng đẹp đẽ. Thật ra, Đức Phật không cần công khai tuyên bố vai tṛ thị giả của Đại đức Ananđa mà chỉ cần chọn riêng cũng được. Nhưng Đức Phật có ư tuyên dương thiện tâm, thành ư của Đại đức, đồng thời chính thức hóa một vai tṛ quan thiết, có tánh cách cố định. C̣n trên thực tế, th́ Đại đức Ananđa đă lập công bồi đức, tŕ hành Ba-la-mật trong nhiều trăm kiếp cũng chỉ để đạt thành hạnh nguyện được làm thị giả, một chức vụ tuy không lớn lao nhưng vô cùng danh dự. Đại đức Ananđa là mẫu người tự trọng, nh́n xa thấy rộng, khế lư, khế cơ. Cho nên, sau khi được Đức Phật và chúng Tăng giao phó trọng trách, bèn bạch Đức Phật xin được đặc miễn những trường hợp sau:
1- Xin Đức Phật đừng ban y
mới, đẹp và đắt giá cho Ananđa.
2- Đừng ban thực phẩm cao lương mỹ vị.
3- Đừng cho Ananđa ngụ chung tịnh thất.
4- Đừng cho Ananđa tháp tùng đến những
địa điểm mà Đức Phật đă hứa
khả.
- Này Ananđa, ngươi nhận thấy lợi ích thế nào mà xin đặc miễn 4 điểm này?
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử xin đặc miễn như vậy là để ngừa những lời b́nh phẩm cho rằng đệ tử phục dịch Đức Thế Tôn chỉ v́ lợi lộc và danh vị.
Đại đức Ananđa bạch tiếp:
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử xin Đức Thế Tôn ban cho những đặc ân sau đây:
1- Xin Đức Thế Tôn tùy thuận quang
lâm đến những nơi mà đệ tử đă
hứa.
2- Xin cho đệ tử được phép tiến
dẫn Phật tử vào bái kiến Đức Thế Tôn.
3- Cho phép đệ tử bạch hỏi những
điều hoài nghi trong mọi trường hợp.
- Này Ananđa, ngươi thấy lợi ích thế nào mà yêu cầu như vậy?
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử yêu cầu như vậy là để ngăn ngừa những lời chỉ trích, cho rằng những vấn đề có tánh cách giao tế mà đệ tử cũng không làm được, th́ giữ chức vụ thị giả làm ǵ?
Đại đức bạch tiếp:
- Bạch Đức Thế Tôn, c̣n một đặc ân cuối cùng, xin Đức Thế Tôn từ bi chấp thuận cho luôn, đó là:
4- Xin Đức Thế Tôn hoan hỉ nói
lại những bài pháp mà đệ tử vắng mặt
không được nghe.
- Này Ananđa, ngươi nhận thấy lợi ích thế nào mà yêu cầu như vậy?
- Bạch Đức Thế Tôn, cũng đều ngăn ngừa những lời bàng quang chê trách rằng: đệ tử theo hầu Đức Thế Tôn như h́nh với bóng, nhưng khi được hỏi đến kinh, luật, kệ ngôn hay tích truyện th́ không biết chi cả, giống như ếch trong ao sen không biết thưởng thức hương vị của sen.
Đức Thế Tôn chấp thuận tám điều khoản yêu cầu của Đại đức Ananđa và, Đại đức Ananđa cũng bắt đầu nhận lănh vai tṛ thị giả chính thức ngày hôm ấy.
Lúc bấy giờ, Đức Phật hưởng được 55 tuổi đời, 20 tuổi đạo trong khi Đại đức Ananđa được 55 tuổi đời, 19 tuổi đạo.
Nơi hoàng cung
Ca-b́-la-vệ
Ngược ḍng thời gian, kể từ ngày Đại đức Ananđa nhận làm thị giả về trước là 55 năm.
Tại hoàng cung nguy nga tráng lệ của hoàng gia họ Thích, đèn đuốc sáng choang, hoa thơm ngào ngạt, cờ xí rợp thành. Hoàng thân Súc-cô-đa-na, bào đệ của Đức vua Tịnh Phạn Sút-thô-đa-na, nét mặt vui tươi, chuyện tṛ cởi mở với mọi người từ trong ḍng hoàng tộc đến ngoài công thần tướng sĩ, tất cả đều rộn lên một niềm vui trước tin mừng Công nương Súc-cô-đa-na hạ sinh một hoàng nam.
Căn cứ điềm vui mừng sung sướng của mọi người, công tử được đặt tên là Ananđa. Công tử Ananđa chào đời cùng một ngày với Thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhatta) (1) và được song thân cưng như trứng mỏng. Mọi phương tiện dưỡng nhi và dục nhi được áp dụng đúng mức. Ananđa truởng thành trong nhung lụa, ngọc ngà nhất là trong sự vui mừng sung sướng tuyệt vời của song thân và hoàng gia Thích tộc.
Công tử tỏ ra rất mực ngoan hiền tài hoa và trí thức. Gương mặt thật sáng. Da dẻ hồng hào. Nói năng lễ độ. Thật đáng mặt con nhà.
Thân phụ cho tuyển chọn những bậc danh sư kỳ tài dạy dỗ công tử. Chẳng bao lâu, sự thông minh đĩnh ngộ và tài năng lỗi lạc của công tử nức tiếng xa gần, khiến cho thân phụ đă sung sướng càng thêm măn nguyện.
Thế rồi, một hôm, tin Thái tử Sĩ Đạt Ta rời bỏ ngai vàng, cha già, vợ đẹp và con thơ ra đi xuất gia tầm đạo, làm kiếp người hùng của nhân loại, khiến tâm trạng Ananđa vừa ngạc nhiên vừa thán phục. Càng thán phục lại càng hoan hỉ (2). Sự hoan hỉ thúc đẩy một biểu đồng t́nh. Ananđa suy nghiệm chắc hẳn phải có một lư tưởng phi thường, một đại sự nhân duyên thế nào đó, nên Sĩ Đạt Ta, con cưng của Ca-b́-la-vệ mới rủ áo đế hoàng, sống kiếp phong sương, vui thú tiêu dao thoát tục.
Rồi 6 năm sau. Tin Thái tử Sĩ Đạt Ta thành Phật được loan truyền vô cùng nhanh chóng. Từ Vương Xá thành đến các đô thị lớn và, cuối cùng đến kinh đô Ca b́ la vệ. Mọi người tràn ngập niềm vui rộng lớn. Người vui nhất có lẽ là Công tử Ananđa. Công tử vốn có chủ định: khi nào Đức Phật về thuyết pháp th́ sẽ theo Ngài đi tu.
Chú thích:
(1) Hoan hỉ, sung sướng, khánh hỉ,
bội hỉ, hoan lạc...
(2) Nhân vật đồng sinh với Sĩ Đạt Ta: Ananda,
Yasodhara, Tể tướng Kàludàyi, cận thần Channa,
tuấn mă Kiền Trắc, cây Bồ đề, và 4 hầm
châu ngọc.
Một hôm, tại hoàng thành Ca b́ la vệ, phiên họp khoáng đạt có đủ mặt hoàng gia thích tộc, vương tôn công tử, đặt dưới quyền chủ tọa của đức vua Tịnh Phạn.
Sau nghi thức khai mạc, Đức vua Tịnh Phạn tuyên bố:
- Thưa quí vị, quí vị đều được nghe và biết tin mừng Đức Phật ra đời, Ngài không phải ai xa lạ mà Ngài chính là Thái tử Sĩ Đạt Ta. Được biết Ngài đang ngụ tại Vương xá Ràjagaha kinh đô của Đức vua Tần bà sa la (Bimbisàra). Tôi xin hỏi ư kiến quí vị, chúng ta có nên cử người sang thỉnh hay để Ngài tự động về? Xin quí vị cho biết.
Một công tử đưa tay và phát biểu:
- Thưa hội nghị, theo thiển kiến của tôi, chúng ta không nên cử người sang thỉnh v́ hai lư do. Một, Thái tử chính là con Đức vua chủ tọa. Khi ra đi, Ngài chẳng từ giả ai, thậm chí phụ vương của Ngài. Hai, hoàng thành Ca b́ la vệ này, thuộc quyền sở hữu của Ngài. Chúng ta lấy tư cách ǵ để mời ông chủ trở về nhà ông chủ. Hơn nữa, Thái tử tự cho ḿnh là Phật, mà không biết nhớ thương cha mẹ, ḍng họ để về thăm viếng th́ tội t́nh ǵ ḿnh phải thỉnh mời.
Vừa lúc ấy, một vị công tử khác đứng lên phát biểu:
- Kính thưa cử tọa, ư kiến công tử Đề Bà Đạt Đa vừa tŕnh bày thiếu vô tư. Theo tôi thiển nghĩ: Đức Phật dù trạc tuổi chúng ta nhưng hiện nay Ngài là một Samôn. Đối với một Samôn b́nh thường mà chúng ta c̣n quí trọng th́ tại sao chúng ta không thể dành sự quí trọng ấy cho Đức Phật, vừa là một Samôn vừa là họ hàng cật ruột? Hơn nữa địa vị Phật tổ, bậc Chánh Đẳng Chánh Giác th́ ngay như đức chuyển luân thánh vương cũng phải quí trọng huống chi là chúng ta. Tôi đề nghị nên cử phái đoàn sang thỉnh mới đúng.
Ư kiến và đề nghị Công tử Ananđa chạm tự ái Đề ba đạt đa rất nặng, Đề ba đạt đa phản ứng:
- Thưa cử tọa, nếu lấy địa vị Phật tổ làm động lực áp đảo thiên hạ, th́ ai ai cũng có thể trở thành Phật tổ miễn đủ can đảm nói láo là được. Hàng động tự phong chức là hành động thiếu thực tế.
Liền khi ấy, một vị cao niên đứng lên phát biểu:
- Thưa cử tọa, nếu quả thật Thái Tử Sĩ Đạt Ta nói láo thiên hạ và tự phong cho ḿnh là Phật Tổ như ư kiến của công tử Đề Bà Đạt Đa vừa phát biểu th́ chúng ta càng nên cử người sang thỉnh Đức Phật về để sớm rơ trắng đen, hư, thực rằng, Ngài là Phật Tổ thực sự hay giả hiệu.
Hội trường im lặng. Không có ư kiến chống đối. Đức vua Tịnh Phạn kết luận:
- Thưa quí vị, những ư kiến vừa đóng góp đều hữu ích, đáng ghi nhận. Chúng tôi muốn được kết thúc phiên họp hôm nay bằng một quyết định. Vậy chúng tôi xin lấy biểu quyết: ai đồng ư cử người sang thỉnh Đức Phật th́ xin đưa tay lên.
Cử tọa nhất loạt đưa tay. Họ đưa thật cao để chứng tỏ sự biểu đồng t́nh. Chỉ có công tử Đề Bà Đạt Đa và một vài người bạn chí thân của công tử là không đưa tay mà thôi.
Tiếng tán đồng vang dội khắp hội trường. Họ yêu cầu đức vua Tịnh Phạn hỏa tốc cử người sang thỉnh Đức Phật ngay. Công tử Ananđa lấy làm hoan hỉ và xin t́nh nguyện lănh sứ mạng đi thỉnh. Nhưng Đức Vua Tịnh Phạn khước từ. Công tử Đề Bà Đạt Đa bực tức vô cùng, v́ nhớ lại, từ ấu thơ đến giờ, chưa lần nào thắng được Thái tử Sĩ Đạt Ta.
Lúc bấy giờ, Đức Phật đă rời địa phận U ru quê la (Uruvela) nơi Ngài đắc đạo, trực chỉ
I-si-pa-ta-mi-ga-đa-da để tiếp độ năm thầy Kiều Trần Như. Tiếp theo, Ngài độ công tử Dásá (Yassa) và 54 người bạn thân của công tử. Sau đó, Ngài độ ba anh em du sĩ ngoại đạo. Người anh là Pu-ra-na-ca-sa-pa có 500 đồ đệ. Người em thứ là Ga-da-ca-sa-pa có 300 đồ đệ và, người em út là Na-di-ca-sa-pa có 200 đồ đệ. Độ xong nhóm này, Ngài bèn đi về thành Vương xá để hóa độ đức vua Tần Bà Sa La (Bimbisàra), người mà Ngài đă từng hứa hẹn từ trước, trên bước đường xuất gia tầm đạo. Tại đây, Ngài nhận ngôi chùa Trúc Lâm, do đức vua Tần Bà Sa La hỉ cúng. Đây là ngôi chùa đầu tiên trên bước đường khai đạo của Ngài.
Tin Đức Phật ngự tại Trúc Lâm được truyền đi rất mau trong quần chúng. Và cũng tại đây, Ngài tiếp độ nhị vị Đại Đệ tử Phật: Xá Lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Nói về Đức vua Tịnh Phạn cử phái đoàn đi thỉnh Phật, nhưng sau khi nghe pháp tất cả đều phát tâm xuất gia, không một người nào nhớ thỉnh Phật cả. Măi đến phái đoàn thứ 10, do đại tướng Ca-Lu-Đa-Di (Kàludàyi) hướng dẫn, đến chùa Trúc Lâm, sau khi nghe pháp và được xuất gia, đại tướng vẫn nhớ thỉnh Phật theo sứ mạng triều đ́nh.
Đức Phật nhận lời. Ngài khởi hành chung với một số đông thánh tăng La Hán khoảng hai muôn vị. Ngày đi đêm nghỉ và phải mất 60 ngày đường mới đến Ca B́ La vệ. Suốt cuộc hành tŕnh, Ngài luôn thuyết pháp độ sanh. Một số đông đắc đạo chứng quả, hoặc ít nhất cũng thọ quy giới, bỏ dữ theo lành, cải tà qui chánh.
Đức vua Tịnh Phạn chuẩn bị tiếp đón Đức Thế Tôn vô cùng trọng thể và, không quên cho kiến tạo ngôi chùa Ni-gô-ra cúng dường Đức Phật.
Chuyến trở về của Đức Phật hôm ấy, quả thật là một niềm vui tưng bừng, rộn ră. V́ đă 7 năm dài cách biệt phân ly, hoàng gia Thích tộc không bao giờ được gặp Ngài dù chỉ là cái bóng.
Sáng hôm sau, Đức Phật và chư thánh tăng vào thành khất thực. Đức vua Tịnh Phạn được công nương Da Du Đà La khẩn tấu, lập tức đi đến địa điểm khất thực, tay nắm chéo y Đức Phật, nét mặt thật buồn:
- Sĩ Đạt Ta con, tại sao con làm như vầy? Ḍng dỏi nhà ḿnh nào phải ăn xin. Con đă làm nhục Phụ vương và hoàng tộc. Hơn nữa, cung điện sẵn có, tại sao con không về, mà lại đi ăn xin thế này? Phụ vương c̣n mặt mũi nào dám nh́n thiên hạ. Cha làm vua c̣n con th́ đi ăn xin. Thật là mai mỉa!
Bằng giọng trầm ấm dịu hiền, Đức Phật giải thích:
- Tâu Phụ vương, giờ đây Như Lai không c̣n là ḍng họ Thích Ca nữa mà là ḍng họ A lị da (Ariya: Thánh). Truyền thống chư Phật quá khứ đều đi khất thực nên Như Lai cũng phải duy tŕ truyền thống ấy. Cả phương tiện nhà cửa, Như Lai cũng không có. Như Lai là bậc Mu Ni không có gia đ́nh.
Đức vua Tịnh Phạn tủi hờn và phản đối quyết liệt:
- Này con, dù con mang tộc họ ǵ, có gia đ́nh hay không, con vẫn là con của Phụ vương. Con đă xa cách Phụ vương hơn bảy năm rồi, Phụ vương nhớ thương con vô cùng, Da Du Đà La cũng vỏ vàng v́ nhớ thương con. C̣n Ra Hầu la tuy có cha song chẳng khác một đứa trẻ mồ côi, vô thừa nhận. Hôm nay, con phải về hoàng cung thăm vợ, thăm con và chư vị hoàng thân trưởng thượng. Nói xong, đức vua hướng dẫn Đức Thế Tôn vào nội thành và cúng dường thực phẩm thật trang trọng. Đức Phật thuyết pháp độ vua cha và d́ mẫu Ma-ha-pa-cha-pa-ti-go-ta-mi đắc quả Tu Đà Hườn. Sau đó, Ngài trở về chùa Ni-gô-ra-thá (Nigrodha).
Trong suốt thời gian Đức Phật ngụ tại chùa Nigrodha xứ Ca B́ La Vệ có một số đông hoàng thân xuất gia theo Phật và hầu hết đều đắc đạo chứng quả.
Một thời gian sau, Đức Phật lên đường sang xứ Málá và ngự trong vườn xoài A-nú- pi-dá.
Khi Đức Phật đi rồi các vị hoàng thân trưởng lăo cùng nhau kiểm điểm và nhận định rằng: quả thật đă có một số đông hoàng thân xuất gia theo Phật, chỉ c̣n một số ít các công tử như Ananđa, A-nu-rút-thá, Ma-ha-na-má, Phát-tí-dá, chưa chịu xuất gia. Sự thật th́ hoàng tộc đă đồng ư đặt các công tử này dưới quyền sử dụng của Thái Tử Sĩ Đạt Ta ngay trong ngày lễ quán đỉnh. Vậy th́ tại sao các công tử chưa chịu xuất gia.
Công tử Má-ha-na-má nghe được câu chuyện ấy, cảm thấy thắc mắc trong ḷng, bèn hội ư với em là Á-nú-rút-thá (Anuruddha):
- Này em, theo anh nghĩ th́ một trong hai chúng ta phải xuất gia.
Công tử Á-nú-rút-thá t́nh nguyện xuất gia nhưng thân mẫu không tán thành. Bà phân trần:
- Này con yêu dấu của mẹ, con xuất gia chưa được đâu. V́ xuất gia nào phải dễ dàng như con tưởng. Con phải ăn ngọ, phải đi chân không, phải ngủ giản dị không nệm lót, phải gối đầu bằng gỗ, phải ở dưới cội cây hoặc trong hang núi, thích lạnh th́ gặp nóng, thích nóng th́ gặp lạnh. Do đó, mẹ không bằng ḷng cho con xuất gia.
Công tử Á-nú-rút-thá giải bày:
- Thưa mẹ, con vẫn biết xuất gia là một điều rất khó. Nhưng đă có một số những vị công tử quen sống sung sướng như con đă xuất gia th́ thiết tưởng con cũng có thể làm được. Vả lại, trước kia đời sống Đức Phật sung sướng hơn con nhiều. Con nghĩ, chắc chắn phải có một sự an lạc thù thắng nào đó cao quí hơn, thay cho sự sung sướng giả tạo, chóng tàn này. Con tin là con đủ sức chịu đựng, nếu được xuất gia.
- Con ơi, dù con có chịu đựng được nếp sống tu hành nhưng mẹ thú thật với con là mẹ không chịu nổi. Mẹ chưa từng thấy con cực khổ và không muốn cho con cực khổ. Hơn nữa, con là núm ruột của mẹ. Mẹ không muốn sống xa con dù chỉ một ngày. Nếu con xuất gia mẹ con ta phải xa nhau quanh năm suốt tháng, th́ mẹ chịu sao cho thấu. Theo mẹ nghĩ, nếu muốn hành thiện th́ ở nhà tu tại gia cũng được, đâu cần phải xuất gia. Hăy nghe lời mẹ đi con!
Nói xong, bà lấy tay rờ đầu và vuốt tóc công tử Á-nú-rút-thá, cử chỉ vô cùng tŕu mến.
- Thưa mẹ, nếu nói đến vấn đề nghèo khổ, th́ kể sao cho hết. C̣n nói đời sống tu sĩ là cơ hàn, th́ đă có biết bao người cơ hàn hơn tu sĩ. C̣n nói đến vấn đề phân ly, th́ đă có biết bao gia đ́nh phân ly v́ lư do này hay lư do khác. Đă vậy, c̣n có sự ngăn cách vô vàn đau khổ nữa, mà mọi người không ai tránh khỏi đó là cảnh tử biệt phân ly. Con đồng ư với mẹ về vấn đề hành thiện th́ ở đâu, h́nh thức nào cũng làm được. Tuy nhiên, con nhận định rằng bậc xuất gia hành thiện được nhiều hơn v́ có th́ giờ nhiều, ít bận rộn. Ví như dụng cụ đựng nước nếu vừa lớn vừa sạch th́ đựng nước được nhiều, hợp vệ sinh. C̣n nếu dụng cụ vừa nhỏ vừa dơ th́ đựng nước vừa ít vừa bẩn. Cho nên hạnh xuất gia cũng như dụng cụ vừa to vừa sạch, chứa đựng được nhiều điều thiện.
- Con làm sao hiểu được, khi con chưa có xuất gia. Sự suy nghĩ đôi khi trái ngược với thực tế, con ạ!
- Thưa mẹ, con chưa biết rơ, nhưng con muốn tập sự.
- Này con, mẹ tính thế này được không? Nếu công tử Phát-đí-dá, bạn của con cũng xuất gia nữa, th́ mẹ đồng ư.
Bà đề nghị như vậy, v́ bà tin tưởng một trăm phần trăm là công tử Phát-đí-dá sẽ không khi nào xuất gia.
Công tử Á-nú-rút-thá mừng lắm, bèn lập tức đi t́m bạn. Gặp bạn, công tử nói thẳng:
- Này bạn, tôi quyết chí xuất gia theo Phật nhưng chính bạn vô t́nh làm trở ngại công cuộc xuất gia của tôi. V́ mẹ tôi bảo rằng, khi nào bạn cùng xuất gia, th́ mới đồng ư cho tôi xuất gia.
Công tử Phát-đí-dá phân trần:
- Này bạn, tôi cũng có ư định xuất gia ngay sau khi được nghe câu chuyện bàn tán và nhận định của các bậc trưởng thượng. Vả lại, Đức Phật xuất gia được, th́ có lư nào ḿnh xuất gia không được.
Công tử Á-nú-rút-thá (Anuruddha) mừng khôn thể tả. Cả hai cùng rủ thêm bốn người nữa, là các công tử: A-nan-đa (Ananda), Phá-gú (Bhaggu), Kim-bi-lá (Kimbila), và Đê-qua-đát-tá (Devadatta) đồng khởi hành trực chỉ xứ Má-lá (Malla) để bái kiến Đức Phật.
Khi đến ranh giới hai nước Sắc-cá (Sakka) và Má-lá (Malla) sáu vị công tử bèn cởi áo măo quí trao cho Ú-pa-li (Upali), một chuyên viên thẩm mỹ cùng đi theo mang trở về Ca b́ la vệ lập nghiệp.
Ngay lúc chủ tớ chia tay, núi rừng gần như cũng cảm động, thở than trước cảnh sinh ly hy hữu ấy.
Đi được một đổi đường Upàli thấm buồn và tự nghĩ:
- Các vị công tử đă xem thường những bảo vật này và đem tặng cho ḿnh để làm sinh kế. Nghiệm cho cùng, nếu ḿnh nhận th́ chẳng khác nào ḿnh liếm nước miếng của các vị ấy đă nhổ ra. Càng suy nghĩ càng thấm thía. Upàli bèn treo gói bảo vật lên cành cây, chạy trở lui t́m sáu vị công tử, bày tỏ ư kiến tự giác của ḿnh và xin t́nh nguyện cùng được xuất gia.
Sáu vị công tử cùng nhau hội ư và cuối cùng bằng ḷng. Khi bái kiến Đức Phật, sáu vị công tử bày tỏ chí nguyện xuất gia. Trước khi xuất gia, các vị công tử không quên bạch Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, chúng đệ tử là ḍng vua chúa có nhiều thành kiến và rất nặng ngă mạn. Do đó, xin Đức Thế Tôn từ mẫn cho phép Upàli được xuất gia trước, để chúng đệ tử có cơ hội cung kính, ngỏ hầu đă phá thành kiến ngă mạn, cho được thích nghi với nếp sống phạm hạnh của hàng Sa môn.
Sau khi xuất gia không lâu, Đại đức Phát-đí-dá (Bhaddiya), Phăc-gu (Bhaggu), Kim-bí-lá (Kimbila) và Á-nu-rút-thá đắc quả Alahán. Đại đức Đê-qua-đát-tá đắc được phàm thiền. Đại đức Ananđa măi 19 năm sau mới đắc được Tu đà hườn.
Đời bằng hữu
Đối với Đức Phật, Đại đức Ananđa có những vai tṛ cố định như sau:
1- Dâng nước uống, nước xài
lạnh nóng.
2- Dâng tăm xỉa răng cở lớn, cở trung và
cở nhỏ.
3- Bóp tay, chân.
4- Đấm lưng.
5- Lau, quét hương thất và xung quanh thất.
Đêm đêm Đại đức Ananđa luôn luôn tỉnh thức và phục dịch rất mực chu đáo, đúng với tôn ư Đức Phật. Tương truyền rằng Đại đức tay cầm đèn lớn đi tuần quanh hương thất mỗi đêm bốn lần. Đại đức nổi tiếng là chu đáo, thông minh và có óc thẩm mỹ. Bất cứ việc ǵ một khi được giao phó là Đại đức hoàn thành tốt đẹp.
Chẳng hạn như, có một lần, vua Ba tư nặc (Pasanadikosala) phát tâm cúng dường thực phẩm thường trực Đức Thế Tôn và yêu cầu Ngài thường xuyên quang lâm thành nội.
Đức Phật nhă nhặn từ khước:
- Muôn tâu, thông thường chư Phật là người của quần chúng. Do đó, Như Lai không thể hứa nhận thực phẩm tại một địa điểm cố định.
Đức vua bạch thêm:
- Bạch Đức Thế Tôn, nếu vậy, xin Đức Thế Tôn từ bi chỉ định một vị đại diện hướng dẫn chư tăng vào thành nội cho đệ tử được cúng dường.
Đức Phật chỉ định Đại đức Ananđa. Những ngày đầu, đức vua đích thân cúng dường rất chu đáo. Nhưng lần hồi về sau, v́ đa đoan công vụ, đức vua mệt mỏi, dậy trễ. Chư tăng đến mà chẳng ai dám đánh thức. Hơn nữa, đức vua lại quên không chỉ định người đại diện chính thức. Do đó, một số đông chư tăng đă phải ra về, chỉ có Đại đức Ananđa c̣n kiên nhẫn ở lại. Sự kiện xảy ra nhiều ngày như vậy.
Một hôm, đức vua đích thân cúng dường. Nhưng chẳng thấy chư tăng đâu cả, ngoại trừ Đại đức Ananđa. Đức vua vô cùng phiền năo. Một buổi chiều, nhà vua đến chùa lễ Phật:
- Bạch Đức Thế Tôn, chư tăng đă khinh thường lời thỉnh cầu của đệ tử. Đệ tử chuẩn bị thực phẩm nhiều trăm phần để cúng dường, thế mà chỉ có một ḿnh Đại đức Ananđa đến nhận.
Đức Phật an ủi:
- Muôn tâu, chư tăng không được quen biết và thân thiện nhiều với hoàng gia cho nên mới có hành động như vậy. Xin bệ hạ đừng phiền. Riêng Ananđa là con người tự trọng, hiểu biết và chịu đựng. Một mẫu người như vậy, quả thật khó kiếm.
Một lần khác, Đức vua Ba tư nặc yêu cầu Đức Phật chỉ định Đại đức Ananđa dạy đạo cho hoàng hậu Ma-li-ca (Malikà) và công chúa Va-sa-pha-khách-đi-dá (Vàsabhakhattiya). Hoàng hậu rất mực chú tâm và chuyên cần học đạo nhưng công chúa th́ thờ ơ, học lấy lệ.
Đại đức Ananđa đem chuyện này bạch Phật. Đức Phật dạy:
- Này Ananđa, thiện ngôn đối với người không tŕ hành th́ quả thật vô ích. Nó vô ích như loài hoa có sắc mà không hương. Thiện ngôn chỉ có ích thiết thực đối với người biết tŕ hành, cũng như loài hoa vừa có màu sắc thắm tươi vừa có hương thơm ngào ngạt.
Ananđa nghĩ, chánh pháp mà Như Lai đă thuyết dạy sẽ trở thành vô ích nếu người nghe không thực sự phụng hành; c̣n trái lại, tích cực phụng hành th́ chánh pháp sẽ vô cùng ích lợi.
Nói đến t́nh thương yêu quí kính của Đại đức Ananđa đối với Đức Phật th́ quả thật không có văn tự nào phản ảnh trung thực và diễn tả tṛn đầy. V́ tấm t́nh của Đại đức là một thứ t́nh cao vời như đỉnh Tuyết sơn, trong suốt như ngọc pha lê và đẹp dịu như ánh trăng ngà trên băi bể.
Đại đức sẵn sàng hy sinh tánh mạng cho Đức Phật. Một sự hy sinh bằng t́nh nguyện, bằng hoan hỉ, bằng tất cả rung cảm của con tim và sáng suốt của khối óc. Một bằng chứng hùng hồn và cảm động nhất, đó là lần Đề Bà Đạt Đa cấu kết với vua A-xà-thế phục rượu voi Na-la-gi-ri (Nàlàgiŕ) sai nó giết Phật.
Câu chuyện như vầy:
- Hôm ấy, b́nh minh rạng rở. Những giọt sương mai c̣n lấp lánh ít nhiều trên ngọn cỏ. Gió mai thổi nhè nhẹ hơi sương. Đức Phật và Đại đức Ananđa vào thành khất thực. Một tín nữ đang để bát cho Ngài, th́ bỗng dưng dân chúng ùn ùn kéo nhau chạy loạn. Tiếng kêu la thất thanh của dân chúng, tiếng rống dồn dập của voi say thi nhau vang lên rùng rợn. Họ chạy đạp bừa lên nhau thoát nạn: Người và vật ngổn ngang trên đất. Đức Phật im lặng tiến về hướng voi say một cách b́nh thản. Ngay lúc ấy, Đại đức Ananđa tiến thật nhanh đến phía trước Đức Phật, đứng án ngữ trong tư thế sẳn sàng hy sinh. Trước cử chỉ cao quí ấy, Đức Phật dạy:
- Ananđa, hăy lùi lại sau. Đừng quá lo sợ cho Như Lai.
- Bạch Thế Tôn, tính mạng của Thế Tôn có giá trị tuyệt đối. Sự sống của Thế Tôn là nguồn hạnh phúc lớn của chúng sanh. Đức Thế Tôn không thể bị hại trong lúc này. Vả lại, sinh mạng của đệ tử không đáng giá là bao. Xin cho đệ tử được hy sinh một vật không đáng giá để duy tŕ một giá trị tuyệt đối như bỏ đi một cục đá để bảo tồn một viên ngọc quí.
- Không nên đâu Ananđa. Như Lai đă tṛn đầy Ba la mật hạnh. Không ai có thể gây thương vong cho Như Lai, trừ phi Như Lai chấp nhận.
Mặc dù Đức Phật dạy như vậy nhưng v́ quá lo ngại cho tính mạng của Thế Tôn, Ananđa vẫn giữ nguyên vị trí cũ. Đức Phật dùng thần thông di chuyển Ananđa ra phía sau. Liền khi ấy voi Nalagiri đă chạy sồng sộc đến gần Đức Phật. Trong tiếng kêu la thất thanh tuyệt vọng của số đông Phật tử đồng lúc vang lên như báo hiệu đây là lần gặp gỡ sau cùng giữa họ và Đức Phật. Trong giây phút thập tử nhất sanh ấy, Đức Phật răi ḷng từ bi và nh́n thẳng voi dữ. Na la ghi ri khựng lại như đụng phải bức tường sắt. Sự hung dữ, say sưa đă biến mất, nhường cho sự tỉnh táo hiền lành, một thay đổi toàn diện như hai thái cực. Lửa hung dữ đă bị nước từ bi dập tắt. Na la ghi ri qú xuống chân Đức Phật. Đúc Phật rờ đầu voi và phủ dụ:
- Na-la-ghi-ri ơi, sở dĩ ngươi mang thân thú là do ác nghiệp tiền kiếp. Giờ đây ngươi không nên gây thêm trọng nghiệp bằng ác ư muốn làm hại Như Lai. Ngươi sẽ trả quả vô cùng cay đắng trong vô số lượng kiếp, nếu ngươi chưa chịu hồi tâm.
Na-la-ghi-ri cúi đầu yên lặng, rồi lấy ṿi áp nhẹ vào chân Đức Phật tỏ thái độ nhận lỗi, ăn năn.
Trước oai thần của Đức Phật, quần chúng vô cùng kinh ngạc và kính phục. Để tỏ ḷng qui ngưỡng, họ hoan hô vang dậy cả một góc trời và cúng dường tràng hoa, hương liệu tràn ngập dưới chân Ngài.
Một lần khác, Đức Phật bị bịnh cảm tỳ Đại đức Ananđa đích thân nấu cháo cúng dường. V́ Đức Phật thường dạy, cháo là món thuốc trị bịnh cảm rất kiến hiệu. Đức Phật hỏi:
- Ananđa, ngươi làm sao có cháo này?
- Bạch Thế Tôn, đệ tử nấu lấy.
- Ananđa, tại sao ngươi làm vậy? Ngươi đă hành động không xứng đáng, không thích hợp với đời sống Samôn. Ngươi quên rằng bậc xuất gia không có quyền tự ḿnh nấu nướng. Ngươi hăy đem đổ đi. Như Lai không dùng cháo của ngươi đâu.
Đại đức Ananđa cúi đầu thinh lặng không dám thốt một lời, dù là lời biện bạch.
Một lần khác, Đức Phật bị bịnh bón. Đại đức Ananđa lập tức đi t́m vị danh y A-chi-qua-ca-cô-ma-ra-phach-cha cho biết tin ấy. Vị danh y khuyên nên để Đức Phật nghỉ dưỡng sức một vài hôm. Đại đức Ananđa thi hành lời khuyên một cách nghiêm chỉnh. Sau đó Đại đức bèn trở lại t́m vị danh y. Vị này trao cho Đại đức ba cánh sen có rắc bột thuốc. Sau khi ngửi vào, Đức Phật xổ được ba, bốn lần.
Một lần khác, lúc ngụ tại thành Quê-sa-li, Đức Phật bịnh nặng. Ngài dùng năng lực tinh tấn và nhẫn nại để làm giảm thiểu cơn đau và cuối cùng được hoàn toàn b́nh phục. Đại đức Ananđa bạch Phật về tâm trạng của ḿnh như sau:
- Bạch Đức Thế Tôn, trong thời gian Đức Thế Tôn thọ bịnh, thân xác đệ tử héo hon như đọt khổ qua bị cháy nắng. Đệ tử có cảm tưởng trời đất tối tăm, sụp đổ. Đệ tử tuyệt vọng nhưng cố tự trấn tỉnh rằng: Đức Thế Tôn chưa có nhập diệt, v́ Ngài chưa triệu tập tăng già và chưa thuyết minh Di giáo tối hậu.
Những sự kiện vừa kể, chứng minh cụ thể rằng Đại đức Ananđa đối với Đức Phật chẳng những là một thị giả, mà c̣n là một đại bằng hữu một tấm t́nh tuyệt vời, một tâm hồn chí thiện.
Nói đến Đại đức Ananđa, chúng ta không thể bỏ qua đức tính thông minh và óc thẩm mỹ. Chính nhờ những nét độc đáo này mà Đại đức đă trở thành một cộng sự viên đắc lực của Đức Phật. Điển h́nh là việc sáng chế giáo phục. Câu chuyện như vầy:
Một lần nọ, Đại đức theo Đức Phật qua tỉnh Đắc-khi-na-ghi-ri. Đức Phật nh́n thấy thửa ruộng của nông dân xứ Magatha vuông dài, bốn cạnh bằng nhau, lại thêm có những đường nhỏ thông ngang dọc trông thật đẹp mắt, bèn hỏi Đại đức Ananđa:
- Này Ananđa, ngươi có thể chế biến giáo phục cho chư Tăng theo h́nh thức thửa ruộng này được không?
- Bạch Đức Thế Tôn, đệ tử sẽ cố gắng.
Sau đó, Đại đức Ananđa đă cắt may được một mẫu y có h́nh thức như thửa ruộng đệ tŕnh Đức Phật. Đức Từ Phụ vô cùng hoan hỉ và chính thức ban hành giáo phục cho tăng già.
Nhơn tiện, Đức Phật khen ngợi Đại đức Ananđa giữa tăng chúng:
- Này các tỳ kheo, Ananđa là người thông minh, có óc thẩm mỹ, trí lực bén nhạy, có khả năng hiểu biết toàn diện những điều Như Lai chỉ nói vắn tắt.
C̣n nói đến đức tri túc th́ Đại đức Ananđa quả thật là mẫu người xứng đáng, khả kính và mực thước. Câu chuyện xảy ra sau khi Đức Phật tịch diệt như vầy:
Một hôm, theo di ngôn của Đức Phật, Đại đức Ananđa sang xứ Kosambi bằng đường thủy nhằm tuyên phạt phạm án Đại đức Channa, một vị tỳ kheo ương ngạnh, khó dạy. Rời thuyền, Đại đức đi bộ và tạm nghỉ tại vườn thượng uyển của đức vua Udena.
Lúc bấy giờ, đức vua và hoàng hậu đang ngự nơi ấy. Hoàng hậu được biết Đại đức Ananđa quang lâm đến rất lấy làm hoan hỉ. Đại đức nói đạo cho Lệnh bà nghe. Lệnh bà phát tâm trong sạch cúng dường Đại đức Ananđa 500 bộ y. Hay tin, nhà vua chỉ trích Đại đức Ananđa nặng lời.
Đến khi có cơ hội, gặp Đại đức, nhà vua phán hỏi:
- Bạch Đại đức, nghe nói chánh cung
có cúng dường 500 bộ y cho Đại đức phải
không?
- Muôn tâu, có. Và bần đạo đă nhận tất
cả.
- Đại đức nhận làm chi mà nhiều quá vậy?
- Để chia cho những vị nào mà y phục đă cũ,
rách.
- Y cũ, rách để làm ǵ?
- Để làm trần.
- Trần cũ để làm ǵ?
- Làm vải trải đơn (giường ngủ).
- Vải trải đơn cũ để làm ǵ?
- Làm vải lau bát.
- Vải lau bát cũ để làm ǵ?
- Làm vải lau sàn.
- Vải lau sàn cũ để làm ǵ?
- Làm vải lau chân.
- Vải lau chân cũ làm ǵ?
- Làm vải lau bụi.
- Vải lau bụi cũ để làm ǵ?
- Đem nhồi chung với đất sét tô vách tường.
Đức vua Udena vô cùng hoan hỉ và cúng dường thêm 500 bộ y nữa v́ cho rằng các bậc Thích tử rất tri túc, không bừa băi, phung phí.
Ngoài đức tính tri túc, Đại đức Ananđa c̣n nổi tiếng là người nhớ ơn. Đại đức chẳng những nhớ ơn người lớn mà c̣n biết ơn kẻ nhỏ.
Có một lần, Đức vua Pasenadi cúng dường Đại đức hàng trăm bộ y. Nhớ ơn một môn đệ đă từng phục dịch Đại đức trong mọi công tác vô cùng tích cực, nên Đại đức ban thưởng tất cả y cho vị này. Vị này quả thật xứng đáng, khả kính, khả ái, không phụ ḷng thầy, nên sau khi nhận y, liền đem tất cả cúng dường lại cho chư tăng.
Nhơn câu chuyện này, một vị tỳ kheo bạch hỏi:
- Bạch Đức Thế Tôn, vị Tu đà
hườn c̣n tư vị hay không?
- Này các tỳ kheo, trường hợp như thế nào?
Sau khi các vị tỳ kheo bạch rơ sự kiện, Đức Phật dạy:
- Này các tỳ kheo, sự tư vị không có nơi Ananđa. Sở dĩ Ananđa hành động như vậy là v́ nhớ ơn người đă có công với ḿnh. Các tỳ kheo này, bậc trí giả lúc nào cũng nhớ ơn và luôn luôn t́m dịp báo ơn.
-oOo-