Contents [go up]

Contents [go up]

 

"This is the purpose for conversation, this is the purpose for consultation, this is the purpose of apprenticeship, this is the purpose for lending ear: the liberation of the mind through non-clinging."

This quotation from chapter 12 of the Parivara, the appendix to the Vinaya, is obviously not talking about ordinary conversation. It's talking about the ideal type of conversation among meditators, the very opposite of idle chatter:

Abandoning idle chatter, one abstains from idle chatter. One speaks in season, speaks what is factual, what is in accordance with the goal, the Dhamma, & the Vinaya. One speaks words worth treasuring, seasonable, reasonable, circumscribed, connected with the goal.

 

"Đây là mục đích cho cuộc đàm luận, đây là mục đích cho cuộc tham khảo, đây là mục đích cho sự học việc, đây là mục đích cho sự khuyên bảo: đó là tâm được giải thoát không vương vấn gì."

Đoạn trích dẫn này lấy từ chương 12 của Tập Yếu ( Parivāra), phần phụ lục của Tạng Luật, một cách rõ ràng không nói về cuộc bàn luận thông thường. Nó được nói về kiểu mẫu lý tưởng của cuộc bàn luận nằm trong những người trầm tư, đối ngược lại với sự nói huyên thuyên không căn cứ.

.sự từ bỏ nói huyên thuyên không căn cứ, ai tiết chế nói huyên thuyên vô căn cứ. Là nói có lý do, nói sự thật, sự nói phù hợp với mục tiêu của Pháp & Giới luật. Ai nói những lời có giá trị trân quý, hợp thời, hợp lý, hạn chế, có quan hệ với mục tiêu.

 

Several passages in the Canon list ten ideal topics for such conversation: modesty, contentment, seclusion, non-entanglement, arousing persistence, virtue, concentration, discernment, release, and the knowledge & vision of release. The purpose of this study guide is to illustrate each of these topics with passages from the Canon, and to provide meditators with the incentive to integrate conversation of this sort into their practice. There is some overlap between the topics listed here and those listed in two other study guides: Recognizing the Dhamma and The Ten Perfections. Thus some redundancy has been inevitable, but wherever possible I have also included material unavailable in those two guides.

Trong Tam Tạng kinh điển ở nhiều đoạn đề cập tới mười đề tài mẫu mực cho cuộc bàn luận như vậy: ít dục , biết đủ, viễn ly, không hội tụ, tỉnh thức tinh tấn, giới, định, tuệ, giải thoát, và the giải thoát tri kiến. Mục đích của bản chỉ nam này thì minh hoạ những đề tài đó với những đoạn kinh điển trích từ Tam Tạng, và cung cấp cho hành giả với sự khích lệ để cuộc bàn luận hợp nhất của cách này vào trong sự tu tập của họ. Có một vài lấn nhau giữa những đề tài được đề ra ở đây và những danh sách đó ở trong hai bản hướng dẫn khác: Thừa Nhận Pháp Mười Pháp Hoan Haỏ. Vì vậy một vài sự thừa dư đã không thể tránh được, nhưng ở bất cứ nơi nào có thể chúng tôi cũng kể cả những tài liệu không cần thiết trong hai bản hướng dẫn đó.

The first passage included here, in addition to listing the ten ideal topics, also lists topics that monks and serious meditators should avoid, ranging from politics and food to theories about the creation of the world. The Commentary qualifies this list, saying that if one discusses these topics in a way connected with Dhamma — for example, pointing out the ephemeral nature of political power so as to engender a feeling of dispassion for it — then that would count as right speech, and an aid to the liberation of the mind.

Đoạn văn thứ nhất ở đây, trong phần thêm vào danh sách của mười đề tài mẫu mực, cũng liệt kê những đề tài mà nguời tu sĩ và những hành giả tu thiền nên tránh, xếp loại từ chính trị và thực phẩm cho tới học thuyết về sự tạo thành của thế giới. Bản Chú Giải định phẩm chất danh sách này, nói rằng nếu ai tranh cãi những đề tài này trong đuờng huớng với Pháp - thí dụ, nêu lên bản tính phù du của quyền lực chính trị để cho sinh ra cảm giác chán ghét nó – Như vậy lời này được coi như là chánh ngữ, và giúp đỡ cho sự giải thoát của tâm.

 

§ 1. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Savatthi at Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time a large number of monks, after the meal, on returning from their alms round, had gathered at the meeting hall and were engaged in many kinds of bestial topics of conversation: conversation about kings, robbers, & ministers of state; armies, alarms, & battles; food & drink; clothing, furniture, garlands, & scents; relatives; vehicles; villages, towns, cities, the countryside; women & heroes; the gossip of the street & the well; tales of the dead; tales of diversity, the creation of the world & of the sea; talk of whether things exist or not.

§ 1. Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana trong khu vườn của ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, rất nhiều Tỷ-kheo, sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi tụ họp tại hội trường. Các vị này đang chú tâm trong nhiều câu chuyện phù phiếm sai khác sau đây: Câu chuyện về vua, câu chuyện về ăn trộm, câu chuyện về đại thần, câu chuyện về quân đội, câu chuyện về sợ hãi, câu chuyện về chiến trận, câu chuyện về đồ ăn, câu chuyện về đồ uống, câu chuyện về vải mặc, câu chuyện về đồ nằm, câu chuyện về vòng hoa, câu chuyện về hương, câu chuyện về bà con, câu chuyện về xe cộ, câu chuyện về làng, câu chuyện về thị trấn, câu chuyện về thành phố, câu chuyện về quốc độ, câu chuyện về đàn bà, câu chuyện về anh hùng, câu chuyện bên lề đường, câu chuyện tại chỗ lấy nước, câu chuyện về ma quỷ, các câu chuyện sai khác về thế giới, về biển lớn, các câu chuyện về hữu và phi hữu.

Then the Blessed One, emerging from his seclusion in the late afternoon, went to the meeting hall and, on arrival, sat down on a seat made ready. As he was sitting there, he addressed the monks: "For what topic of conversation are you gathered together here? In the midst of what topic of conversation have you been interrupted?"

Rồi Thế Tôn vào buổi chiều từ Thiền tịnh đứng dậy, đi đến hội trường, sau khi đến, ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Sau khi ngồi xuống, Thế Tôn bảo các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo, các Thầy nay ngồi hội họp ở đây, nói chuyện về vấn đề gì? Câu chuyện gì đang bàn giữa các Thầy bàn xong?

 

"Just now, lord, after the meal, on returning from our alms round, we gathered at the meeting hall and got engaged in many kinds of bestial topics of conversation: conversation about kings, robbers, & ministers of state; armies, alarms, & battles; food & drink; clothing, furniture, garlands, & scents; relatives; vehicles; villages, towns, cities, the countryside; women & heroes; the gossip of the street & the well; tales of the dead; tales of diversity, the creation of the world & of the sea; talk of whether things exist or not."

- Bạch Thế Tôn, ở đây, chúng con sau buổi ăn, sau khi đi khất trở về, chúng con ngồi hội họp tại hội trường, và chúng con đang chú tâm trong nhiều câu chuyện phù phiếm sai khác sau đây: Câu chuyện về vua, câu chuyện về ăn trộm... các câu chuyện về hữu và phi hữu.

 

"It isn't right, monks, that sons of good families, on having gone forth out of faith from home to the homeless life, should get engaged in such topics of conversation, i.e., conversation about kings, robbers, & ministers of state... talk of whether things exist or not.

- Này các Tỷ-kheo, thật không xứng đáng cho các Thầy, là những thiện nam tử, vì lòng tin xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lại có thể sống chú tâm trong nhiều câu chuyện sai khác, như câu chuyện về vua... câu chuyện về hữu và phi hữu.

 

"There are these ten topics of [proper] conversation. Which ten?

Talk on modesty,

contentment,

seclusion,

non-entanglement,

arousing persistence,

virtue,

concentration,

discernment,

release,

and the knowledge & vision of release.

These are the ten topics of conversation. If you were to engage repeatedly in these ten topics of conversation, you would outshine even the sun & moon, so mighty, so powerful — to say nothing of the wanderers of other sects."

AN 10.69

Này các Tỷ-kheo, có mười đề tài để nói chuyện này. Thế nào là mười?

Câu chuyện về ít dục,

câu chuyện về biết đủ,

câu chuyện về viễn ly

, câu chuyện về không tụ hội,

câu chuyện về tinh tấn,

câu chuyện về giới,

câu chuyện về định,

câu chuyện về tuệ,

câu chuyện về giải thoát,

câu chuyện về giải thoát tri kiến.

Này các Tỷ-kheo, có mười đề tài để nói chuyện này.

Này các Tỷ-kheo, nếu các Thầy tiếp tục nói những câu chuyện liên hệ đến mười đề tài để nói chuyện này, thời các Thầy có thể với ánh sáng (của mình) đánh bạt ánh sáng của mặt trăng, mặt trời, những vật có đại thần lực, có uy lực, còn nói gì của các du sĩ ngoại đạo.

AN 10.69

 

I. Modesty[go up]

§ 2. "'This Dhamma is for one who is modest, not for one who is self-aggrandizing.' Thus was it said. With reference to what was it said? There is the case where a monk, being modest, doesn't want it to be known that 'He is modest.' Being content, he doesn't want it to be known that 'He is content.' Being reclusive, he doesn't want it to be known that 'He is reclusive.' His persistence being aroused, he doesn't want it to be known that 'His persistence is aroused.' His mindfulness being established, he doesn't want it to be known that 'His mindfulness is established.' His mind being centered, he doesn't want it to be known that 'His mind is centered.' Being endowed with discernment, he doesn't want it to be known that 'He is endowed with discernment.' Enjoying non-complication, he doesn't want it to be known that 'He is enjoying non-complication.'"

AN 8.30

 

I. Ít Dục [go up]

§ 2.Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo ít dục không muốn: "Mong người ta biết tôi là ít dục"; biết đủ, không muốn: "Mong người ta biết tôi là biết đủ"; sống viễn ly, không muốn: "Mong người ta biết tôi sống viễn ly"; tinh cần tinh tấn, không muốn: "Mong người ta biết tôi sống tinh cần tinh tấn"; trú niệm, không muốn: "Mong người ta biết tôi trú niệm"; có định, không muốn: "Mong người ta biết tôi có định"; có tuệ, không muốn: "Mong người ta biết tôi là người có tuệ "; không thích hý luận, không muốn: "Mong người ta biết tôi không thích hý luận". Này các Tỷ-kheo, Pháp này để cho người ít dục, Pháp này không để cho người có dục lớn", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

AN 8.30

 

When I was seven

& newly gone forth,

having conquered with my power

the great powerful serpent,

I was fetching water for my preceptor

from the great lake, Anotatta,1 when the Teacher saw me & said:

"Look, Sariputta, at that one,

the young boy coming there,

carrying a pot of water,

well-centered within,

his practices — inspiring;

his bearing — admirable.

He's Anuruddha's novice,

mature in his powers,

made thoroughbred by a thoroughbred,

good by one who is good,

tamed by Anuruddha,

trained by one whose task is done.

He, having reached the highest peace & realized the unshakable,

Sumana the novice wants this: '

Don't let anyone know me.

Thag 6.10

 

429. Khi người mới xuất gia, Từ sanh, mới bảy tuổi,

Với thần thông ta điều,

Con xà vương thần lực.

Từ hồ nước to lớn,

Tên A-no-tat-ta Ta đem nước hồ về, Cho bậc giáo thọ sư,

Thấy vậy bậc Đạo Sư, Nói về ta như sau:

431. Này Sà-ri-put-ta!

Xem đứa trẻ này đến,

Tự bưng cầm ghè nước,

Nội tâm khéo định tỉnh.

Với nhiệm vụ khả ái,

Cử chỉ rất thuần thiện.

. Người đệ tử Sa-di, Của Anuruddha,

Có thần thông uy lực, Thuần thục và điêu luyện.

Thuần lương nhờ giáo dục,

Do vị đại thuần lương, Thiện hạnh nhờ giáo dục,

Bởi bậc khéo thiện hạnh.

Nhờ Anuruddha, Khéo huấn luyện điều phục,

Được học tập giảng dạy, Làm xong việc phải làm.

. Đạt được tịnh tối thắng, Chứng đắc, không dao động, Sa-di Sumana, Muốn: 'Không ai biết ta'.

Thag 6.10

 

Note

1. Anotatta: A fabulous lake located in the Himalayas, famed for the purity of its cool waters. Sumana would have had to use his psychic powers to fetch water from there.

 

^^^^^^

§ 4. On one occasion the Blessed One was staying near Alavi at the Aggalava Shrine. There he addressed the monks: "Monks, remember Hatthaka of Alavi as being endowed with seven amazing, astounding qualities. Which seven?

Monks, Hatthaka of Alavi is endowed with conviction.

He is virtuous.

He has a sense of conscience.

He has a sense of concern (for the results of unskillful actions).

He is learned.

He is generous.

 

He is discerning. Remember Hatthaka of Alavi as being endowed with these seven amazing, astounding qualities."

§ 4. Một thời, Thế Tôn trú ở Àlavì, tại điện Phật Aggàlava. Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo: Này các Tỷ-kheo, Hatthaka, người xứ Àlavì thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này. Thế nào là tám?

-Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng Hatthaka, người xứ Àlavì có đức tin
-Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng Hatthaka, người xứ Àlavì ; có giữ giới.
-Này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì có lòng xấu hổ.
-Này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì có lòng sợ hãi.
-Này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì nghe nhiều.
-Này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì có bố thí.
-Này các Tỷ-kheo, là Hatthaka người xứ Àlavì có trí tuệ.


Này các Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng Hatthaka, người xứ Àlavì có thành tựu bảy ở đây vi diệu chưa từng có này.

That is what the Blessed One said. Having said it, the One Well-going, getting up from his seat, went into his dwelling.

Thế Tôn nói như vậy. Nói như vậy xong, bậc Thiên Thệ từ chỗ ngồi đứng dậy đi vào tịnh xá.

Then early in the morning a certain monk, having put on his robes and carrying his bowl & outer robe, went to Hatthaka of Alavi's home. On arrival, he sat down on a seat made ready. Then Hatthaka of Alavi approached the monk and, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there the monk said to him,

"Friend, the Blessed One has described you as being endowed with seven amazing, astounding qualities. Which seven? '

Hatthaka of Alavi is endowed with conviction. He is virtuous. He has a sense of conscience. He has a sense of concern (for the results of unskillful actions). He is learned. He is generous. He is discerning.' Friend, the Blessed One has described you as being endowed with these seven amazing, astounding qualities."

Rồi một Tỷ-kheo đắp y vào buổi sáng, cầm bát y, đi đến trú xá của gia chủ Hatthaka người Àlavì ; sau khi đến, liền ngồi xuống trên chỗ đã soạn sẵn. Rồi gia chủ Hatthaka người Àlavì, đi đến Tỷ-kheo ấy, sau khi đến, đảnh lễ Tỷ-kheo ấy rồi ngồi xuống một bên. Tỷ-kheo ấy nói với Hatthaka, người xứ Àlavì, đang ngồi xuống một bên :

Thưa Hiền giả, Thế Tôn đã nói Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có. Thế nào là bảy ?

Có lòng tin, này các Tỷ-kheo là Hatthaka, người xứ Àlavì. Vị ấy có giữ giới. Vị ấy có lòng xấu hổ. Vị ấy có lòng sợ hãi. Vị ấy nghe nhiều. Vị ấy có bố thí. Vị ấy có trí tuệ. Thưa Hiền giả, Hiền giả thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này như Thế Tôn đã nói.

"I hope, sir, that there were no white-clad householders there."

"No, friend, there were no white-clad householders there."

"It's good, sir, that there were no white-clad householders there."

-"Thưa Tôn giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng ?"

-"Thưa Hiền giả, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng."

-"Lành thay, ở đây không có người gia chủ bận áo trắng."

Then the monk, having received alms at Hatthaka of Alavi's home, departed. After his meal, returning from his alms round, he went to the Blessed One. On arrival, having bowed down to the Blessed One, he sat to one side. As he was sitting there, [he told the Blessed One what had happened.]

 

Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi nhận đồ ăn khất thực tại trú xứ của Hatthaka, người xứ Àlavì, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi. Rồi Tỷ-kheo ấy, sau khi ăn xong, trên con đường khất thực trở về, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, (Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn chuyện gì đã xảy ra):

[The Blessed One replied:] "It's good, monk, it's very good that the clansman is modest and does not want others to know of the skillful qualities present in him. In that case, monk, remember Hatthaka of Alavi as being endowed with this eighth amazing, astounding quality: modesty."

AN 8.23

-"Lành thay, lành thay, này Tỷ-kheo ! Này Tỷ-kheo, thiện nam tử này là ít dục. Vị ấy không muốn các thiện pháp của mình được người khác biết đến. Do vậy, này Tỷ-kheo, hãy thọ trì rằng, Hatthaka người xứ Àlavì, thành tựu bảy pháp vi diệu chưa từng có này, tức là ít dục."

AN 8.23

II. Contentment[go up]

§ 5. "'This Dhamma is for one who is content, not for one who is discontent.' Thus was it said. With reference to what was it said?

 

There is the case where a monk is content with any old robe cloth at all, any old almsfood, any old lodging, any old medicinal requisites for curing sickness at all."

AN 8.30

 

II. Biết Đủ

Này các Tỷ-kheo, "Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không để cho người không biết đủ", như vậy đã được nói đến. Do duyên gì được nói như vậy?

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ vật dụng gì như y áo, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh. Này các Tỷ-kheo, "Pháp này để cho người biết đủ, Pháp này không phải để cho người không biết đủ", đã được nói đến như vậy. Do duyên này được nói như vậy.

AN 8.30

 

§ 6. "And how is a monk content? Just as a bird, wherever it goes, flies with its wings as its only burden; so too is he content with a set of robes to provide for his body and alms food to provide for his hunger. Wherever he goes, he takes only his barest necessities along. This is how a monk is content.

DN 2

 

Thế nào là tỳ kheo biết đủ? Ở đây tỳ kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y và bình bát). Đại vương, cũng như con chi bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Đại vương, vị tỳ kheo bằng lòng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo. Như vậy, này Đại vương, là tỳ kheo biết đủ

DN 2

 

§ 7. "There is the case where a monk is content with any old robe cloth at all. He speaks in praise of being content with any old robe cloth at all. He does not, for the sake of robe cloth, do anything unseemly or inappropriate. Not getting cloth, he isn't agitated. Getting cloth, he uses it unattached to it, uninfatuated, guiltless, seeing the drawbacks (of attachment to it), and discerning the escape from them. He does not, on account of his contentment with any old robe cloth at all, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones.

 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ loại y nào, và nói lời tán thán sự biết đủ với bất cứ loại y nào, không vì nhân y phục rơi vào sự tầm cầu bất chính, không thích hợp. Nếu không được y, không có lo âu tiếc nuối; nếu được y không có tham lam, mê say, tham đắm; thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy được sự xuất ly, vị ấy hưởng thọ y, không vì biết đủ với bất cứ loại y nào, không có khen mình chê người. Ai ở đây, không khéo (thiện xảo), không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đấy gọi là Tỷ-kheo đứng ở trên Thánh truyền thống, kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ

"Furthermore, the monk is content with any old almsfood at all. He speaks in praise of being content with any old almsfood at all. He does not, for the sake of almsfood, do anything unseemly or inappropriate. Not getting almsfood, he isn't agitated. Getting almsfood, he uses it unattached to it, uninfatuated, guiltless, seeing the drawbacks (of attachment to it), and discerning the escape from them. He does not, on account of his contentment with any old almsfood at all, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones.

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ loại khất thực nào, và nói lời tán thán sự biết đủ với bất cứ loại khất thực nào, không vì nhân khất thực rơi vào sự tầm cầu bất chính, không thích hợp. Nếu không được đồ ăn khất thực, không có lo âu tiếc nuối; nếu được đồ ăn khất thực, không có tham lam, mê say, tham đắm; thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy được sự xuất ly, vị ấy hưởng thọ đồ ăn khất thực, không vì biết đủ với bất cứ loại đồ ăn khất thực nào, không có khen mình, chê người. Ai ở đây khôn khéo (thiện xảo), không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đây gọi là Tỷ-kheo đứng ở trên Thánh truyền thống, kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ.

"Furthermore, the monk is content with any old lodging at all. He speaks in praise of being content with any old lodging at all. He does not, for the sake of lodging, do anything unseemly or inappropriate. Not getting lodging, he isn't agitated. Getting lodging, he uses it unattached to it, uninfatuated, guiltless, seeing the drawbacks (of attachment to it), and discerning the escape from them. He does not, on account of his contentment with any old lodging at all, exalt himself or disparage others. In this he is diligent, deft, alert, & mindful. This is said to be a monk standing firm in the ancient, original traditions of the noble ones."

AN 4.28

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết đủ với bất cứ loại sàng tọa nào, và nói lời tán thán sự biết đủ với bất cứ loại sàng tọa nào, không vì nhân sàng tọa rời vào sự tầm cầu bất chính, không thích hợp. Nếu không được sàng tọa, không có lo âu tiếc nuối; nếu được sàng tọa, không có tham lam, mê say, đắm đuối; thấy sự nguy hiểm và với trí tuệ thấy được sự xuất ly, vị ấy hưởng thọ sàng tọa, không có khen mình chê người. Ai ở đây khôn khéo, (thiện xảo), không có thụ động, tỉnh giác, chánh niệm, này các Tỷ-kheo, đây gọi là vị Tỷ-kheo đứng ở trên Thánh truyền thống kỳ cựu, được nhận biết là tối sơ.

AN 4.28

Coming down from my dwelling place,

I entered the city for alms,

stood courteously next to a leper eating his meal.

He, with his rotting hand,

tossed me a morsel of food,

and as the morsel was dropping,

a finger fell off right there.

Sitting next to a wall,

I ate that morsel of food,

and neither while eating it,

nor having eaten, did I feel any disgust.

Whoever has mastered left-over scraps for food,

smelly urine for medicine,

the foot of a tree for a dwelling, cast-off rags for robes:

He is a man of the four directions.

Từ trú xứ bước xuống,

Ta vào thành khất thực,

Ta cẩn thận đến gần, Một người cùi đang ăn. Với bàn tay lở loét,

Nó bỏ vào một muỗng,

Khi bỏ vào muỗng ấy,

Ngón tay rời rơi vào.

Dựa vào một chân tường,

Ta ăn miếng ăn ấy,

Đang ăn và ăn xong,

Ta không cảm ghê tởm.

Miếng ăn đứng nhận được

Xem như thuốc tiêu hôi,

Chỗ nằm dưới gốc cây, Và y từ đống rác, Ai thọ dụng chúng được,

Được gọi người bốn phương.

This is enough for me —

desiring to do jhana, resolute,

mindful; enough for me —

desiring the goal, resolute, a monk;

enough for me — desiring comfort, resolute, in training;

enough for me — desiring my duty, resolute, Such.

1067 Vừa đủ ta chánh niệm,
Hăng hái muốn tu thiền,
Vừa đủ ta Tỷ-kheo
Hăng hái muốn phước lợi.

1068. Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
Hăng hái muốn an lạc,
Vừa đủ ta Tỷ-kheo,
Hăng hái tu Du-già.

 

There is no such pleasure for me

in the music of a five-piece band

as these is when my mind is at one,

seeing the Dhamma aright.

Thag 18

Người vậy không ưa thích,

Cả năm loại nhạc khí,

Khi đã được nhất tâm,

Chơn chán thiền quán pháp.

Thag 18

§ 9. On one occasion the Blessed One was staying near Alavi on a spread of leaves by a cattle track in a simsapa forest. Then Hatthaka of Alavi, out roaming & rambling for exercise, saw the Blessed One sitting on a spread of leaves by the cattle track in the simsapa forest. On seeing him, he went to him and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One, "Lord, I hope the Blessed One has slept in ease."

Một thời Thế Tôn ở Àlavì, tại Gomagga, trong rừng Simsapà, trên chỗ có trải lá. Rồi Hatthaka, người Àlavì, đang đi bộ hàng du ngoạn, thấy Thế Tôn đang ngồi trên chỗ có trải lá trong rừng Simsapà ở Gomagga, thấy vậy, liền đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống mộ bên. Ngồi xuống một bên, Hatthaka người Àlavì bạch Thế Tôn :
-" Bạch Thế Tôn, Thế Tôn sống có an lạc không ? "

"Yes, young man. I have slept in ease. Of those in the world who sleep in ease, I am one."

-" Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy."

"But cold, lord, is the winter night. The 'Between-the-Eights' is a time of snowfall. Hard is the ground trampled by cattle hooves. Thin is the spread of leaves. Sparse are the leaves in the trees. Thin are your ochre robes. And cold blows the Verambha wind. Yet still the Blessed One says, 'Yes, young man. I have slept in ease. Of those in the world who sleep in ease, I am one.'"

-" Bạch Thế Tôn, lạnh là đêm mùa đông, thời gian giữa những ngày tám (trước và sau ngày rằm) là thời gian tuyết rơi, cứng rắn là đất do trâu bò dẫm đạp, mỏng manh là nệm làm bằng lá, lưa thưa là những lá của cây, lạnh là tấm vải cà Savittha, và lạnh là làn gió thổi.
Rồi Thế Tôn nói như sau :
- "Phải, này Hoàng Tử, ta sống được an lạc. Và những ai cảm thấy an lạc ở đời, Ta là một trong số những người ấy."

"In that case, young man, I will question you in return. Answer as you see fit. Now, what do you think: Suppose a householder or householder's son has a house with a gabled roof, plastered inside & out, draft-free, with close-fitting door & windows shut against the wind. Inside he has a horse-hair couch spread with a long-fleeced coverlet, a white wool coverlet, an embroidered coverlet, a rug of kadali-deer hide, with a canopy above, & red cushions on either side. And there a lamp would be burning, and his four wives, with their many charms, would be attending to him. Would he sleep in ease, or not? Or how does this strike you?"

-"Vậy nay, này Hoàng Tử, ở đây ta sẽ hỏi Hoàng Tử, nếu có thể kham nhẫn, Hoàng Tử hãy trả lời. Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng Tử ? Ở đây, người gia chủ hay con người gia chủ có nhà có nóc nhọn, với các tường trét trong trét ngoài, che chở khỏi gió, chốt cửa được khóa chặt, các cửa sổ được đóng kín. Trong ấy, có một chỗ nằm có tấm thảm len với lông dài, với tấm vải giường bằng len trắng, chăn len thêu bông, nệm bằng da quý con sơn dương kadaki, tấm thảm có tàn tre phía trên và gối nệm đỏ cả hai đầu, có đèn thắp đỏ và bốn bà vợ đẹp hầu hạ. Này Hoàng Tử, Hoàng Tử nghĩ thế nào, người ấy nằm ngủ có an lạc không ? Hay Hoàng Tử nghĩ thế nào ?"

"Yes, lord, he would sleep in ease. Of those in the world who sleep in ease, he would be one."

- "Bạch Thế Tôn, người ấy nằm ngủ an lạc. Nếu có những người cảm thấy an lạc ở đời, người ấy là một trong những người ấy."

"But what do you think, young man. Might there arise in that householder or householder's son any bodily fevers or fevers of mind born of passion... aversion... delusion so that — burned with those passion-, aversion-, delusion-born fevers — he would sleep miserably?"

"Yes, lord."

-" Hoàng Tử nghĩ thế nào, này Hoàng tử, với người gia chủ hay người con của người gia chủ ấy, khởi lên những nhiệt lão về thân hay về tâm, do tham ái sanh. Bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, người ấy có cảm thấy đau khổ không ?"
-" Thưa có, bạch Thế Tôn."

"As for those passion-, aversion-, delusion-born fevers — burned with which the householder or householder's son would sleep miserably — that passion... aversion... delusion has been abandoned by the Tathagata, its root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. Therefore he sleeps in ease."

-" Người gia chủ hay con của người gia chủ ấy, này Hoàng Tử, bị nung đốt bởi những nhiệt não do tham ái sanh, cảm thấy đau khổ. Tham ái ấy, Như Lai đã đoạn tận, cắt đứt từ gốc rễ, làm cho như thân cây tala, làm cho không thể hiện hữu, làm cho không thể sanh khởi trong tương lai. Do vậy ta cảm thấy an lạc."

Always, always,

he sleeps in ease:

the brahmin totally unbound,

who doesn't adhere

to sensual pleasures, who's without acquisitions & cooled.

Luôn luôn

được an lạc,

Vi phạm chí tịch tịnh

Không bị dục uế nhiễm

Trong mát, không sanh y,

Having cut all ties

& subdued fear in the heart,

calmed, he sleeps in ease,

having reached peace of awareness

AN 3.34

 

Mọi tham trước dứt đoạn,

Nhiếp phục tâm sầu khổ,

An tịnh, cảm thọ lạc

Với tâm đạt an tịnh.

AN 3.34

§ 10. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying at Anupiya in the Mango Orchard. Now at that time, Ven. Bhaddiya Kaligodha, on going to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, would repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!" A large number of monks heard Ven. Bhaddiya Kaligodha, on going to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, repeatedly exclaim, "What bliss! What bliss!" and on hearing him, the thought occurred to them, "There's no doubt but that Ven. Bhaddiya Kaligodha doesn't enjoy leading the holy life, for when he was a householder he knew the bliss of kingship, so that now, on recollecting that, he is repeatedly exclaiming, 'What bliss! What bliss!'" They went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As they were sitting there, they told him: "Ven. Bhaddiya Kaligodha, lord, on going to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, repeatedly exclaims, 'What bliss! What bliss!' There's no doubt but that Ven. Bhaddiya Kaligodha doesn't enjoy leading the holy life, for when he was a householder he knew the bliss of kingship, so that now, on recollecting that, he is repeatedly exclaiming, 'What bliss! What bliss!'"

Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Anupiya tại rừng xoài. Lúc bấy giờ, Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, và thường hay nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! " Một số đông Tỳ-kheo nghe Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, thường nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi an lạc thay! ". Nghe vậy, các Tỷ-kheo ấy suy nghĩ: "Không gì nghi ngờ chư Hiền, Tôn giả Bhaddiya con của Kàlighodha sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, vì trước khi còn ở gia đình được hưởng an lạc nhà vua, vì Tôn giả nhớ đến an lạc ấy, nên khi đến khu rừng, hay đi đến gốc cây... thường nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! " Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Tôn giả Bhaddiya con của Kàligodha khi đi đến rừng... nói lên lời cảm hứng: "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "... không có nghi ngờ gì nữa.. sống Phạm hạnh không có hoan hỷ... "Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! ".

Then the Blessed One told a certain monk, "Come, monk. In my name, call Bhaddiya, saying, 'The Teacher calls you, my friend.'"...

Rồi Thế Tôn bảo một Tỳ-kheo: - Này Tỳ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta nói với Bhaddiya, con của Kàligodha: "Thưa hiền giả, bậc Ðạo sư gọi Hiền giả! ".

Then Ven. Bhaddiya went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him, "Is it true, Bhaddiya that, on going to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, you repeatedly exclaim, 'What bliss! What bliss!'?"

"Yes, lord."

Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Bhaddiya, con của Kàligodha, đang ngồi một bên: - Có thật chăng, này Bhaddiya, Thầy đi đến khu rừng "... Ôi, an lạc thay! Ôi, an lạc thay! "?

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn

"What meaning do you have in mind that you repeatedly exclaim, 'What bliss! What bliss!'?"

- Do thấy mục đích gì đi đến khu rừng "... an lạc? ".

"Before, when I was a householder, maintaining the bliss of kingship, I had guards posted within and without the royal apartments, within and without the city, within and without the countryside. But even though I was thus guarded, thus protected, I dwelled in fear — agitated, distrustful, and afraid. But now, on going alone to a forest, to the foot of a tree, or to an empty dwelling, I dwell without fear, unagitated, confident, and unafraid — unconcerned, unruffled, my wants satisfied, with my mind like a wild deer. This is the meaning I have in mind that I repeatedly exclaim, 'What bliss! What bliss!'"

- Bạch Thế Tôn, thuở trước khi còn ở trong gia đình, được hưởng an lạc nhà vua, trong nội cung có đặt người khéo bảo vệ, ngoại nội cung có đặt người khéo bảo vệ; trong thành nội có đặt người khéo bảo vệ, ngoài thành có đặt người khéo bảo vệ. Trong nước cũng có đặt người khéo bảo vệ, ngoài nước cũng có đặt người khéo bảo vệ. Bạch Thế Tôn, con được bảo vệ phòng giữ như vậy, nhưng con vẫn sống sợ hãi, hồi hộp, run sợ, hoảng sợ. Nhưng nay con đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, đi đến ngôi nhà trống, con sống một mình, con sống không sợ hãi, không hồi hộp, không run sợ, không hoảng sợ, không rộn ràng, không hốt hoảng, lắng dịu, nhẹ nhàng, tâm như con thú rừng. Bạch Thế Tôn, do thấy mục đích như vậy, nên con khi đi đến khu rừng... con nói lên lời cảm hứng "... an lạc thay! ".

Then, on realizing the significance of that, the Blessed One on that occasion exclaimed:

In whom there exists

no provocation

&for whom becoming & non-becoming are overcome,

he is one - beyond fear, blissful,

without grief, whom the devas can't sêe.

Ud 2.10

 

Rồi Thế Tôn, sau khi hiểu biết ý nghĩa này ngay trong lúc ấy nói lên lời cảm hứng này:

Vơi ai, trong nội tâm,

không có lòng phẫn nộ,

Vượt qua hữu, phi hữu,

Vị ây thoát sợ hãi,

An lạc, không sâu muộn,

Chư Thiên không thấy được.

Ud 2.10

 

 

III. Seclusion[go up]

III. Vien Ly[go up]

§ 11.

Renouncing violence

for all living beings,

harming not even a one,

you would not wish for offspring,

so how a companion?

Wander alone, like a rhinoceros.

§ 11

Ðối với các hữu tình,

Từ bỏ gậy và trượng,

Chớ làm hại một ai Trong chúng hữu tình ấy. Con trai không ước muốn,

Còn nói gì bạn bè,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

 

For a sociable person

there are allurements;

on the heels of allurement, this pain.

Seeing allurement's drawback,

wander alone, like a rhinoceros.

Do thân cận giao thiệp,

Thân ái từ đấy sanh,

Tùy thuận theo thân ái, Khổ này có thể sanh. Nhìn thấy những nguy hại,

Do thân ái sanh khởi,

Hãy sống riêng một mình, Như tê ngưu một sừng.

One whose mind

is enmeshed in sympathy

for friends & companions,

neglects the true goal.

Seeing this danger in intimacy,

wander alone, like a rhinoceros...

Do lòng từ thương mến,

Ðối bạn bè thân hữu,

Mục đích bị bỏ quên,

Tâm tư bị buộc ràng, Do thấy sợ hãi này,

Trong giao du mật thiết,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

If you gain a mature companion,

a fellow traveler, right-living & wise,

overcoming all dangers go with him, gratified, mindful.

If you don't gain a mature companion,

a fellow traveler, right-living & wise, go alone

like a king renouncing his kingdom, like the elephant in the Matanga wilds, his herd.

Ai nhớ nghĩ chờ mong,

Ðối với con và vợ,

Người ấy bị buộc ràng, Như cành tre rậm rạp, Còn các ngọn tre cao,

Nào có gì buộc ràng,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

We praise companionship — yes!

Those on a par, or better,

should be chosen as friends.

If they're not to be found,

living faultlessly, wander alone, like a rhinoceros.

Seeing radiant bracelets of gold,

well-made by a smith, clinking, clashing,

two on an arm, wander alone, like a rhinoceros,

Thật chúng ta tán thán,

Các bằng hữu chu toàn, Bậc hơn ta, bằng ta

, Nên sống gần thân cận.

Nếu không gặp bạn này.

Những bậc không lầm lỗi,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Thấy đồ trang sức vàng,

Lấp lánh và sáng chói, Ðược con người thợ vàng, Khéo làm, khéo tay làm,

Hai chúng chạm vào nhau, Trên hai tay đeo chúng,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

'Thinking:] "In the same way,

if I were to live with another,

there would be careless talk or abusive."

Seeing this future danger, wander alone, like a rhinoceros.

Because sensual pleasures,

elegant, honeyed, & charming,

bewitch the mind with their manifold forms —

seeing this drawback in sensual strands —

wander alone, like a rhinoceros.

Như vậy nếu ta cùng

Với một người thứ hai, Tranh luận cãi vã nhau, Sân hận, gây hấn nhau,

Nhìn thấy trong tương lai, Sợ hãi hiểm nguy này, Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Các dục thật mỹ miều,

Ngọt thơm và đẹp ý,

Dưới hình sắc, phi sắc, Làm mê loạn tâm tư,

Thấy sự nguy hiểm này,

Trong các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

"Calamity, tumor, misfortune,

disease, an arrow, a danger for me.

" Seeing this danger in sensual strands,

wander alone, like a rhinoceros...

 

 

Ðây là một mụn nhọt, Và cũng là tai họa,

Một tật bệnh, mũi tên, Là sợ hãi cho ta,

Thấy sự nguy hiểm này, Trong các dục trưởng dưỡng,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Avoid the evil companion disregarding the goal,

intent on the out-of-tune way.

Don't take as a friend someone heedless

& hankering. Wander alone, like a rhinoceros.

Với bạn bè độc ác, Hãy từ bỏ lánh xa,

Bạn không thấy mục đích, Quen nếp sống quanh co,

Chớ tự mình thân cận, Kẻ đam mê phóng dật,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Consort with one who is learned,

who maintains the Dhamma,

a great & quick-witted friend.

Knowing the meanings, subdue your perplexity, [then] wander alone, like a rhinoceros...

Mong cầu đoạn diệt ái, Sống hạnh không phóng dật, Không đần độn câm ngọng, Nghe nhiều, giữ chánh niệm. Các pháp được giám sát, Quyết định, chánh tinh cần. Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Unstartled, like a lion at sounds.

Unsnared, like the wind in a net.

Unsmeared, like a lotus in water:

wander alone, like a rhinoceros...

At the right time consorting

with the release through good will,

compassion, appreciation, equanimity, unobstructed

by all the world, any world, wander alone, like a rhinoceros.

Như sư tử, không động, An tịnh giữa các tiếng,

Như gió không vướng mắc, Khi thổi qua màn lưới.

Như hoa sen không dính, Không bị nước thấm ướt,

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Từ tâm, sống trú xả,

Bi tâm, hạnh giải thoát, Sống hành trì thực hiện, Hỷ tâm, cho đúng thời, Không chống đối và chậm, Với một ai ở đời.

Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

Having let go of passion,

aversion, delusion; having shattered the fetters;

undisturbed at the ending of life, wander alone,like a rhinoceros.

People follow & associate for a motive.

Friends without a motive these days are rare.

They're shrewd for their own ends, & impure.

Wander alone, like a rhinoceros.

Sn 1.3

 

Ðoạn tận lòng tham ái, Sân hận và si mê, Chặt đứt và cắt đoạn, Các kiết sử lớn nhỏ Không có gì sợ hãi, Khi mạng sống gần chung, Hãy sống riêng một mình Như tê ngưu một sừng.

 

Có những bạn vì lợi,
Thân cận và chung sống,
Những bạn không mưu lợi,
Nay khó tìm ở đời.
Người sáng suốt lợi mình,
Không phải người trong sạch,
Hãy sống riêng một mình
Như tê ngưu một sừng

Sn 1.3

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | | trở về đầu trang | Home page |