§ 65. Then Anathapindika the householder went to where the wanderers of other persuasions were staying. On arrival he greeted them courteously. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, the wanderers said to him, 'Tell us, householder, what views the contemplative Gotama has.'

 

'Venerable sirs, I don't know entirely what views the Blessed One has.'

 

 

Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của Thế Tôn.

 

'Well, well. So you don't know entirely what views the contemplative Gotama has. Then tell us what views the monks have.'

'I don't even know entirely what views the monks have.'

 

Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama. Nhưng Gia chủ, hãy nói các Tỷ-kheo có kiến gì ?

Thưa các Tôn giả, tôi không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo.

'So you don't know entirely what views the contemplative Gotama has or even that the monks have. Then tell us what views you have.'

 

Này Gia chủ, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của Sa-môn Gotama, Gia chủ có thể không biết tất cả kiến của các Tỷ-kheo. Vậy này Gia chủ, hãy nói về kiến của gia chủ.

 

'It wouldn't be difficult for me to expound to you what views I have. But please let the venerable ones expound each in line with his position, and then it won't be difficult for me to expound to you what views I have.'

Thưa các Tôn giả, thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi. Nhưng các Tôn hãy trả lời về kiến của các Tôn giả trước. Rồi sau thật không khó gì để chúng tôi trả lời về kiến của chúng tôi.

When this had been said, one of the wanderers said to Anathapindika the householder, 'The cosmos is eternal. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have.'

 

Khi được nói vậy, một du sĩ ngoại đạo nói với gia chủ Anàthapindika :
"Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

 

Another wanderer said to Anathapindika, 'The cosmos is not eternal. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have.'

 

Một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika :
"Vô thường là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến này khác là hư vọng. Như vậy là kiến của tôi."

 

Another wanderer said, 'The cosmos is finite...' ...'The cosmos is infinite...' ...'The soul & the body are the same...' ...'The soul is one thing and the body another...' ...'After death a Tathagata exists...' ...'After death a Tathagata does not exist...' ...'After death a Tathagata both does & does not exist...' ...'After death a Tathagata neither does nor does not exist. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have.'

 

Một du sĩ ngoại đạo khác nói với gia chủ Anàthapindika :
"Không có biên tế là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

"Mạng sống và thân thể là một. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

"Mạng sống và thân thể là khác. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

"Như Lai có tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

"Như Lai không có tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

"Như Lai có tồn tại và không có tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

"Như Lai không có tồn tại và không tồn tại sau khi chết. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi".

 

When this had been said, Anathapindika the householder said to the wanderers, 'As for the venerable one who says, "The cosmos is eternal. Only this is true; anything otherwise is worthless. This is the sort of view I have," his view arises from his own inappropriate attention or in dependence on the words of another. Now this view has been brought into being, is fabricated, willed, dependently co-arisen. Whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently co-arisen, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. This venerable one thus adheres to that very stress, submits himself to that very stress.' (Similarly for the other positions.)

Khi nghe nói vậy, gia chủ Anàthapindika nói với các du sĩ ngoại đạo ấy : Thưa các Tôn giả, Tôn giả nào nói như sau : "Thường còn là thế giới. Kiến này là sự thật. Kiến nào khác là hư vọng. Này Gia chủ, như vậy là kiến của tôi". Kiến này của Tôn giả ấy, hoặc nhân tự mình tác ý không hợp lý, hay do duyên nghe tiếng người khác nói. Kiến ấy như vậy được sanh được tác thành (hữu vi) do tâm suy tư, do duyên khởi lên. Và cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên khởi lên, cái ấy là vô thường ; cái gì vô thường, cái ấy là khổ ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp trước (dính vào) ; cái (khổ) ấy, Tôn giả chấp nhận.

 

When this had been said, the wanderers said to Anathapindika the householder, 'We have each & every one expounded to you in line with our own positions. Now tell us what views you have.'

 

Khi được nói vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy nói với gia chủ Anàthapindika :
- Này Gia chủ, tất cả kiến của chúng tôi đã được nói lên. Này Gia chủ, hãy nói lên kiến của gia chủ là gì? [go up]

999

 

'Whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently co-arisen, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. Whatever is stress is not mine, is not what I am, is not my self. This is the sort of view I have.'

 

Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy là "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi." Tôi có kiến như vậy, thưa các Tôn giả.

'So, householder, whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently co-arisen, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. You thus adhere to that very stress, submit yourself to that very stress.'

 

Này Gia chủ, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì là khổ, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp trước, cái ấy, này Gia chủ, Gia chủ lại chấp nhận.

'Venerable sirs, whatever has been brought into being, is fabricated, willed, dependently co-arisen, that is inconstant. Whatever is inconstant is stress. Whatever is stress is not mine, is not what I am, is not my self. Having seen this well with right discernment as it actually is present, I also discern the higher escape from it as it actually is present.'

 

 

Thưa các Tôn giả, phàm cái gì được sanh, được tác thành, do tâm suy tư, do duyên được khởi lên, cái ấy là vô thường. Cái gì vô thường, cái ấy là khổ. Cái gì khổ, cái ấy là : "Cái này không phải của tôi, cái này không phải là tôi, cái này không phải tự ngã của tôi". Như vậy là như thật khéo thấy với chánh trí tuệ. Và tư nơi khổ ấy, tôi như thật rõ biết sự xuất ly hơn thế nữa.


When this had been said, the wanderers fell silent, abashed, sitting with their shoulders drooping, their heads down, brooding, at a loss for words. Anathapindika the householder, perceiving that the wanderers were silent, abashed... at a loss for words, got up & left.

AN 10.93

 

Khi nghe nói như vậy, các du sĩ ngoại đạo ấy ngồi im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời. Rồi gia chủ Anàthapinika, sau khi biết các du sĩ ngoại đạo ấy im lặng, hoang mang, thụt vai, cúi đầu, sững sờ, không nói lên lời, tư chỗ ngồi đứng dậy

AN 10.93

IX. Release[go up]

 

IX. Release[go up]

 

§ 66. "Just as the ocean has a single taste — that of salt — in the same way, this Dhamma & Discipline has a single taste: that of release."

Ud 5.5

 

Ví như, này các Tỷ-kheo, biển lớn chỉ có một vị là vị mặn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, pháp này cũng chỉ có một vị là vị giải thoát.

Ud 5.5

§ 67. "Defiled by passion, the mind is not released. Defiled by ignorance, discernment does not develop. Thus from the fading of passion is there awareness-release. From the fading of ignorance is there discernment-release."

AN 2.30

 

 

Bị tham làm uế nhiễm, này các Tỷ-kheo, tâm không thể giải thoát. Hay bị vô minh làm uế nhiễm, tuệ không được tu tập. Do vậy, do ly tham, là tâm giải thoát. Do đoạn vô minh, là tuệ giải thoát.

AN 2.30

§ 68. [From a list of the powers available to one who has mastered jhana:]

"If he wants, then through the ending of the mental effluents, he enters & remains in the effluent-free awareness-release & discernment-release, having directly known and realized them for himself right in the here & now. He can witness this for himself whenever there is an opening."

AN 9.35

 

999

Nếu muốn, vị ấy có thể, do đoạn tận các lậu hoặc, sau khi chứng ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú ngay trong hiện tại, tâm giải thoát, tuệ giải thoát không có lậu hoặc!. Tại đấy, tại đấy, vị ấy có khả năng chứng đạt được, dầu thuộc loại xứ nào.

AN 9.35

 

§ 69. "And how is the awareness-release through good will developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

 

9999

 

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for awakening accompanied by good will, dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in letting go. He develops analysis of qualities... persistence... rapture... serenity... concentration... equanimity as a factor for awakening accompanied by good will, dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in letting go. If he wants, he remains percipient of loathsomeness in the presence of what is not loathsome. If he wants, he remains percipient of unloathsomeness in the presence of what is loathsome. If he wants, he remains percipient of loathsomeness in the presence of what is not loathsome & what is. If he wants, he remains percipient of unloathsomeness in the presence of what is loathsome & what is not. If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or he may enter & remain in the beautiful liberation. I tell you, monks, the awareness-release through good will has the beautiful as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release.

 

999

"And how is the awareness-release through compassion developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

 

999

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for awakening accompanied by compassion... etc... If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or, with the complete transcending of perceptions of [physical] form, with the disappearance of perceptions of resistance, and not heeding perceptions of diversity, [perceiving,] 'Infinite space,' he enters & remains in the dimension of the infinitude of space. I tell you, monks, the awareness-release through compassion has the dimension of the infinitude of space as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release.

 

999

"And how is the awareness-release through appreciation developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

999

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for awakening accompanied by appreciation... etc... If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or, with the complete transcending of the dimension of infinitude of space, thinking 'Infinite consciousness,' he enters & remains in the dimension of the infinitude of consciousness. I tell you, monks, the awareness-release through appreciation has the dimension of the infinitude of consciousness as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release.

 

9999

"And how is the awareness-release through equanimity developed, what is its destiny, what is its excellence, its reward, & its consummation?

 

999

 

"There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for awakening accompanied by equanimity... etc... If he wants — in the presence of what is loathsome & what is not — cutting himself off from both, he remains equanimous, alert, & mindful. Or, with the complete transcending of the dimension of infinitude of consciousness, thinking 'There is nothing,' he enters & remains in the dimension of nothingness. I tell you, monks, the awareness-release through equanimity has the dimension of nothingness as its excellence — in the case of one who has penetrated to no higher release."

— SN 46.54

999

§ 70. "Monks, these six properties are means of escape. Which six?

Này các Tỷ-kheo, có sáu pháp xuất ly giới này. Thế nào là sáu ?

"There is the case where a monk might say, 'Although good will has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still ill will keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that. You shouldn't speak in that way. Don't misrepresent the Blessed One, for it's not right to misrepresent the Blessed One, and the Blessed One wouldn't say that. It's impossible, there is no way that — when good will has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — ill will would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from ill will: good will as an awareness-release.'

 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy, trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập từ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, sân tâm vẫn ngự trị, an trú ; sự kiện như vậy không xảy ra, này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát sân tâm, tức là từ tâm giải thoát".

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although compassion has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still viciousness keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that... It's impossible, there is no way that — when compassion has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — viciousness would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from viciousness: compassion as an awareness-release.'

 

Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập, bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Ai tu tập bi tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, hại tâm vẫn ngự trị, an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát hạt tâm, tức là bi tâm giải thoát".

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although appreciation has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still resentment keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that... It's impossible, there is no way that — when appreciation has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — resentment would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from resentment: appreciation as an awareness-release.'

 

Này các Tỷ-kheo, ở đây vị Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất lạc tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy. Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập hỷ tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, bất lạc tâm vẫn ngự trị, an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát bất lạc tâm, tức là hỷ tâm giải thoát".

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although equanimity has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still passion keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that... It's impossible, there is no way that — when equanimity has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — passion would still keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from passion: equanimity as an awareness-release.'

Này các Tỷ-kheo, ở đây, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị tâm ta". Vị ấy cần được nói : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập xả tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, tham tâm vẫn ngự trị an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tham tâm, tức là xả tâm giải thoát".

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although the signless has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken by me as my awareness-release, still my consciousness follows the drift of signs.' He should be told, 'Don't say that... It's impossible, there is no way that — when the signless has been developed, pursued, handed the reins, taken as a basis, steadied, consolidated, and well-undertaken as an awareness-release — consciousness would follow the drift of signs. That possibility doesn't exist, for this is the escape from all signs: the signless as an awareness-release.'

 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nói như sau : "Ta đã tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, tuy vậy, thức của ta vẫn tùy niệm tướng". Vị ấy cần phải được nói như sau : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Nếu tu tập vô tướng tâm giải thoát, làm cho sung mãn, làm thành cỗ xe, làm thành căn cứ, an trú, chất chứa và khéo léo tinh cần, thức vẫn sẽ tùy niệm tướng, an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát tất cả tướng, tức là vô tướng tâm giải thoát".

"Furthermore, there is the case where a monk might say, 'Although "I am" is gone, and I do not assume that "I am this," still the arrow of uncertainty & perplexity keeps overpowering my mind.' He should be told, 'Don't say that. You shouldn't speak in that way. Don't misrepresent the Blessed One, for it's not right to misrepresent the Blessed One, and the Blessed One wouldn't say that. It's impossible, there is no way that — when "I am" is gone, and "I am this" is not assumed — the arrow of uncertainty & perplexity would keep overpowering the mind. That possibility doesn't exist, for this is the escape from the arrow of uncertainty & perplexity: the uprooting of the conceit, "I am".'

"These, monks, are six properties that are means of escape."

AN 6.13

 

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nào nói như sau : "Tôi đã từ bỏ tư tưởng "Tôi là". Tôi không có tùy quán "Cái này là tôi", tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do sự xâm chiếm tâm tôi và an trú". Vị ấy cần được nói như sau : "Chớ có như vậy, Hiền giả chớ có nói như vậy. Chớ có xuyên tạc Thế Tôn. Xuyên tạc Thế Tôn như vậy thật không tốt. Thế Tôn không nói như vậy. Này Hiền giả, sự kiện không phải như vậy. Trường hợp không phải như vậy. Với ai đã từ bỏ tư tưởng "Tôi là", với ai không có tùy quán "Cái này là tôi", tuy vậy, mũi tên nghi ngờ, do dự xâm chiếm tâm người ấy và an trú ; sự kiện không xảy ra như vậy. Này Hiền giả, cái này có khả năng giải thoát mũi tên nghi hoặc do dự, tức là sự nhổ lên kiêu mạn "Tôi là"".

Này các Tỷ-kheo, đây là sáu pháp xuất ly giới.

AN 6.13

§ 71. On one occasion Ven. Godatta was living near Macchikasanda in the Wild Mango Grove. Then Citta the householder went to him and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, Ven. Godatta said to him, "Householder, the immeasurable awareness-release, the nothingness awareness-release, the emptiness awareness-release, the themeless awareness-release: Are these phenomena different in meaning and different in name, or are they one in meaning and different only in name?"

 

Một thời Tôn giả Godatta trú ở Macchikàsanda, tại Ambàtavana.
Rồi gia chủ Citta đi đến Tôn giả Godatta; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Godatta rồi ngồi xuống một bên. Tôn giả Godatta nói với gia chủ Citta đang ngồi một bên:
- Này Gia chủ, vô lượng tâm giải thoát, vô sở hữu tâm giải thoát, không tâm giải thoát, vô tướng tâm giải thoát, những pháp này là khác ngôn từ, hay đồng nghĩa chỉ khác ngôn từ?

"Venerable sir, there is a line of reasoning by which these phenomena are different in meaning and different in name, and there is a line of reasoning by which they are one in meaning and different only in name.

 

- Bạch Thượng tọa, có pháp môn, theo pháp môn ấy, các pháp này khác nghĩa, khác ngôn từ. Bạch Thượng tọa, cũng có pháp môn, theo pháp môn ấy, các pháp này đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ.

"And what is the line of reasoning by which they are different in meaning and different in name? There is the case where a monk keeps pervading the first direction [the east] with an awareness imbued with good will, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with good will — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. He keeps pervading the first direction with an awareness imbued with compassion ... appreciation... equanimity, likewise the second, likewise the third, likewise the fourth. Thus above, below, & all around, everywhere, in its entirety, he keeps pervading the all-encompassing cosmos with an awareness imbued with equanimity — abundant, expansive, immeasurable, without hostility, without ill will. This is called the immeasurable awareness-release.

Nhưng, này Gia chủ, pháp môn nào, theo pháp môn ấy, các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ? Ở đây, bạch Thượng tọa, Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ; cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương Với tâm câu hữu với bi...
Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với hỷ...
Tỷ-kheo an trú, biến mãn một phương với tâm câu hữu với xả; cũng vậy, phương thứ hai; cũng vậy, phương thứ ba; cũng vậy, phương thứ tư. Như vậy, cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, vị ấy an trú biến mãn với tâm câu hữu với xả, quảng đại vô biên, không hận, không sân.
Bạch Thượng tọa, đây gọi là vô lượng tâm giải thoát.

"And what is the nothingness awareness-release? There is the case where a monk, with the complete transcending of the dimension of the infinitude of consciousness, [perceiving,] 'There is nothing,' enters & remains in the dimension of nothingness. This is called the nothingness awareness-release.

 

Và bạch Thượng tọa, như thế nào là vô sở hữu tâm giải thoát? Ở đây, Tỷ-kheo vượt lên Thức vô biên xứ một cách hoàn toàn, nghĩ rằng: "Không có vật gì", chứng và trú Vô sở hữu xứ. Bạch Thượng tọa, đây gọi là vô sở hữu tâm giải thoát.

"And what is the emptiness awareness-release? There is the case where a monk, having gone into the wilderness, to the root of a tree, or into an empty dwelling, considers this: 'This is empty of self or of anything pertaining to self.'1 This is called the emptiness awareness-release.

 

Và bạch Thượng tọa, thế nào là không tâm giải thoát? Ở đây, bạch Thượng tọa, Tỷ-kheo đi đến rừng, hay đi đến gốc cây, hay đi đến căn nhà trống và suy tư: "Cái này là trống không tự ngã hay ngã sở hữu". Bạch Thượng tọa, đây gọi là không tâm giải thoát.

"And what is the themeless awareness-release? There is the case where a monk, not attending to any theme (object of awareness) enters & remains in the themeless concentration of awareness.2 This is called the themeless awareness-release.

Và bạch Thượng tọa, thế nào là vô tướng tâm giải thoát? Ở đây, bạch Thượng tọa, Tỷ-kheo không tác ý tất cả tướng, chứng và trú Vô tướng tâm định. Bạch Thượng tọa, đây gọi là vô tướng tâm giải thoát.

"This, venerable sir, is the line of reasoning by which these phenomena are different in meaning and different in name.

 

Đây là pháp môn, bạch Thượng tọa, theo pháp môn ấy, các pháp này là khác nghĩa, khác ngôn từ.

"And what, venerable sir, is the line of reasoning by which they are one in meaning and different only in name? Passion, venerable sir, is a making of measurement, aversion a making of measurement, delusion a making of measurement. For a monk whose fermentations are ended these have been abandoned, their root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. To the extent that there are immeasurable awareness-releases, the unprovokable awareness-release is declared supreme. And that unprovokable awareness-release is empty of passion, empty of aversion, empty of delusion.

 

 

Và bạch Thượng tọa, pháp môn nào, theo pháp môn ấy, các pháp này là đồng nghĩa, chỉ khác ngôn từ? Tham dục (ràga) làm sự đo lường, sân làm sự đo lường, si làm sự đo lường. Đối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt tận gốc rễ, bị làm như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Bạch Thượng tọa, đối các vô lượng tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng. Nhưng bất động tâm giải thoát này trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.

 

 

"Passion is a something, aversion a something, delusion a something. For a monk whose fermentations are ended these have been abandoned, their root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. To the extent that there are nothingness awareness-releases, the unprovokable awareness-release is declared supreme. And that unprovokable awareness-release is empty of passion, empty of aversion, empty of delusion.

 

Tham dục, bạch Thượng tọa, là một chướng ngại, sân là một chướng ngại, si là một chướng ngại. Đối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt tận gốc rễ, bị làm như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Bạch Thượng tọa, đối với các vô sở hữu tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng. Nhưng bất động tâm giải thoát này được trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.

"Passion is a making of themes, aversion a making of themes, delusion a making of themes. For a monk whose fermentations are ended these have been abandoned, their root destroyed, like an uprooted palm tree, deprived of the conditions of existence, not destined for future arising. To the extent that there are themeless awareness-releases, the unprovokable awareness-release is declared supreme. And that unprovokable awareness-release is empty of passion, empty of aversion, empty of delusion.

Tham dục, bạch Thượng tọa, tác thành tướng, sân tác thành tướng, si tác thành tướng. Đối với Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, chúng bị đoạn tận, bị cắt đứt tận gốc rễ, bị làm như thân cây ta-la, làm cho không thể tái sanh, không thể sanh khởi trong tương lai. Bạch Thượng tọa, đối với các vô tướng tâm giải thoát, bất động tâm giải thoát được xem là tối thượng. Nhưng bất động tâm giải thoát này trống không, không có tham; trống không, không có sân; trống không, không có si.

"This, venerable sir, is the line of reasoning by which these phenomena are one in meaning and different only in name."

 

Đây là pháp môn, bạch Thượng tọa, do pháp môn ấy, các pháp này là đồng nghĩa chỉ khác ngôn từ.

"It's a gain for you, householder, a great gain: what your eye of discernment plumbs in the deep word of the Buddha."

SN 41.7

Notes

1. See MN 106.

2. See MN 121.

 

Lợi ích thay cho Ông, này Gia chủ! Khéo lợi ích thay cho Ông, này Cư sĩ! Vì rằng tuệ nhãn của Ông tiếp tục (kamati) lời dạy thâm sâu của đức Phật.

SN 41.7

Notes

1. See MN 106.

2. See MN 121.

§ 72. [Udayin:] "'Discernment-released, discernment-released,' it is said. To what extent is one described by the Blessed One as discernment-released?"

 

"Tuệ giải thoát, tuệ giải thoát", này Hiền giả, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, này Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến?

[Ananda:] "There is the case, my friend, where a monk, withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. And he knows it through discernment. It's to this extent that one is described with explication by the Blessed One as discernment-released. [Similarly with the other levels of jhana.]"

AN 9.44

 

Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền; với trí tuệ vị ấy rõ biết. Cho đến như vậy, này các Hiền giả, tuệ giải thoát được Thế Tôn nói đến với pháp môn.

 

AN 9.44

§ 73. [Udayin:] "'Released both ways, released both ways,' it is said. To what extent is one described by the Blessed One as released both ways?"

 

"Giải thoát cả hai phần, giải thoát cả hai phần", này Hiền giả, được nói đến. Cho đến như thế nào, này Hiền giả, giải thoát cả hai phần được Thế Tôn nói đến?

[Ananda:] "There is the case, my friend, where a monk, withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful qualities, enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He remains touching with his body in whatever way there is an opening there, and he knows it through discernment. It's to this extent that one is described with explication by the Blessed One as released both ways. [Similarly with the other levels of jhana.]'"

AN 9.45

 

 

 

Ở đây, này Hiền giả, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp,chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Như thế nào, như thế nào, sau khi cảm xúc với thân, vị ấy như vậy, như vậy an trú xứ ấy; với trí tuệ, vị ấy rõ biết. Cho đến như vậy, này Hiền giả, tuệ giải thoát cả hai phần được Thế Tôn nói đến với phi pháp môn.

 

AN 9.45

§ 74. Then, on the attainment of arahantship, this thought occurred to Ven. Sona: "What if I were to go to the Blessed One and, on arrival, to declare gnosis in his presence?" So he then went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One: "When a monk is an arahant, with his fermentations ended, one who has reached fulfillment, done the task, laid down the burden, attained the true goal, totally destroyed the fetter of becoming, and is released through right gnosis, he is dedicated to six things: renunciation, seclusion, non-afflictiveness, the ending of craving, the ending of clinging/sustenance, & non-deludedness.

.

Sau khi chứng được A-la-hán, Tôn giả Sona suy nghĩ như sau : "Ta hãy đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, ta sẽ nói lên ý nghĩa này với Thế Tôn". Rồi Tôn giả Sona đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sona bạch Thế Tôn :
-" Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo nào là bậc A-la-hán, đã đoạn tận các lậu hoặc, Phạm hạnh đã thành, đã làm những việc cần làm, đã đặt gánh nặng xuống, đã đạt được mục đích, hữu kiết sử đã trừ diệt, đã được giải thoát nhờ chánh trí ; vị ấy có sáu chỗ để xu hướng, xu hướng xuất ly, xu hướng viễn ly, xu hướng vô sân, xu hướng ái diệt, xu hướng thủ diệt, xu hướng vô si.

"Now it may occur to a certain venerable one to think, 'Perhaps it is entirely dependent on conviction that this venerable one is dedicated to renunciation,' but it should not be seen in that way. The monk whose fermentations are ended, having fulfilled [the holy life], does not see in himself anything further to do, or anything further to add to what he has done. It is because of the ending of passion, because of his being free of passion, that he is dedicated to renunciation. It is because of the ending of aversion, because of his being free of aversion, that he is dedicated to renunciation. It is because of the ending of delusion, because of his being free of delusion, that he is dedicated to renunciation.

 

Bạch Thế Tôn, có thể ở đây, một số Tôn giả suy nghĩ như sau : "Có Tôn giả này hoàn toàn chỉ y cứ trên tín, có xu hướng xuất ly". Vị Tôn giả ấy chớ có quan điểm như vậy ! Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, bạch Thế Tôn, Phạm hạnh đã thành, các việc nên làm đã làm, không còn thấy trong mình còn cái gì cần làm, hay còn cái gì cần phải làm thêm ; do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng xuất ly ; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng xuất ly ; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng xuất ly.

"Now it may occur to a certain venerable one to think, 'Perhaps it is because he desires gain, honor, & fame that this venerable one is dedicated to seclusion'... 'Perhaps it is because he falls back on attachment to precepts & practices as being essential that he is dedicated to non-afflictiveness,' but it should not be seen in that way. The monk whose fermentations are ended, having fulfilled [the holy life], does not see in himself anything further to do, or anything further to add to what he has done. It is because of the ending of passion, because of his being free of passion, that he is dedicated to non-afflictiveness. It is because of the ending of aversion, because of his being free of aversion, that he is dedicated to non-afflictiveness. It is because of the ending of delusion, because of his being free of delusion, that he is dedicated to non-afflictiveness.

 

Bạch Thế Tôn, có thể ở đây một số Tôn giả suy nghĩ như sau : "Tôn giả này do tham muốn lợi dưỡng, cung kính, danh tiếng nên hướng tâm về xu hướng viễn ly". Tôn giả ấy chớ có xu hướng như vậy ! Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, không còn thấy trong mình còn cái gì cần làm hay còn cái gì cần phải làm thêm ; do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng viễn ly ; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng viễn ly ; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng viễn ly.

"It is because of the ending of passion, because of his being free of passion... because of the ending of aversion, because of his being free of aversion... because of the ending of delusion, because of his being free of delusion, that he is dedicated to the ending of craving... to the ending of clinging/sustenance... to non-deludedness.

 

Bạch Thế Tôn, có thể đây một số Tôn giả suy nghĩ như sau : "Do đi ngược trở lại tối thắng giới cấm thủ, Tôn giả này hướng tâm đến xu hướng vô sân". Tôn giả ấy chớ có quan điểm như vậy ! Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo đã đoạn tận các lậu hoặc, đã thành tựu Phạm hạnh, đã làm những việc phải làm, không còn thấy trong mình còn cái gì cần phải làm hay còn cái gì cần phải làm thêm ; do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô sân ; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô sân ; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô sân... Do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng ái diệt ; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng ái diệt ; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng ái diệt... Do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng thủ diệt ; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng thủ diệt ; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng thủ diệt. Do đoạn diệt tham ái, do viễn ly tham ái, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô si ; do đoạn diệt sân, do viễn ly sân, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô si ; do đoạn diệt si, do viễn ly si, vị ấy hướng tâm đến xu hướng vô si.

"Even if powerful forms cognizable by the eye come into the visual range of a monk whose mind is thus rightly released, his mind is neither overpowered nor even engaged. Being still, having reached imperturbability, he focuses on their passing away. And even if powerful sounds... aromas... flavors... tactile sensations... Even if powerful ideas cognizable by the intellect come into the mental range of a monk whose mind is thus rightly released, his mind is neither overpowered nor even engaged. Being still, having reached imperturbability, he focuses on their passing away.

 

Như vậy, với Tỷ-kheo có tâm chơn chánh giải thoát, bạch Thế Tôn, nếu nhiều sắc do mắt nhận thức đi vào trong giới vức của mắt, chúng không chinh phục tâm vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng. Nếu nhiều tiếng do tai nhận thức... nếu nhiều hương do mũi nhận thức... nếu nhiều vị do lưỡi nhận thức... nếu nhiều xúc do thân nhận thức... nếu nhiều pháp do ý nhận thức đi vào trong giới vức của ý, chúng không chinh phục tâm của vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng.

"Just as if there were a mountain of rock — without cracks, without fissures, one solid mass — and then from the east there were to come a powerful storm of wind & rain: the mountain would neither shiver nor quiver nor shake. And then from the west... the north... the south there were to come a powerful storm of wind & rain: the mountain would neither shiver nor quiver nor shake. In the same way, even if powerful forms cognizable by the eye come into the visual range of a monk whose mind is thus rightly released, his mind is neither overpowered nor even engaged. Being still, having reached imperturbability, he focuses on their passing away. And even if powerful sounds... aromas... flavors... tactile sensations... Even if powerful ideas cognizable by the intellect come into the mental range of a monk whose mind is thus rightly released, his mind is neither overpowered nor even engaged. Being still, having reached imperturbability, he focuses on their passing away."

 

Ví như, bạch Thế Tôn, một hòn núi đá, không có rạn nứt, không có trống bọng, một tảng đá lớn, nếu từ phương Đông mưa to gió lớn đến, không có làm rung động, rung chuyển, chuyển động mạnh núi đá ấy. Nếu từ phương Tây mưa to gió lớn đến... nếu từ phương Bắc mưa to gió lớn đến không có làm rung động, rung chuyển, chuyển động mạnh núi đá ấy.
Cũng vậy, bạch Thế Tôn, với Tỷ-kheo có tâm chơn chánh giải thoát, nếu nhiều sắc do mắt nhận thức đi vào trong giới vức của mắt, chúng không chinh phục tâm vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng. Nếu nhiều tiếng do tai nhận thức... nếu nhiều hương do mũi nhận thức... nếu nhiều vị do lưỡi nhận thức... nếu nhiều xúc do thân nhận thức, nếu nhiều pháp do ý nhận thức đi vào trong giới vức của ý, chúng không chinh phục tâm vị ấy, và tâm vị ấy không lộn xộn, an trú, đạt được không dao động, quán thấy tánh diệt của chúng.

When one's awareness is dedicated
to renunciation, seclusion,
non-afflictiveness, the ending of clinging,
the ending of craving, & non-deludedness,
seeing the arising of the sense media,
the mind is rightly released.
For that monk, rightly released,
his heart at peace,
there's nothing to be done,
nothing to add
to what's done.
As a single mass of rock isn't moved by the wind,
even so all forms, flavors, sounds,
aromas, contacts,
ideas desirable & not,
have no effect on one who is Such.
The mind
— still, totally released —
focuses on
their passing away.
— AN 6.55

 

Với ai hướng xuất ly,
Tâm xu hướng viễn ly,
Với ai hướng vô sân,
Tâm xu hướng thủ diệt,
Với ai hướng ái diệt,
Tâm xu hướng vô si,
Có thấy xứ sanh khởi,
Tâm được chánh giải thoát.
Với vị chánh giải thoát,

Vị Tỷ-kheo tâm tịnh,
Không cần làm thêm gì,
Không có gì phải làm.
Như hòn núi đá tảng,
Gió không thể dao động,
Cũng vậy, toàn thể sắc,
Vị, tiếng, và hương, xúc,
Cho đến tất cả pháp,
Khả ái, không khả ái,
Không có thể dao động,
Một vị được như vậy,
Tâm kiên trú, giải thoát,
Thấy tánh diệt của chúng.

— AN 6.55

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |