Mind in its passive and active formsThe mind occurs in both passive and active modes. The passive gives way to the active when a stimulus is received through one of the sense doors. The passive state of mind is called bhava"nga, cuti, or paa.tisandhi, according to the occasion. |
Tâm xuất hiện dưới các pháp thức thụ động và chủ động. Pháp thức thụ động nhường chỗ cho pháp thức chủ động khi có một kích thích nhận được qua một trong các cửa căn. Trạng thái thụ động của tâm được gọi là bhava"nga, cuti, hay là paa.tisandhi,tùy theo trường hợp.>
|
||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Bhava"nga. The bhava"nga citta, mentioned earlier, is the primary form of mind. It flows from conception to death except when interrupted by a stimulus through one of the sense doors. When a stimulus enters, consciousness becomes active, launching into a thought process (citta viithi). Thought processes have been analyzed in great detail in the Abhidhamma. |
Bhava"nga. Tâm tiềm thức, đă đề cập ở trên, là tâm sắc sơ nguyên. Nó lưu chảy từ lúc thọ thai cho đến khi chết trừ khi bị một kích thích thông qua của các cửa căn làm gián đọan. Khi một kích thích đi vào, tâm trở nên chủ động, lao vào tiến tŕnh tâm (citta viithi). Các tiến tŕnh tâm đă được phân tích thật chi tiết trong Vi Diệu Pháp. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
A complete thought process, occurring through the physical sense doors, is made up of seventeen thought moments (citta kha.na). These are: |
Một tiến tŕnh tâm ḥan chỉnh, xuất hiện thông qua các cửa căn hữu h́nh, được làm thành bởi mười bảy chặp tâm (citta kha.na) (sát-na tâm). Đó là: | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
6. Kế đến là một chặp tâm — the sampa.ticchana citta — có chức năng nhận thức đối tượng. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
These thought moments follow one another in extremely rapid succession; each depends on the previous one and all share the same object. There is no self or soul directing this process. The process occurs so rapidly that mindfulness has to be alert and brisk to recognize at least the determining thought moment — the vottapana — so that one can govern the javana thought moments by wholesome volition. |
Những chặp tâm này, cái này theo cái kia trong một chuỗi liên tục cực nhanh; mỗi cái tùy thuộc vào cái trước và tất cả đều có chung đối tượng. Không có ngă hoặc thần thức định hướng cho tiến tŕnh này. Tiến tŕnh xảy ra nhanh chóng đến mức chánh niệm phải tỉnh thức và nhanh nhạy để nhận ra ít nhứt là chặp tâm quyết định — vottapana — để mà con người có thể chi phối những chặp tâm do thiện tác ư. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
When the mind-door receives a mind-object, the sequence of events is a little different from that occurring through the physical senses. The mind-door-adverting citta is the same type of citta as the determining moment — the votthapana — that arises in a sensory process. This mind-door-adverting thought moment can cognize an object previously seen, heard, smelt, tasted or touched, thus making memories possible. Since the mind-object here has already been received and investigated, these functions need not be performed again and the mind-door-adverting thought moment gives way immediately to the javanas. These are, again, of great ethical significance. For example, unpleasant words previously heard can suddenly come to mind and, unless proper mindfulness (sammaa sati) is practiced, call up javana cittas rooted in hatred, i.e., unwholesome kamma. |
Khi cửa ư nhận thức một đối tượng của ư, chuỗi diễn biến khác hơn một chút so với chuỗi xảy ra thông qua các căn hữu h́nh. Tâm nghịch-đảo-cửa-ư là cùng lọai tâm như là chặp tâm quyết định — the votthapana — khởi sanh trong tiến tŕnh cảm quan. Chặp tâm nghịch-đảo-cửa-ư này có thể nhận thức đối tượng trước khi được thấy, nghe, ngửi, nếm hoặc cảm xúc, do đó làm cho trí nhớ có thể có được. V́ đối tượng của ư ở đây đă được nhận thức và xem xét, những chức năng này không cần được thực hiện lại, và chặp tâm nghịch-đảo-cửa ư lập tức nhường chỗ cho các javana. Những cái này, một lần nữa, có ư nghĩa đạo đức to lớn. Ví dụ, những lời khó chịu đă được nghe trước đây có thể bất ngờ hiện tra trong tâm và, trừ khi có thực hành chánh niệm thích hợp (sammaa sati), gọi ra các tâm javana có nhân sân hận, tức là, nghiệp bất thiện. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
The mind at the time of deathWhen a person is about to die the bhava"nga is interrupted, vibrates for one moment and passes away. The interruption is caused by an object which presents itself to the mind-door. As a result of this a mind-door-adverting citta arises. This is followed by five javana thought moments which are weak, lack reproductive power, and serve only to determine the nature of rebirth consciousness. The javanas may or may not be followed by two registering thought moments (tadaalambana). After this comes the death consciousness (cuti citta), which is identical in constitution and object to the bhava"nga citta. The cuti citta merely serves the function of signaling the end of life. It is important to appreciate the difference between the cuti citta and the javanas that precede it. The cuti citta is the end of the bhava"nga flow of an existence and does not determine the nature of rebirth. The javanas that occur just before the cuti citta arises form a kammic process and determine the nature of the rebirth consciousness. |
Khi một người sắp lâm chung bhava"nga bị gián đọan, rung động trong khỏanh khắc rồi biến mất. Sự gián đọan gây ra do một đối tượng tự hiện ra trước cửa ư. Do kết quả của điều này một tâm nghịch-đảo cửa ư khởi sanh. Tiếp theo là năm chập tâm javana yếu ớt, không có năng lực sản sanh, và chỉ phục vụ quyết định tâm tái sanh. Các javanas có thể có hay không có hai chặp tâm kư theo sau (tadaalambana). Kế đến là tâm tử xuất hiện (cuti citta), cùng thành phần và đối tượng với bhava"nga citta. Cuti citta chỉ làm chức năng báo hiệu mạng chung. Điều quan trọng là hiiểu được sự khác nhau giữa cuti citta và javanas xuất hiện trước nó. Cuti citta là kết cục của ḍng bhava"nga của một sự sinh tồn và không quyết định bản chất của tái sanh. Các javana xuất hiện ngay trước khi cuti citta khởi sanh h́nh thành một tiến tŕnh nghiệp và quyết định bản chất của tâm tái sanh. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
The object that presents itself to the mind-door just before death is determined by kamma on a priority basis as follows: |
Đối tượng tự xuất hiện trước cửa ư ngay trước lúc lâm chung do nghiệp quyết định trên cơ sở ưu tiên như sau: | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Dependent on one of the above mentioned four types of kamma, the object that presents itself to the mind-door could be one of three kinds: |
Tùy vào bốn lọai nghiệp nêu trên, đối tượng tự xuất hiện ở cửa ư có thể là một trong ba lọai sau : | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
| ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
This brief account of what will happen to us at death should impress on us the urgency of avoiding all evil acts by deed, word or thought and of performing wholesome meritorious acts. If we do not do so now, we cannot do so at the moment of death, which may come quite unexpectedly. As the Dhammapada states in verses 288 and 289: |
Phần tóm tắt về những ǵ sẽ xảy ra cho chúng ta lúc lâm chung sẽ gây ấn tượng cho chúng ta về sự cấp bách tránh những nghiệp ác do việc làm, lời nói hay ư nghĩ và về việc thực hiện những nghiệp công đức thiện lành. Nếu chúng ta không làm như vậy bây giờ, chúng ta không thể làm như vậy vào lúc lâm chung, mà nó có thể đến thật bất ngờ. Như kệ ngôn 228 và 289 trong Kinh Pháp cú nói: | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
There are no sons for one's protection, Neither father nor even kinsmen; For one who is overcome by death No protection is to be found among kinsmen. Realizing this fact, Let the virtuous and wise person Swiftly clear the way That to nibbaana leads. — Dhp 288 |
— Dhp 288 | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Rebirth ConsciousnessThis is called pa.tisandhi citta, literally "relinking consciousness." The pa.tisandhi citta is the act of consciousness which arises at the first moment of life, the moment of conception. It is determined by the last kammic citta of the preceding life. |
Tâm này gọi là pa.tisandhi citta, nghĩa đen là "tâm kết nối lại." Pa.tisandhi citta là họat động của tâm khởi sanh vào khỏanh khắc đầu tiên của đời sống, khỏanh khắc thụ thai. Nó được quyết định bởi tâm nghiệp cuối cùng của kiếp liền trước. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
This kammic factor for the arising of a being operates through the pa.tisandhi. The accumulated tendencies of past lives are carried on to the pa.tisandhi and so the process of being born, dying and being born again goes on. Each pa.tisandhi citta is a new one, not the continuation of the old one in the previous life. Thus there is no place for a soul concept in rebirth. In the course of one particular life there is only one pa.tisandhi citta. Once the function of linking two existences has been performed by the pa.tisandhi, consciousness in the newly formed embryo immediately goes into the bhava"nga state. This flows along in the new existence with infinite interruptions by various stimuli and ends as the cuti citta of that particular existence. |
Yếu tố nghiệp này đối với sự khởi sanh của một chúng sanh họat động thông qua pa.tisandhi. Các xu hướng huân tập của các tiền kiếp được chuyển tiếp cho pa.tisandhi và do đó tiến tŕnh được sanh ra, chết và tái sanh tiếp diễn. Mỗi pa.tisandhi citta là một tâm mới, Không phải là sự tiép nối của tâm cũ trong kiếp trước. Do đó không có chỗ cho khái niệm linh hồn trong tái sanh. Trong quá tŕnh của một kiếp sống cụ thể chỉ có một pa.tisandhi citta mà thôi. Một khi chức năng kết nối hai kiếp sinh tồn đă được pa.tisandhi thực hiện, tâm trong phôi thai lập tức đi vào trạng tái bhava"nga (tiềm thức). Tâm này trôi theo cuộc sinh tồn mới với những gián đọan bất định do nhiều kích thích khác nhau và kết thúc là tâm tử - cuti citta - của một kiếp sống cụ thể nào đó. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
The practice of chanting Buddhist scriptures in the presence of a dying person is intended to evoke kusala kamma cittas in him so that the last thought process will be a wholesome one and lead to a favorable rebirth. |
Tập tục đọc kinh trước người sắp lâm chung là có ư khơi dậy các tâm thiện nghiệp ở người ấy do đó mà tiến tŕnh tâm cuối cùng sẽ là một tiến tŕnh thiện và dẫn đến tái sanh tốt đẹp. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Regardless of the conditions into which humans are born, be they handicapped or favored in various ways, birth in the human plane is the result of kusala kamma. It is only in the human plane that one can make a start to end all suffering. The Buddha has told us that, having left this human existence, not many will return to it for a long, long time. Therefore, it is up to us to make the most of this opportunity we have as human beings. |
Bất kể những điều kiện trong đó con người được sanh ra, dù họ bị tật nguyền hay thuận lợi về nhiều phương diện, sanh ra ở cơi người là kết quả của thiện nghiệp - kusala kamma. Chỉ có ở cơi người mà người ta có thể khởi đầu cho việc chấm dứt khổ. Đức Phật dạy chúng ta rằng, một khi đă rời bỏ kiếp người này không có nhiều người được trở lại với nó trong một thời gian dài, rất dài. Do đó, tùy chúng ta quyết định để lợi dụng tối đa cơ hội mà chúng ta được làm người này. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
The Jhaana cittasThe cittas that occur through the five physical sense doors, and the mind-door cittas taking sense objects, belong to the sensuous plane of consciousness. They are called kaamaavacara cittas. The jhaana cittas are meditative states of consciousness. Their object is not a sense impression but a meditation object experienced through the mind-door. The jhaana citta may depend on subtle materiality (ruupaavacara citta) or, if more refined, may be independent of materiality (aruupaavacara citta). |
Các tâm xuất hiện qua năm cửa giác quan, các tâm của cửa ư nhận thức đối tượng cảm quan, thuộc về dục giới. Chúng được gọi là các tâm dục giới (kaamaavacara cittas). Các jhaana citta là các tâm thiền. Đối tượng của chúng không phải là những cảm nhận giác quan mà là đối tượng thiền định được thể nghiệm qua cửa ư. Tâm thiền có thể tùy thuộc vào vật chất tế vi (ruupaavacara citta -tâm thiền sắc giới) hoặc, nếu tinh tế hơn, có thể không tùy thuộc vào vật chất (aruupaavacara citta - tâm thiền vô sắc giới). | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
There are five stages of ruupa jhaana and four of aruupa jhaana. No attempt will be made to analyze these stages except to state that each is more refined than its predecessor. |
Có năm cảnh thiền sắc giới và bốn cảnh thiền vô sắc giới. Không có nỗ lực nào được thực hiện để phân tích các cảnh này ngọai trừ nói rằng mỗi cành thiền th́ tinh tế hơn cảnh thiền trước nó. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
It is extremely difficult to attain even the first stage of jhaana. To do so one has to be well established in virtue (siila) and eliminate the five mental hindrances, at least temporarily. These five hindrances are: sense desire (kaamacchanda), ill-will (vyaapaada), sloth and torpor (thiina and middha), restlessness and worry (uddhacca and kukkucca), and doubt (vicikicchaa). |
Cực kỳ khó để đạt được ngay cả cảnh thiền đầu tiên. Để làm được điều đó người ta phải thật vững vàng về giới hạnh(siila) và lọai trừ năm chướng ngại tinh thần (ngũ cái), ít ra là tạm thời. Năm chướng ngại đó là: tham dục (kaamacchanda), sân nhuế (vyaapaada), thụy miên (thiina and middha), trạo hối (uddhacca và kukkucca), và nghi pháp (vicikicchaa). | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Though difficult, it is well worth attempting to attain jhaana by regular and ardent practice of samatha bhaavanaa, i.e., concentration-meditation. Even if we do not reach the first stage of jhaana, even a brief elimination of the five mental hindrances will give us a taste of a happiness which far surpasses that derived from the senses. When restlessness, anxiety and worry try to overwhelm us in our daily lives we will benefit by sitting for a period and developing concentration. We will realize that nothing is more satisfying than the ability to keep a check on the frivolous, fickle mind. |
Dù khó, đạt được cảnh giới thiền thật đáng cho ta nỗ lực tu tập thiền định samatha bhaavanaa thường xuyên với quyết tâm. Ngay cả khi ta không đạt được cảnh thiền thứ nhứt, ngay cả một thóang lọai bỏ ngũ cái sẽ cho ta hương vị của hạnh phúc vượt xa hơn biết bao với hoan lạc từ các giác quan. Khi xao động, lo âu, buồn rầu (trạo hối) cố vây phủ chúng ta trong cuộc sống hằng ngày chúng ta sẽ có được lợi lạc ngồi xuống trong một khỏang thời gian để tu tập thiền. Chúng ta sẽ nhận ra rằng không ǵ vui sướng hơn là cầm cương được tâm viên ư mă. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
Lokuttara cittasThe word lokuttara is derived from loka and uttara. In this context loka refers to the five aggregates; uttara means beyond. Thus lokuttara applies to those states of consciousness that transcend the world of mind and body, i.e., they are supra-mundane. |
Từ lokuttara có gốc từ từ loka và uttara. Trong văn cảnh này loka chỉ ngũ uẩn; uttara có nghĩa vượt lên trên. Do đó lokuttara chỉ cho các trạng thái tâm vượt lên trên thế giới cũa tâm và thân, tức là siêu thế gian. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
These states of supra-mundane consciousness are possessed by those who have developed insight into the three aspects of existence — impermanence, unsatisfactoriness, and no-self. As a result of this insight, such a person passes beyond the level of a worldling (puthujjana) and becomes a Noble One (ariya puggala). With this transformation there is a radical change in the person's life and nature because a determinate number of defilements are totally eradicated, never to arise again. These defilements go to form the ten fetters (sa.myojanaa) that bind a person down to the wheel of existence. They are eradicated in stages as one becomes, in succession, a stream-winner (sotaapanna), once-returner (sakadaagaamii), non-returner (anaagaami) and arahant. We shall refer to these states of supra-mundane consciousness again when we discuss nibbaana. |
Các tâm siêu thế này có được ở những ai phát triển được minh kiến đối với ba khía cạnh của đời sống — vô thường, khổ, và vô ngă. Do hiệu năng của minh kiến này mà người đó vượt lên trên tầm mức thế gian (puthujjana) và trở thành một Bậc Thánh (ariya puggala). Với sự chuyển hóa này có một sự thay đổi tận gốc trong đời sống và bản chất của người đó bởi v́ con số mang tính quyết định của ô nhiễm ḥan ṭan bị lọai trừ không bao giờ sanh khởi trở lại. Những ô nhiễm này tạo nên mười phiền năo (sa.myojanaa) trói buộc con người vào bánh xe sinh tồn. Chúng bị quét sạch trong những giai đọan khi người ta trở thành, trong sự liên tục, tu đà hườn (dự lưu) (sotaapanna), tư đà hàm (nhứt lai) (sakadaagaamii), a na hàm (bất lai) (anaagaami) và a la hán . Chúng sẽ trở lại đề cập đến các tâm siêu thế này khi chúng ta bàn về niết bàn. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
|
The second reality or paramattha dhamma is the cetasikas. The cetasikas are the mental factors or concomitants that arise and perish together with consciousness (citta), sharing its object and basis.
Chân lư thứ hai hay là paramattha dhamma là các tâm sở. Các tâm sở là các yếu tố hoặc các đồng hành tinh thần khởi sanh và biến mất cùng với tâm (citta), có cùng đối tượng và cơ sở. The Abhidhamma lists 52 kinds of cetasikas. One is feeling (vedanaa), another is perception (saññaa). The remaining 50 are grouped together under the term sa"nkhaaraa.
Vi Diệu Pháp liệt kê 52 lọai tâm sở. Một cái là cảm thọ (vedanaa), cái kia là thức (saññaa). Năm mươi cái c̣n lại được phân nhóm dưới các thuật ngữ (điều kiện thiết yếu) sa"nkhaaraa. In the Abhidhamma context the word "feeling" signifies the affective experience of an object; it does not imply emotion, which comes under a different heading. Feeling is associated with every type of consciousness. Like the citta itself it is of momentary duration, arising and perishing in an instant. This arising and perishing occur in rapid succession, so much so that they create an illusion of compactness and stability obscuring the momentariness. But the momentariness can be experienced through the practice of mindfulness. It will then be realized that there is no self or agent that experiences the feeling. There is only the arising and disappearing of an impersonal process. As long as we do not see how this impersonal process occurs we will be led to believe that feeling is the self, or the self possesses feeling, or feeling is in the self, or the self is in feeling. These beliefs keep us bound to suffering — to sorrow, lamentation, pain, grief, and despair.
Trong văn cảnh của Vi Diệu Pháp từ "thọ" chỉ sự nhận biết cảm xúc một đối tượng; nó không chỉ cảm xúc, thuộc một tiêu đề khác. Thọ kết hợp cùng với mọi lọai tâm. Cũng như chính bản thân tâm nó có tính chất phù du, khởi sanh và biến mất ngay. Sự sanh và diệt này diễn ra tiếp nối nhanh chóng, nhiều cho đến nỗi chúng tạo ra ảo giác dồn nén và bền vững xóa nḥa bản chất phù du của chúng. Nhưng sự phù du của nó có thể được thấu hiểu thông qua thực hành chánh niệm. Lúc ấy nó sẽ được nhận ra rằng không có ngă, hay người biết cảm thọ. Chỉ có sự sanh và diệt của một tiến tŕnh vô ngă. Chừng nào mà chúng ta không thấy được cách mà tiến tŕnh này diễn ra chúng ta sẽ bị hướng đến chỗ tin rằng cảm thọ là ngă, hoặc ngă sở hữu cảm thọ hoặc cảm thọ ở trong ngă hoặc ngă ở trong cảm thọ. Những tin tưởng như vậy làm cho chúng ta bị ràng buộc vào khổ — vào buồn rầu, than khóc, đớn đau, sầu khổ và tuyệt vọng. Feelings are commonly classified into three types: pleasant, unpleasant, and neutral. Pleasant feeling, in the absence of wise consideration (yoniso manasikaara), leads to attachment, unpleasant feeling to repugnance, and neutral feeling to ignorance. A pleasant feeling is pleasant while it lasts but when it changes, as it must, it yields to displeasure — i.e., an unpleasant feeling. An unpleasant feeling is unpleasant while it lasts, but when it passes a shallow satisfaction arises which misleads the average person into thinking: "Now, I am all right." A neutral feeling, in the absence of wise attention, can foster ignorance and a callous indifference to one's own and others' welfare. If, however, one has developed wholesome awareness based on insight, when a neutral feeling arises the mind remains in equanimity, undisturbed in all circumstances. This balanced state of mind is one of the highest forms of happiness.
Các thọ thường được phân làm ba lọai: lạc, khổ và trung tính - không lạc, không khổ. Lạc thọ, thiếu vắng sự xem xét khôn ngoan (yoniso manasikaara), dẫn đến tham ái, khổ thọ đưa đến chán ghét, và thọ trung tính dẫn đến vô minh. Một lạc thọ là lạc khi nó kéo dài nhưng khi nó thay đổi, như là nó ắt phải, nó tạo ra phiền muộn — tức là một khổ thọ. Một khổ thọ là khổ khi nó kéo dài, nhưng khi nó qua đi th́ một sự hài ḷng cạn cợt khởi sanh đánh lạc hướng một người phàm phu vào lối suy nghĩ rằng: "Nào, bây giờ th́ ḿnh ổn rồi." Một thọ trung tính, khi thiếu vắng sự chú tâm ngôn ngoan sẽ làm tăng thêm sự vô minh và sự thờ ơ vô tâm với sự an nguy của chính ḿnh và người khác. Tuy nhiên, nếu người ta phát triển đựơc sự tỉnh thức thiện xảo dựa vào minh kiến, khi một thọ trung tính khởi sanh th́ tâm vẫn vững vàng, không dao động trong mọi ḥan cảnh. Trạng thái b́nh ổn của tâm này là một trong những h́nh thức cao nhứt của hạnh phúc. Relevant to the Abhidhamma, two other classifications of vedanaa must be mentioned.
Theo Vi Diệu Pháp, hai cách phân lọai thọ (vedanaa) khác phải được đề cập.
Perception is awareness of an object's distinctive features. It becomes six-fold in relation to the five physical sense objects (color, sound, smell, taste, touch), and mental objects. It is sañña that enables us to recognize an object previously perceived.
Tưởng là sự nhận biết các đặc điểm phân biệt của một đối tượng. Có sáu tưởng trong mối quan hệ với các đối tượng hữu h́nh của ngũ căn (sắc, thanh, hương, vị, xúc), và các đối tượng tinh thần. Nó là sañña làm cho ta có thể nhận biết một đối tượng trước khi nó được nhận thức. As in the case of feeling, perception is an impersonal process which arises and perishes in a moment. If the momentariness and impersonal nature of perception are not appreciated by insight, here again, wrong conceptions will result that perception is the self, or the self possesses perception, or perception is in the self, or the self is in perception.
Cũng như trong trường hợp của thọ, tưởng là một tiến tŕnh vô ngă sinh diệt trong khỏanh khắc.Nếu tính chất phù du và bản chất vô ngă của tưởng không được nhận biết bằng minh kiến,th́ ở đây một lần nữa, các tà niệm sẽ dẫn đến kết quả cho là tưởng là ngă, hoặc ngă sở hữu tưởng, hoặc tưởng ở trong ngă, hoặc ngă ở trong tưởng. There are four perversions (vipallaasa) that distort perception — the perversions of regarding:
Có bốn tà kiến(vipallaasa) làm lệch lạc tưởng — những là cho rằng:
These distortions, born of ignorance, increase craving, grasping, and suffering. Only by the practice of mindfulness can one see through these perversions and avoid them.
Những lệch lạc này sinh ra do vô minh, ái dục, chấp thủ và khổ. Chỉ bằng cách thực hành chánh niệm người ta mới có thể nh́n thấu qua những lệch lạc này và tránh chúng. Perception and memory. Memory occurs not through a single factor but through a complex process in which perception plays the most important role. When the mind first cognizes an object through the senses, perception "picks out" the object's distinctive mark. When the same object is met with on a subsequent occasion, perception again notices that its distinctive mark is identical with the previous one. It "grasps" the identity of the distinctive marks. This "grasping" is a complex series of thought processes, one of which connects the present object with the previous one and another attaches to the present object the previous one's name. Memory will be good if this "grasping" functions well, and "grasping" will function well if the initial "picking out" of the object's distinctive marks was clear, not obscured by irrelevant thoughts. Clear perception comes through attention. As the Buddha says: "In what is seen there must be just the seen, in what is heard there must be just the heard, in what is sensed there must be just the sensed, in what is thought there must be just the thought."
Tưởng và trí nhớ. Trí nhớ xuất hiện không phải qua một yếu tố đơn độc mà qua một tiến tŕnh phức tạp trong đó tưởng đóng vai tṛ quan trọng nhất. Khi tâm nhận biết một đối tượng thông qua giác quan, tưởng "chon ra" dấu hiệu phân biệt đối tượng. Khi cùng đối tượng tiếp tục được gặp lại trong dịp sau, tưởng lưu ư rằng dấu hiệu phân biệt là đồng nhất với dấu hiệu trước. Nó "nắm bắt" sự đồng nhất của các dấu hiệu phân biệt đó. Sự "nắm bắt này là những chuỗi phức tạp của các quá tŕnh tâm, một trong số đó liên hệ đối tượng hiện tại với đối tượng trước kia và một quá tŕnh khác gắn tên của đối tượng trước kia cho đối tượng hiện tại. Trí nhớ sẽ là tốt nếu chức năng "nắm bắt" này tốt, và sự "năm bắt" sẽ thực hiện chức năng tốt nếu sự "chọn ra" ban đầu các dấu hiệu phân biệt của đối tượng là rơ ràng, không mơ hồ do các niệm (ư tưởng) không phù hợp. Tưởng trong sáng thông qua chú tâm. Như đức Phật dạy: "Trong cái ǵ được thấy phải chỉ có cái được thấy, trong cái ǵ được nghe phải chỉ có cái được nghe, trong cái ǵ được cảm thấy phải chỉ có cái được cảm thấy, trong cái ǵ được suy nghĩ phải chỉ có cái được suy nghĩ." Sa"nkhaaraa is a collective term for the other fifty cetasikas. These fall into four groups:
Sa"nkhaaraa là một danh từ tập hợp chỉ 50 tâm sở c̣n lại. Những tâm sở này chia làm bốn nhóm:
The universal mental factors. There are seven mental factors which are called universals because they are common to every state of consciousness. Two are feeling and perception mentioned above. The order in which the other five are given has no sequential significance as they all co-exist in any state of consciousness. They are:
Các biến hành tâm sở. Có bảy tâm sở gọi là biến hành tâm sở bởi v́ chúng phổ biến cho mọi tâm. Hai tâm sở thọ và tưởng đă nói ở trên. Trật tự của năm cái c̣n lại được nêu lên không có ư nghĩa theo chuỗi bởi v́ nó cùng tổn tại trong bất cứ tâm nào. Chúng là:
The particular mental factors. Six mental factors are called particulars for, unlike the universals, they need not exist in every citta. The six are:
Các biệt cảnh tâm sở. Sáu tâm sở được gọi là biệt cảnh v́, không giống như những biến hành tâm sở, chúng không cần hiện diện trong mỗi tâm. Sáu tâm sở đó là:
The universals and particulars are, in themselves, ethically indeterminate but become wholesome, unwholesome, or neither, depending on the state of consciousness in which they occur.
Bản thân các biến hành tâm sở và biệt cảnh tâm sở không có tính quyết định về mặt đạo đức nhưng trở nên thiện, bất thiện, hoặc không thiện, không bất thiện tùy vào tâm mà trong đó chúng xuất hiện. The unwholesome mental factors. There are fourteen unwholesome mental factors. The first four listed below are present in all unwholesome states of consciousness. The others are variable.
Các tâm sở bất thiện. Có 14 tâm sở bất thiện. Bốn cái đầu được nêu dưới dây xuất hiện trong tất cả các tâm bất thiện. Những cái khác có tính biến đổi.
The beautiful mental factors. There are twenty-five beautiful factors. Nineteen are common to all beautiful thoughts, six are variable. The latter are the three "abstinence factors," two "illimitables," and the wisdom factor.
Các tịnh quang tâm sở. Có 25 tịnh quang tâm sở. Mười chín là chung cho tất cả các tâm thiện, sáu biến đổi. Các cái sau là ba " tiết chế," hai " vô lượng," and và huệ căn tâm sở. The common beautiful factors (sobhanaa saadhaaranaa) are as follows:
Các biến hành tịnh quang tâm sở (sobhanaa saadhaaranaa) như sau:
The abstinence factors (virati) restrain a person from committing evil acts. These are three in number:
Các tâm sở tiết chế (virati) giữ cho một người khỏi phạm ác nghiệp. Có ba:
The illimitable factors (appamaññaa) are compassion and sympathetic joy; they are called illimitable because they are boundless and extend to all living beings.
Các tâm sở vô lượng (appamaññaa) là bi và hỷ; chúng được gọi là vô lượng v́ chúng không có giới hạn và trải rộng cho mọi chúng sanh.
Compassion and sympathetic joy, together with goodwill and equanimity, form the Four Sublime Abodes (brahma vihaara). Goodwill and equanimity were mentioned under the common beautiful factors.
Bi và hỷ cùng với từ và xả, làm nên Tứ Phạm Hạnh (brahma vihaara). Từ và xả đă đựơc đề cập dưới các tịnh quang tâm sở biến hành.
It is important to know the unwholesome and wholesome mental factors that operate in our minds. If we do not know them for what they are we will not be able to recognize them when they arise. But when our insight develops, we can understand that it is not a "self" that commits unwholesome and wholesome acts but just these mental factors.
Điều quan trọng là hiểu các tâm sở thiện và bất thiện họat động trong tâm chúng ta. Nếu ta không thật sự biết chúng như chính chúng th́ chúng ta sẽ không thể nhận ra chúng khi chúng khởi sanh. Nhưng khi minh kiến của chúng ta phát triển, chúng ta có thể hiểu nó không phải là "ngă" gây ra những nghiệp bất thiện và thiện mà chỉ là những tâm sở mà thôi. In Dhamma practice our aim should be to get rid of the unwholesome factors and cultivate the wholesome ones. This has been outlined by the Buddha under Right Effort (sammaa vaayaama), the fifth factor of the Noble Eightfold Path, in terms of four practices. The disciple rouses his will, makes an effort, stirs up energy, exerts the mind, and strives to:
Trong việc tu tập Giáo Pháp mục đích của chúng ta phải là lọai bỏ những tâm sở bất thiện và vun bồi những tân sở thiện. Điều này đă được đức Phật vạch ra dưới Chánh Tinh Tấn (sammaa vaayaama), yếu tố thứ năm của Bát Chánh Đạo, trong điều kiện của bốn tu tập. Đệ tử khơi động ư chí, nỗ lực, khơi dậy nghị lực, vân dụng tâm, và phấn đấu để:
Regarding the unwholesome thoughts, to prevent them from arising or to abandon them as soon as they have arisen, we have to be mindful of the state of the mind, i.e., whether the mind is with greed, hate and delusion or not. By the constant practice of mindfulness we can learn to catch the unwholesome mental factors as soon as they arise. This mere recognition is often enough to prevent them from gaining ground, from leading to action by deed, word or thought. If this is done on a regular basis, these unwholesome thoughts can become attenuated and eventually cease.
Đối với những tâm bất thiện, để ngăn ngừa không cho chúng khởi sanh hoặc buông bỏ chúng ngay khi chúng vừa khởi sanh, chúng ta phải chú tâm đến các trạng thái của tâm, tức là, tâm có tham, sân, si hay không . Bằng cách thường xuyên tu tập niệm chúng ta có thể học được cách nắm bắt những tâm sở bất thiện vừa ngay khi chúng khởi sanh. Chỉ sự nhận biết này thôi thường đủ để ngăn chận chúng bắt rễ, dẫn đến nghiệp bằng thân, khẩu hay ư. Nếu điều này được thực hiện thường xuyên, những tâm bất thiện này có thể lắng dịu và cuối cùng chấm dứt. Sometimes, however, unwholesome thoughts keep recurring and mere observation of the state of the mind may not be enough to deal with them. In such situations there are five methods proposed by the Buddha, described in the 20th Middle Length Discourse (Majjhima Nikaaya), MN 20. These are, briefly, as follows:
Tuy nhiên, đôi khi những tâm bất thiện này cứ tái hiện và chỉ sự quan sát theo dơi trạng thái cuả tâm mà thôi có thể không đủ để ứng phó với chúng. Trong những t́nh huống như thế, có năm phương pháp do đức Phật đưa ra, được miêu tả trong 20th Trung Bộ Kinh - Middle Length Discourse (Majjhima Nikaaya), MN 20. Tóm tắt, đó là, như sau:
Meditation is an important aspect of Buddhist practice. There are forty subjects of samaadhi meditation to suit different individual temperaments and also many types of insight meditation. To select a suitable subject of meditation it is best to seek the help of a competent teacher. If such a teacher is not available, then one has to make a sincere and honest search of one's temperament and character and find guidance in a standard book on meditation. A few examples are given below:
Thiền định là một mặt quan trong tu Phật. Có 40 đề mục samaadhi thiền định khế hợp với khí chất của những chúng sanh khác nhau và cũng có nhiều lọai thiền định minh sát. Để chọn một đề mục thiền định phù hợp, tốt nhất là nhờ sự giúp đỡ của một vị thấy có năng lực. Nếu một vị thầy như vậy không có th́ ta phải thành tâm thật ư t́m ra khí chất và bản tính của ḿnh và t́m ra sự hướng dẫn trong một quyển sách thiền định chuẩn mực. Dưới đây là vài ví dụ:
The ultimate aim should be to develop wisdom (pañña). This is achieved by insight meditation (vipassanaa bhaavanaa), which leads to fully comprehending by direct experience the three characteristics of existence — impermanence, unsatisfactoriness, and selflessness.
Mục đích tối hậu phải là phát sanh tuệ (pañña). Điều này đạt được bằng thiền minh sát (vipassanaa bhaavanaa), dẫn đến thấu hiều ḥan ṭan bằng kinh nghiệm trực tiếp ba tính chất của hiện hữu — vô thường, khổ và vô ngă. |