NHẤT NGUYÊN LUẬN
&
THỂ CÁCH TRI NHẬN TÁNH
KHÔNG
Phổ Nguyệt |
V. PHƯƠNG CÁCH THỂ HIỆN THỰC TẠI
Đời người là cả một sự giao lưu hổ tương các
hoạt động không ngừng nghỉ giữa thân và tâm để được sống an vui và hạnh
phúc. Biết rằng Vật lư và sinh lư ảnh hưởng đến tâm lư, cho nên con người
cần phải thỏa măn những nhu cầu cần thiết để ổn định sự sống b́nh thường.
Thân xác là sự duyên hợp của đất nước gió lửa nói chung, thành h́nh là do sự
trao đổi giữa năng lượng và vật chất được tạm thời ổn định. Vật lư là lực
quán tính của sự vật bao gồm sự chuyển động và vật chất. Ngay cả sinh lư con
người cũng bị hệ thống cân bằng giữa năng lượng và vật chất chi phối. Thân
xác cần phải tiêu thụ thức ăn để nuôi dưỡng nó và duy tŕ sự sinh hoạt hàng
ngày. Sự tồn tại của thân xác được coi là an lành khỏe mạnh khi hệ thống
giao lưu giữa năng lượng và vật chất bên ngoài tạm thời ổn định. Con người
khi sanh ra (Sanh), trưởng thành (Thành) tới 18 - 20 tuổi và sống trong thời
gian (Trụ) từ 20 đến 55 hay 60 tuổi; từ 60 tuổi trở về sau già dần (Hoại)
đến Chết (Diệt). Cả một chuổi sống tạm thời như vậy chẳng lẻ không c̣n cái
ǵ làm cho chúng ta phải nghĩ đến ngoài thân xác hay sao? Những cảm giác, ư
thức, tri giác hay tư duy phải lệ thuộc vào thân xác mà Thân xác và Tinh
thần đồng hiện hữu trong một con người. Tinh thần minh mẩn trong một thể xác
khỏe mạnh. Vậy vai tṛ của thể xác rất quan trọng trong sự phát triển tinh
thần. Nói một cách khác, t́nh trạng sức khỏe của xác thân hay sinh- vật- lư
ảnh hưởng đến tâm lư con người. Con người muốn đạt đến hạnh phúc tuyệt đối
là thân tâm được thường an lạc, trước hết là phải rèn luyện thân xác cho
khỏe mạnh, sau mới trao dồi trí tuệ.
A.-Rèn Luyện Thân Xác
Để rèn luyện thân thể khỏe mạnh, giảm trừ bệnh tật, có rất nhiều cách,
tựu trung ở hai phương diện sau đây:
1). Ăn uống
Thân xác được tồn tại nhờ ở sự ăn uống hàng ngày. Những tế bào trong thân
thể được sống c̣n là nhờ có sự trao đổi thức ăn vào trong cơ thể để nuôi
dưỡng. Hoạt động của các cơ quan ngũ tạng có tầm quan trong hơn hết trong
việc trao đổi thức ăn là sự tiêu hóa và bài tiết cùng sự tuần hoàn của máu
huyết. Phương pháp dinh dưỡng là vai tṛ quan trọng trong sự sống. Ăn như
thế nào? và thức ăn nào cần thiết thích hợp của riêng mỗi người? Đó là tự
mỗi cá nhân phải lo liệu, có thể qua học hỏi thêm hoặc tùy hoàn cảnh mà
thích ứng. Thức ăn được tinh khiết là một dinh dưỡng tốt cho ḍng tâm thức
và là giảm bớt ngiệp thức kết tụ ở nội tâm. Đó là sống theo Chánh Mạng.
2). Hoạt động
Hoạt động là một nỗ lực mà con người cần ra sức.Trước hết, hoạt động nghề
nghiệp. Trong sự sống ở xă hội nào cũng vậy, mọi người ai ai cũng phải làm
việc để kiếm tiền nuôi sống bản thân. Làm việc ǵ? Làm như thế nào là do khả
năng và hoàn cảnh cá biệt của từng người. Kế đến, hoạt động hay vận động
thân thể là cần thiết để sự chuyển động hay giao lưu giữa năng lượng và vật
chất (thức ăn) dễ dàng trao đổi để tạo sự cân bằng hệ thống dinh dưỡng cho
thân thể.
Vận động thân thể th́ có nhiều cách. Đi bộ, tập thể dục, chơi thể thao,
học vơ để kiện thân, tập các tư thế Haltha Yoga vv...Hoạt động nghề nghiệp
và những hành vi tư cách con người hay những hành động cử chỉ đều có ảnh
hưởng đến Chánh Nghiệp. Trong thân c̣n có miệng lưỡi, ngoài việc ăn uống và
hoạt động c̣n có lời nói là biểu hiện của tư tưởng, hành động và t́nh cảm.
Chánh ngữ là những lời nói trung thực hài ḥa và lợi ích cho mọi người.
B). Bồi Dưỡng T́nh Cảm
T́nh cảm, một mặt phát xuất từ vận động và sinh lư, một mặt do từ kho kư
ức, là diễn tŕnh tác động hổ tương giữa tâm lư và sinh lư.Sự vận động, ăn
uống điều ḥa và sinh lư cân bằng là chỉ dấu của tâm lư b́nh thường. Những
cảm thọ lâu đời chấp chứa trong kư ức và tàng thức cũng như ảnh hưởng của
vận động và sinh lư là những phát khởi t́nh cảm. T́nh cảm rất cần thiết và
cần phải thể hiện trong nếp sống đạo đức của con người.
Trong thập nhị nhân duyên là dây móc xích trói buộc con người.: Vô minh,
Hành, Thức, Danh Sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Ái, Thủ, Hữu, Sinh, Lăo, Tử. Cắt
đứt được hai móc xích nối giữa Thọ và Ái là ṿng nhân duyên không c̣n nữa
tức sanh tử không c̣n và khổ đau được giải thoát. Khổ đau là hệ quả của thất
t́nh lục dục khi được giải thoát th́ tâm được an lạc. Sự sống con người liên
hệ với mọi người và hoàn cảnh xung quanh, nên khi ta giải thóat khổ đau của
chính ḿnh th́ phải t́m cách giải thoát khổ đau cho kẻ khác. Nếu như ta
không làm việc đó, tức là ích kỷ, th́ mọi sự phiền năo của mọi người xung
quanh cũng ảnh hưởng đến ta. Như vậy, t́nh đồng bào nghĩa gia tộc, ḷng
thương yêu con người, mọi loài mọi vật, nói chung là chúng sinh là một thứ
t́nh cảm cao thượng.
Ḷng thương yêu và giúp đở mọi người, từ tốn, khoan dung độ lượng, nhẫn
nhục làm cho ta giảm bớt tham, sân, si, nghi, mạn ác kiến. Thực hành tứ vô
lượng tâm: tù, bi, hỷ, xả là cao cả hơn hết. Khi đă giải thoát được khổ đau,
tức là tám gió (Bát phong: Lợi hại, Vui buồn, Vinh nhục, Khen chê) không
động, ḍng tâm thức lúc bấy giờ không c̣n vẩn đục và t́nh cảm trở nên an
lạc.
C). Trau Dồi Trí Tuệ
Trau dồi trí tuệ-- nói theo thế tục, gọi là học hỏi ở trong trường hay
ngoài đời để tư tưởng ngày thêm phát triển, nói theo đạo pháp, đó là thanh
lọc ḍng tâm thức vốn chứa những mầm móng của vô minh-- là hành tŕnh tu
dưỡng thân tâm theo Bát Chánh Đạo.
Tinh túy của trau dồi Trí Tuệ là thanh lọc ḍng tâm thức luôn trôi chảy
và giảm trừ nghiệp chướng trong Tàng Thức đă chất chứa nhiều đời nhiều kiếp.
Đó là một hành động thực hiện phương pháp chuyển Thức (Vô Minh: sự tối tăm)
thành Trí (Giác Ngộ: sự sáng suốt).
Khi Ư Tác Động với đối tượng sản xuất Tri Giác, là ḍng Tâm Thức luôn
trôi chảy. Nhận thức Tri Giác nầy do Ư Tác Năng gọi là Tri Thức hay Tư Duy.
Nếu không biết Chánh Tư Duy hay không biết thanh lọc th́ ḍng tri thức ấy
biến thành Tri Thức vụn vặt hay Tư Tưởng vẩn vơ. Thanh lọc bằng cách nào?
Chánh Tư Duy là sao?
Thật ra Chánh Tư Duy được thể hiện bằng sự nối tiếp Chánh Kiến. Thấy thực
tướng của vạn hữu là vấn đề của Kiến Đại, mà nắm bắt được thực tướng mới là
công việc của Chánh Tư Duy. Thí dụ, Mắt thấy một cái b́nh, thấy biết được
cái b́nh nầy là giả lập và huyển hóa, không thật theo thời không, cái thấy
biết đó là Chánh Kiến. Muốn nắm bắt thực tướng của cái b́nh, tâm trực nhận
nơi thể không của cái b́nh là Chánh Tư Duy. Chánh kiến là thấy biết cái b́nh
là thực tại gỉa lập. Chánh tư duy là nhận biết cái ḿnh thấy biết đó, nghĩa
là Biết cái ḿnh biết hay biết tánh không của cái b́nh. Vậy khi chúng ta
xuất Ư Tác năng ra khỏi kho chứa (Tàng thức) đúng cách th́ nó giảm trừ
nghiệp thức hay là nó soi ṃn những chũng tử trong tàng thức. Nghiệp thức là
những tư tưởng vẩn vơ, ḍng tâm thức bất an luôn trôi chảy; ḍng tâm thức
khuấy động như vậy th́ nó luôn vẩn đục. Thanh lọc tri thức vụn vặt nầy bằng
thể hiện Giác Trí Tuệ, th́ ḍng tâm thức trở nên trong sáng và nghiệp thức
(cặn bă) từ đó giảm dần.
Thiền, Chánh Tư Duy, hay Chánh Niệm, cả Bát Chánh Đạo là con đường giảm
trừ nghiệp thức cũ mà c̣n tạo ra những ḍng tâm thể trong sáng ở tương lai.
Vậy ngay hiện tại, chúng ta hành Thiền là bài tập để diệt dần nghiệp chũng
quá khứ và tạo nhân tốt cho tương lai v́ hiện tại tâm thể trong sáng không
vẩn đục, tâm được an định, không có nhân tố xấu trong tâm th́ quả sẽ giải
thoát cảnh phiền năo khổ đau, mà đạt sự an lạc tự tại.
1). Đối Với Thế Tục.
Bài học ở trường, gia đ́nh, xă hội, trường đời được phổ truyền những tiêu
chuẩn chân lư đạo đức làm kim chỉ nam cho mọi người noi theo mà hành sử hầu
tránh bất an trong tâm (phiền năo khổ đau) để được sự sống an vui hạnh phúc.
Hành động ngôn ngữ tư tưởng được xem là Thiện hay Ác là do những động cơ
thúc đẩy tốt hay xấu và kết quả hành động đó đem đến hạnh phúc hay đau khổ.
Người ta có thể gọi đó là đạo đức hay luân lư nhưng thật ra chỉ là những cơ
chế của hạnh phúc và đau khổ. Hạnh phúc hay đau khổ thường dính mắc với cái
Ngă. Cái Ngă được hiểu là không thật có, th́ không cần chấp nhận cái ǵ đang
đến, mà là để hành động tự do hơn, không c̣n bị cái Tôi ràng buộc, một cái
Tôi là đầu mối của một chuỗi dài thương và ghét. Thoát ra khỏi sự vị ngă sẽ
cho ta tự do hành động hơn. Quá khứ đă qua rồi nhưng tương lai th́ chưa đến.
Quan điểm của Phật tử, theo cách nói của nhà Sư Tây Tạng Matthieu, chấp nhận
hiện tại v́ lẽ cái ǵ đang xăy ra là kết quả của việc làm xưa cũ. Nhưng
tương lai th́ tùy thuộc ở hắn. Nguời thế tục không theo một tôn giáo nào th́
tuân theo nếp sống đạo đức hay luân lư của xă hội th́ cũng hợp lư hợp t́nh
để được trong ḷng thanh thản an vui và hạnh phúc, ít ra trên phương diện
h́nh thức sống thanh b́nh trong gia đ́nh và xă hội với t́nh thương yêu, ḷng
nhân ái, tính khoan dung và phải thật tâm kiên tŕ và nhịn nhục.
C̣n đối với cư sĩ, có học hiểu Phật pháp, tin vào luật nhân quả th́ nhận
thức rơ ràng sự giả danh của Tự Ngă và sự vô thường của Sự Vật, nên có cái
nh́n sâu sắc hơn. Sự Tĩnh thức của người Phật tử là b́nh tĩnh làm chủ được
cái Ngă, là sáng suốt hơn, cương quyết hơn trong hành động. - "Nó sẽ mở rộng
sự hiểu biết của chúng ta về nguyên nhân của hạnh phúc và đau khổ. Nó sẽ
giúp ta hành động đúng hơn. Sự dính mắc vào cái Ngă không làm cho chúng ta
nhận xét tốt hơn, trái lại nó làm mờ tối chúng ta. Nếu hành động của chúng
ta không sáng suốt, thiếu can đảm là v́ chúng ta là món đồ chơi của cái Ngă
nầy. Có một câu nói:" Cái nh́n của thánh nhân xa hơn trời cao, sự thấu hiểu
luật nhân quả của họ có tinh tế hơn bột ḿ." Chúng ta không chống lại được
kết quả cái ǵ chúng ta đă gieo, nhưng chúng ta có thể xây dựng tương lai
bằng cách biết phân biệt cái ǵ đưa đến tai họa và cái ǵ làm ta thoát ra
được. Đối với người Phật tử, Hạnh phúc là cảm tưởng hiện thực hóa cái tiềm
lực có sẳn ở mỗi con người và hiểu ra được bản thể tối hậu của tâm ḿnh. Với
một kẻ biết t́m cho đời ḿnh một ư nghĩa, mỗi giây phút là một mũi tên bay
đến mục tiêu. Nếu không biết đem lại một ư nghĩa cho cuộc đời th́ sẽ rơi vào
thụ động rồi sinh ra thất vọng cuối cùng có thể dẫn đến tự vẫn. Hạnh phúc dĩ
nhiên là cần đến sự hiểu biết. Không có sự hiểu biết th́ không làm sao chữa
lành được nguyên nhân gây ra đau khổ là sự bất măn triền miên luôn luôn dằn
vặt chúng ta. Sự bất măn đó cũng nảy sinh từ chỗ chúng ta không chiến thắng
được những t́nh cảm tiêu cực như ḷng căm giận, sự ghen ghét, sự luyến ái,
tham lam, ngă mạn tất cả đều do một cái nh́n duy ngă về cuộc đời, do sự dính
mắc về cái "Tôi" quá ư là hùng mạnh. Một yếu tố cần thiết khác cho hạnh phúc
chỉ gồm ba chữ: Ḷng vị tha, t́nh yêu, và ḷng nhân ái. Làm sao chúng ta
hạnh phúc được khi quanh ta có bao người rên xiết. Hơn nữa, dù thế nào th́
hạnh phúc của chúng ta cũng dính liền chặt chẽ với hạnh phúc của kẻ khác. V́
lẽ Phật giáo chủ trương một khoa học của tâm linh, một kỹ thuật thiền định
cũng v́ nó đề cập đến những cơ chế căn bản nhất của hạnh phúc và đau khổ.
Tại sao phải tham thiền? Việc làm nhẹ đi đau khổ vật chất lại chưa đủ hay
sao? Những điều kiện sinh hoạt bên ngoài có thể thuận lợi cho sự thoải mái
của chúng ta, cho các tiện nghi đời sống, sức khỏe, tuổi thọ và ngay cho
suốt cuộc đời chúng ta. Nhưng những thứ đó không đem lại cho ta sự an lạc
nội tâm. Chính cái tâm là nguồn cội của sự thỏa măn và bất măn, hạnh phúc và
đau khổ, thành công và thất bại. Chính cái tâm quyết định thái độ chúng ta
với cuộc đời. Khi chúng ta đă quyết định theo con đường tâm linh, sau nhiều
năm tháng hành tŕ, chúng ta tự xét xem đă vượt thoát được ḷng tham, sự
kiêu căng, ghen ghét và nhất là những t́nh cảm vị ngă và vô minh là nguyên
nhân của mọi đau khổ. Tu để làm ǵ? Là để xử dụng những chân lư căn bản của
Phật giáo ngơ hầu làm hiển lộ Phật tính ở mỗi chúng ta - "(Sư Mathieu).
Tu là b́nh tĩnh làm chủ ḿnh, sáng suốt trước những phản ứng đối nghịch
tư tưởng t́nh cảm và hành động của ḿnh. Làm chủ chính ḿnh là b́nh tĩnh
quán xét phân tích nguyên nhân của Tham, Sân, Si, Nghi, Mạn và Ác kiến phát
xuất từ Vọng tưởng của cái "Tôi" chủ thể giả lập nầy. Cho nên tu là làm thế
nào không c̣n chấp vào cái Ngă th́ được tự do tự tại (tức là Năng Sở song
vong). Tu là vượt thóat màn vô minh của tâm thức (Ngă thức) luôn lăn trôi
theo trần cảnh mà chịu phiền năo khổ đau. Vượt thoát cái Thức Ngă, cái chấp
chứa những chũng tử nhân duyên chằng chịt vốn là gốc của luân hồi sanh tử,
là để đến bến bờ giác ngộ. Người Phật tử hiểu rằng ngay trong hiện tại ḿnh
sống được tĩnh thức (nhân), tâm an b́nh đă là hạnh phúc mà hạnh phúc là
thoát khỏi khổ đau, th́ quả tương lai cũng sẽ trổ cảnh tự tại an lạc như vậy
mà thôi.
2). Đối Với Tu Sĩ
Ngoài cách tu thân như người thế tục và pháp học ra, tu sĩ Phật giáo c̣n
phải giữ giới luật nghiêm túc. Thật ra giới luật chỉ là hướng dẫn thực hiện
mà tu sĩ phải có sự tự giác, thật sự thực hiện giới luật. Người tu sĩ không
những học hỏi giáo lư chuyên thâm, hành tŕ giới luật nghiêm minh mà c̣n
phải thực hành Giác Trí Tuệ hay gọi là Hành Thiền. Mục đích hành Thiền như
đă tŕnh bày nêu trên trong Pháp học.
a). Tri nhận thực tại:
+ Người tu sĩ thực hành nghiêm chỉnh Bát Chánh Đạo. Làm con người tất
nhiên là phải tu thân (nhân đạo) trước tiên, cần thiết hơn nữa là phải sống
theo Chánh Nghiệp đối với tu sĩ Phật Giáo bao gồm mọi hoạt động của thân xác
kể cả khẩu và ư là điều kiện hết sức chơn chánh không những tránh gây oan
trái, gây hại hay bất lợi cho chúng sanh, mà c̣n phải tạo phước đức cho mọi
loài. Chánh Nghiệp là hành động, cử chỉ và tư cách của tu sỉ hết sức gắng bó
với giới luật. Ngoài ra Chánh Ngữ rất ư là quan trọng đối với tu sĩ trong
sinh hoạt hàng ngày, trong tiếp xúc, đối xử hay đối thoại hoặc nói pháp mỗi
mỗi đều phải hết sức trung thực, khách quan hợp với chân lư, thành thật hài
ḥa và không hư dối. Mặt khác, thức ăn dinh dưỡng cho thân xác cần tinh
khiết là sống theo Chánh Mạng. Đó là cách tu thân theo h́nh thức bên ngoài.
+ Trong nội tâm lúc nào cũng giữ Chánh Niệm, nghĩa là không khởi vọng
niệm. Vọng niệm phát xuất từ tư tưởng vẩn vơ, ư tưởng so đo chấp trước.
Chánh Kiến là thấy biết thực trạng của vạn pháp như nó là, tức bản tánh
thực của tự tâm cũng là bản tánh thực sự của sự vật.. Chánh Tư Duy là nhận
thức thực tướng các thiện pháp. Chánh Tinh Tấn là siêng năng tu tập bất thối
chuyển. Và Chánh Định là giữ thân khẩu ư (tam nghiệp) thanh tịnh, tâm vắng
lặng tịch tĩnh.
Tri nhận thực tại giả lập là sống theo Tĩnh Thức. Tĩnh là cái Biết của
thâm tâm, Biết của Trí. Thức là cái Biết của căn trần. Vậy Tĩnh Thức là Biết
về Cảm Giác, về đói tượng. Thí dụ, thấy cái bàn. Thấy là căn, cái bàn là
trần. Thấy cái bàn làThức, Biết thấy cái bàn là Tĩnh Thức. Tri nhận (Biết)
thực tại giả lập (Thức) là Tĩnh Thức. Tĩnh thức là cái biết của Sở Tri, cái
biết về đối tượng, hay là Giác Thức.
Tri nhận thực tại tuyệt đối là sống theo Tĩnh Giác. Tĩnh là cái biết của
Trí, c̣n Giác là Tánh Biết của Cảm Giác, hay cái biết của Năng Tri, cái biết
của chủ thể. Tĩnh Giác là Biết về Tánh Ḿnh Biết. Thí dụ thấy cái bàn, Biết
tánh Thấy; nghĩa là Biết Thấy Có, khi không có cái bàn th́ Biết Thấy Không.
Tánh Thấy th́ thường hằng, cái bàn th́ vô thường khi có khi không. Cho nên
Tĩnh Giác là Biết lại Tánh ḿnh thấy, cũng gọi là Giác Trí.
b). Thể hiện thực tại:
Người tu sĩ muốn đạt đến giác ngộ giải thoát cho ḿnh và giác tha tất cần
thiết phải thật hành Bát Chánh Đạo. Có thể tu theo Lục Độ hoặc giả theo tất
cả lối tu không cần phân biệt Nguyên Thủy, Đại Thừa, Mật Tông, Tịnh Độ hay
Thiền Tông, miễn là làm sao cho Tâm được an định và trong sáng th́ Chân Tâm
được hiển bày. Có hai phương pháp thực hành để thành tựu cho ḍng Tâm Thức
được tích lũy thanh lọc trong sáng và an định là: một là thực hành thường
xuyên đầy đủ Bát Chánh Đạo trong trong suốt cuộc đời, hai là thực hành Thiền
Định theo thời biểu hàng ngày liên tục theo kiếp sống. Việc thanh lọc ḍng
tâm thức rất quan trọng và càng thiết yếu hơn là cần Tâm được an định. Muốn
Tâm An Định th́ có rất nhiều cách, chúng tôi giới thiệu những trích dẫn bài
khảo luận của những nhà đạo học và các bậc trí giả với những môn phái khác
nhau nhưng cùng chung một mục đích.
b.1. Pháp Môn Niệm Phật. (Tịnh Độ, HT. T.Thiện Hoa)
Phương pháp tu về Cực lạc có nhiều lối, nhưng không ngoài các pháp niệm
Phật. Đây lược kể bốn pháp niệm Phật:
b.1.1. Tŕ danh niệm Phật
Tŕ danh niệm Phật tức là giữ một ḷng nhớ nghĩ danh hiệu Phật, là niệm
"Nam mô A Di Đà Phật ". Khi đi, đứng, nằm, ngồi, ăn, uống cũng niệm. Niệm từ
buổi mai khi mới thưc dậy, cho đến buổi tối, trước khi đi ngủ. Niệm suốt cả
ngày không xen hở. Khi gần đi ngủ, ngồi xếp bằng bán già hay kiết già, chắp
tay mà nguyện rằng:
"Con tin lời của đức Phật A Di Đà, giữ một ḷng niệm danh hiệu Ngài,
nguyện đời nầy, bao nhiêu tội chướng thảy đều tiêu sạch, đến khi lâm chung
được Phật và các vị Bồ Tát, đến tiếp dẫn chúng con về Cực lạc.
b.1.2. Tham cứu niệm Phật
Pháp niệm Phật tương tợ pháp tŕ danh, nhưng mà có khác nghĩa, làm môi
miệng không động, niệm không ra tiếng, mà trong tư tưởng có niệm Phật.
Khi niệm có tiếng th́ xét tiếng ấy từ đâu mà sanh ra. Đến khi hết niệm
không nghe nữa, th́ xét tiếng ấy coi nó đi vào chỗ nào. Xét cho biết chỗ
sinh ra, chỗ trở về là đă được một phần công phu khá cao rồi, cứ giữ như thế
mà niệm, đừng cho tán loạn, th́ chắc có ngày minh tâm kiến tánh.
b.1.3. Quán tưởng niệm Phật
Là quán tưởng h́nh dung đức Phật à ở trước mắt ta, ḿnh cao một trượng
sáu thước, đứng trên hoa sen, và quán thân ta cũng ngồi trên hoa sen, chắp
tay hầu Phật. Phật thấy ta, ta thấy Phật. Quán như thss lâu ngày, đi, đứng,
nằm, ngồi, nhắm mắt, mở mắt đều thấy Phật, tức là pháp quán đă thuần thục.
b.1.4. Thật tướng niệm Phật
Thật tướng niệm Phật là niệm Phật hợp với chân tâm. V́ tất cả các pháp
đều do tâm biến hiện, bởi tâm biến hiện, nên tướng nó đều là hư vọng (phàm
sở tướng, giai thị hư vọng), duy có chân tâm là chân thật, không sinh, không
diệt; không chứ, không lai, xưa nay thanh tịnh b́nh đẳng như như, không hư
vọng, không biến diệt, cho nên mới gọi là thật tướng.
Ba pháp niệm Phật trước thuộc về Sự, có tánh cách tiệm tu và tiệm quán.
Đến pháp thứ tư nầy, là thuộc về Lư tánh, cao siêu hơn cả. Niệm Phật đến
đây, mới hoàn toàn rốt ráo, mới ngộ tánh ḿnh là Phật A Di Đà, tâm ḿnh là
cảnh Tịnh độ.
Nhưng chúng ta phải luôn luôn nhớ rằng: nhờ có Sự mới hiển ra Lư. Trớc
hết cũng do Tŕ danh niệm Phật, Quán tưởng niệm Phật v.v...nhờ lối dụng công
tu ba pháp trước, đến lúc thuần thục không c̣n thấy có ḿnh là người niệm
Phật và Phật là một vị ḿnh niệm, chỉ c̣n có một chơn tánh vừa yên lặng, vừa
chiếu soi không năng, không sở, không bỉ, không thử, không hữu, không vô.
Chỗ này chính như trong Kinh tứ Thập Nhị Chương, Phật nói: "Niệm đến chỗ vô
niệm"; hay trong kinh A Di Đà nói: "Được nhứt tâm bất loạn
b.2 Phép Niệm Phật Bằng Ba Tự Tính
b2.1- Niệm Phật bằng Tướng.
Niệm ra tiếng là thể hiện tác động của căn trần. Miệng niệm ra tiếng lục
tự, căn tai nghe tiếng lục tự. Khi ta đọc lục tự ít ra ta đă nghe tiếng lục
tự phát ra và căi tai ta nghe, đó là động tác vạch sóng giữa ḍng tâm thức
mà nắm bắt lục tự. Khi ta theo dơi tiếng lục tự là ta tập trung vào tiếng
đọc đó, ḍng tâm thức ngoài lục tự đă phủ định (tha tính không); nghĩa là
khi ta niệm Phật là mọi vọng tưởng tạm thới không quấy rối trong tâm ta, dù
không hoàn toàn ngăn chận hết tâm viên ư mă, ít ra ta đă thanh lọc phần ư
tưởng vẩn vơ và làm cho tâm bớt vọng động. Niệm Phật theo Căn Trần là lối
chủ thể tác động với đối tượng là trần là hiện tượng (tướng) ở ngoà tâm. Đối
tượng ngoài là một thực tại giả lập, nó không có tự tính và không chắn chắn,
hay thay đổi nên nó dễ bị vọng tưởng xen vào.
b.2.2.- Niệm Phật bằng Thức.
Khi ta niệm lục tự thầm trong tâm, tiếng được thầm hội chỉ làTưởng Thức.
Mặc dù tưởng thức cũng ở trong tâm được ư tác động để tưởng niệm cũng cùng ở
chung một tâm, và dầu cho tưởng thức và ư tác động chung ḍng nhất nguyên,
nhưng nó cũng chỉ là tưởng thức của lục tự là một thực tại tùy thuộc ở chung
ḍng nhất nguyên tương đối mà thôi. Tác dụng của cách niệm Phật nầy là ở chỗ
xâm nhập, tập trung và xoáy sâu trong ḍng tâm thức đang trôi chảy mà làm
nổi bật lục tự để phá tan đám mây mờ của tâm trí. Lợi ích th́ nhiều hơn niệm
bắng tiếng v́ thuận trong tứ oai nghi và khi đi ngũ.
b.2.3.- Niệm Phật bằng Trí.
Thật sự niệm Phật bằng Trí là chỉ dùng hai cách niệm Phật trên rồi chuyển
thành trí. V́ niệm Phật bằng căn trần thức là niệm thực tại giả lập, và niệm
Phật bằng thức là niệm thực tại tùy thuộc, tất cả hai phép trên chỉ niệm
theo bóng dáng (thức) của lục tự mà thôi. Từ thực tại giả lập hay tùy thưộc
ta chuyển thành trí tức thực tại tuyệt đối. Trí là cái biết của tâm nó toàn
diện và thường hằng, nhiều hơn cái biết của căn trần hay căn thức v́ bị giới
hạn ở các căn. Văy khi ta niệm lục tự ra tiếng hay niệm thầm, biết ta đang
niệm. Biết (của Trí)) cái ḿnh biết (của Căn), tức là Tri Thức Đúng (Trí)
cái tri thức sai làm của nhị nguyên (chủ khách) là đă giải thoát mọi phiền
năo khổ đau.
b.3. Pháp Niệm Chú:
Chúng ta cần t́m hiểu hai thần chú nổi tiếng nhất của Tây Tạng là thần
chú Padmasambhava, gọi là thần chú kim cang thượng sư (Vajra Guru Mantra):
OM AH HUM VAJRA GURU PADMA SIDDNI HUM, và thần chú của Quán Thế Âm, vị
Phật của ḷng bi mẫn, OM MANI PADME HUM. Hai thần chú nầy cũng như phần đông
thần chú, đều bằng phạn ngữ, cổ ngữ thiêng liêng của Ấn Độ. (Trích trong
Tạng thư Sống Chết, tr 522-528)
Thần Chú Kim Cang Thượng Sư:
Thần chú nầy được giải thích căn cứ lời giảng dạy của hai ngài Dudjom
Rinpoche và Dilgo Rinpoche.
OM AH HUM - Những âm Om Ah Hum có nghĩa ngoài, nghĩa trong và nghĩa mật.
Nhưng ở mỗi tầng như vậy, Om đều tiêu biểu cho thân. Ah lời và Hum là ư. Cả
ba âm tiêu biểu năng lực ân sủng của chư Phật để chuyển hóa thân, lời, ư.
Theo nghĩa ngoài, Om tịnh hóa mọi ác nghiệp của nhân, Ah của thân, Ah của
lời, và Hum của ư. Nhờ tịnh hóa thân, lời, ư, Om Ah Hum đem lại ân sủng của
thân, lời, ư chư Phật... Khi đọc thần chú này, là ta tịnh hóa hoàn cảnh cũng
như bản thân và những người ở trong đó.
Theo nghĩa trong, Om tịnh hóa những huyệt đạo vi tế, Ah tịnh hóa nội
phong hay khí lực, và Hum tịnh hóa chất sáng tạo.
Ở tầng mức sâu hơn, Om Ah Hum biểu trưng ba thân của Liên Hoa Bộ. Om là
Pháp thân, Phật A Di Đà, Đức Phật của ánh sáng vô lượng;Ah là Báo thân, Quán
Thế Âm, vị Phật của Tâm Đại Bi; và Hum là ứng hóa thân, Liên Hoa Sanh. Điều
nầy có nghĩa, trong trường hợp thần chú này, cả ba thân đều thể hiện trong
một vị là Padmasambhava, Liên Hoa Sanh. VAJRA GURU PADMA Vajra được ví như
kim cương, đá quí nhất và cứng nhất. Cũng như kim cương có thể cắt bất cứ
ǵ, mà chính nó th́ không ǵ phá hủy được, cũng thế trí tuệ bất nhị bất biến
của chư Phật không bao giờ bị hoại hay bị phá hủy bởi vô minh, và có thể cắt
được mọi vọng tưởng chướng ngại. Những đức tính và hoạt động thân, lời, ư
của chư Phật có thể làm lợi lạc hữu t́nh với năng lực sắc bén vô ngại như
kim cương. Và cũng như kim cương không t́ vết, năng lực sáng chói của nó
tuôn phát từ sự chứng ngộ bản chất pháp thân của thực tại, bản chất của Phật
A Di Đà.
Guru có nghĩa là sức nặng, chỉ một người tràn đầy đức tin kỳ diệu, thể
hiện trí tuệ, hiểu biết, từ bi và phương tiện thiện xăo. Cũng như vàng ṛng
là loại kim nặng nhất quí nhất, cũng thế những đức không lỗi, không thể nghĩ
bàn của bậc thầy làm cho vị ấy không ai vượt qua được, thù thắng hơn tất cả.
Guru tương đương với Báo thân và Quán Thế Âm, vị Phật của Tâm Đại Bi. Lại
nữa, về Padmasambhava (Liên Hoa Sanh) giảng dạy con đường mật tông, biểu
tượng là Kim Cương và nhờ thực hành mật tông mà Ngài đạt giác ngộ tối
thượng, cho nên Ngài được biết dưới danh hiệu là Kim Cương Thượng Sư.
Padma hoa sen, có nghĩa là Liên Hoa Bộ trong ngũ bộ và nhứt là khía cạnh
ngôn ngữ giác ngộ của chư Phật ấy. Liên hoa bộ là ḍng họ Phật mà con người
thuộc vào. V́ Padmasambhava là ứng thân trực tiếp của Phật A Di Đà, vị Phật
nguyên ủy của Liên hoa bộ, nên Ngài được gọi là Padma, hoa sen. Danh hiệu
Liên Hoa Sanh của Ngài kỳ thực ám chỉ câu chuyện Ngài sinh ra trên một đóa
sen nở. Khi những âm thanh Vajra Guru Padma đi liền nhau, th́ cũng có nghĩa
là tinh túy và ân sủng của Kiến, Thiền, Hành. Vajra nghĩa là tinh chất của
chân lư bất khả hoại, bất biến, cũng chắc như kim cương, mà chúng ta cầu
mong thực hiện được trong Kiến của chúng ta. Guru tiêu biểu tính chất ánh
sáng và sự cao quí của giác ngộ, mà ta cầu cho kiện toàn trong thiền định
của ḿnh. Padma tiêu biểu bi mẩn, mà chúng ta cầu thể hiện trong Hành Động
của chúng ta.
Vậy nhờ tụng đọc thần chú nầy mà ta nhận được ân sủng của tâm giác ngộ,
những đức cao quí và ḷng bi mẩn của Padmasambhava và tất cả chư Phật.
SIDDHI HUM Siddhi là thành tựu, đạt đến, ân sủng và chứng ngộ. Có hai thứ
thành tựu: tương đối và tuyệt đối. Nhờ nhận được ân sủng tương đối, tất cả
chướng ngại trong đời như bịnh tật tiêu trừ, mọi thứ nguyện tốt được thành
tựu, những lợi lạc như sống lâu, tiền của tăng và mọi hoàn cảnh đều được tốt
lành, giúp cho tu tiến và chứng ngộ, trạng thái thực chứng hoàn toàn của
đấng Liên Hoa Sanh, để tự lợi và lợi tha. Bởi thế nhờ nhớ đến và cầu nguyện
với những năng lực thân, lời, ư của Ngài, mà chúng ta sẽ được những ân sủng
tương đối và tuyệt đối. Siddhi Hum được xem là thâu tóm vào tất cả ân sủng,
như nam châm hút sắt. Hum tiêu biểu tâm giác ngộ của chư Phật, và là xúc tác
thiêng liêng của thần chú. Giống như tuyên bố lên quyền năng và chân lư của
thần chú: Hăy là như vậy! Ư nghĩa cốt yếu của bài là chú là: Con triệu thỉnh
Ngài, đấng Kim Cang Thượng Sư, với ân sủng của Ngài, xin hăy ban cho con
những thành tựu thế gian và xuất thế gian.
Dilgo Khientse Rinpoche giải thích:
Mười hai âm Om Ah Hum Vajra Guru Padma Siddhi Hum mang tất cả ân sủng của
mười hai bộ kinh giáo của Phật, tinh túy của tám mươi bốn ngàn pháp môn. Bởi
thế tụng một lần thần chú Kim Cang Thượng Sư cũng có phước như là đă đọc
mười hai bộ kinh điển và thực hành các pháp môn khác. Mười hai bộ kinh điển
là phương thức giải cứu chúng ta khỏi mười hai nhân duyên giam giữ chúng ta
trong ṿng sinh tử. Mười hai móc xích nầy là guồng máy của luân hồi sanh tử
làm cho luân hồi tiếp nối. Nhờ tụng mười hai âm nầy của thần chú Kim Cang
Thượng Sư, mười hai nhân duyên được tịnh hóa, tẩy sạch cấu uế của nghiệp cảm
và giải thoát sanh tử.
Mặc dù ta không thể trông thấy đức Liên Hoa Sanh, nhưng tâm giác ngộ của
Ngài đă thể hiện dưới h́nh thức thần chú này, thần chú này có được toàn thể
ân sủng của Ngài, Bởi thế khi bạn kêu Ngài bằng cách tụng đọc mười hai âm
thần chú này, th́ bạn sẽ được ân sủng và công đức vô lượng.
THẦN CHÚ CỦA ĐẠI BI TÂM: OM MANI PADME HUM.
- Tạng ngữ đọc là Om Mani Pémé hung. Thần chú nầy tiêu biểu tâm đại bi và
ân sủng của tất cả chư Phật, Bồ Tát, nhứt là ân sủng của Quán Tự Tại, vị
Phật của ḷng bi mẩn. Quán Tự Tại (hay Quán Thế Âm) là hiện thân của Phật
trong h́nh thức Báo Thân, và thần chú của Ngài được xem là tinh túy của ḷng
bi mẩn của chư Phật đối với hữu t́nh. Nếu Liên Hoa Sanh là bậc thầy quan
trọng nhất của người Tây Tạng, th́ Quán Tự Tại là vị Phật quan trọng nhứt
của họ, là vị thần hộ mạng của dân tộc nầy. Có câu nói nổi tiếng là vị Phật
của ḷng bi mẩn đă ăn sâu vào tiềm thức Tây Tạng tới nổi một hài nhi vừa
biết nói tiếng mẹ là đă biết đọc thần chú nầy, om mani padme hum.
Kalu Rinpoche viết: Một cách khác để giải thíchthần chú nầy là, Om là
tính chất của thân giác ngộ. Man Padme tiêu biểu ngữ giác ngộ; Hum tiêu biểu
ư giác ngộ. Thân ngữ ư của tất cả chư Phật được tàng ẩn trong âm thanh của
thần chú này. Thần chú này tịnh hóa những chướng ngại của thân lời ư, và đưa
tất cả hữu t́nh đến trạng thái chứng ngộ. Khi tụng thần chú này, và phối hợp
với đức tin và tinh tấn thiền định, th́ năng lực chuyển hóa của thần chú sẽ
phát sinh và tăng trưởng.Quả vậy, chúng ta có thể tịnh hóa bản thân bằng
phương pháp ấy.
Đối với những người đă quen thuộc với thần chú này, suốt đời tụng đọc với
nhiệt thành và niềm tin, th́ Tử Thi Tây Tạng, ở trong cơi Trung Ấm:
Khi âm thanh của Pháp tánh gầm thét như ngàn muôn sấm sét, nguyện cho tất
cả tiếng này trở thành âm thanh của thần chú sáu âm. Tương tự Kinh Lăng
Nghiêm cũng nói: Mầu nhiệm thay là âm thanh siêu việt của Quán Thế Âm. Đấy
là âm thanh tối sơ của vũ trụ...Đó là tiếng th́ thầm ầm ỉ của thủy triều
trầm lắng. Tiếng mầu nhiệm ấy đem lại giải thoát b́nh an cho tất cả hữu t́nh
đang kêu cứu trong cơn đau khổ, và đem lại một sự an trú thanh tịnh cho tất
cả những ai đang t́m sự thanh tịnh vô biên của niết bàn.
b.4. Pháp Thiền:
b.4.1. Thiền Tông với Thiền Tiểu Thừa (Trích trong Tự Gia Bảo, T.
Thanh Từ).
Thiền Tiểu Thừa có nhiều lối tu, đại để đều căn cứ trên h́nh thức hiện có
của thân căn, trần cảnh và tâm thức. Như pháp Thiền, tùy bệnh đói trị, người
nặng bệnh tham dục dùng quán quán bất tịnh đối trị, người nặng bệnh sân hận
dùng quán từ bi đói trị, người nhiều loạn tưởng dùng quán sổ tức đối trị,
người nhiều ngu si dùng quán nhân duyên đối trị, người nhiều tham sân si
đồng nhau dùng pháp quán Phật tam muội đối trị. Đó là y cứ tâm bệnh dùng
pháp tu quán để đối trị. Hoặc lối quán tứ đại, quán đất, quán nước, quán
gió, quán lửa, từ một đóm nhỏ cho đến trùm cả hư không. Hoặc lối quán màu
sắc, màu xanh, màu vàng, màu trắng, màu đỏ, cũng từ một điểm nhỏ cho đến đày
dẩy hư không. Hoặc trụ tâm vào một điểm trên đàu cây hương hay một ṿng tṛn
nhỏ trên vách cho đến nó phát quang. Hoặc dùng chánh quán
Tứ niệm xứ, quán Tứ đế, quán mười hai nhơn duyên v.v.. Đến kết quả được
tứ thiền, bát định và tiến lên tứ gia hạnh, thành tựu tứ quả Thanh Văn. Bởi
pháp thiền này cuộc hạn trên h́nh thức và tu chứng từng thứ bậc, nên khác
hẳn với Thiền Tông. Thiền Tông chỉ thẳng tâm người thấy tánh thành Phật,
không thuộc h́nh thức cũng không thứ bậc.(tr 390)
b.4.2. Thiền Nguyên Thủy hay Tiểu Thừa.
Lúc thực tập bạn có thể ngồi kiết già, hay bán già hoặc ngồi hai chân
không chồng lên nhau. Nếu thấy ngồi dưới sàn nhà khó định tâm hay làm bạn
khó chịu, bạn có thể ngồi trên ghế. Tóm lại, bạn có thể ngồi cách nào miễn
thấy thoải mái là được.
1. Bài Tập Thứ Nhất
Hăy chú tâm vào bụng. Nên nhớ là chú tâm, chứ không phải chú mắt vào
bụng. Chú tâm vào bụng bạn sẽ thấy được chuyển động phồng xẹp của bụng. Nếu
không thấy rơ được chuyển động của bụng, bạn có thể đặt hai tay lên bụng để
"cảm giác" sự phồng xẹp. Một lúc sau, bạn sẽ nhận rơ sự chuyển động vào ra
của hơi thở. Bạn hăy ghi nhận sự phồng lên khi hít vào và xẹp xuống khi thở
ra. Mọi chuyển động của bụng đều phải được ghi nhận. Từ bài tập này bạn biết
được cách chuyển động của bụng. Bạn không cần để ư đến h́nh thức của bụng mà
chỉ cần theo dơi cảm giác, sức ép do chuyển động của bụng tạo nên mà thôi.
Đối với những người mới tập thiền, đây là phương pháp rất có hiệu quả để
phát triển khả năng chú ư, định tâm và tuệ giác. Càng thực tập lâu càng thấy
sự chuyển động rơ ràng hơn. Khi tuệ giác phát triển trọn vẹn th́ ta sẽ nhận
thức được những diễn tiến liên tục của tiến tŕnh tâm-sinh-lư qua mỗi giác
quan. V́ là người sơ cơ hành thiền, sự chú ư và khả năng định tâm c̣n yếu
nên bạn sẽ thấy khó giữ tâm trên những chuyển động phồng xẹp liên tục. Do đó
bạn có thể nghĩ rằng: "Ta chẳng biết cách giữ tâm trên mọi chuyển động phồng
xẹp này". Bạn cần nhớ rơ đây là một tiến tŕnh học hỏi v́ vậy hăy yên tâm
tiếp tục hành thiền. Chuyển động phồng xẹp của bụng luôn luôn hiện hữu, v́
vậy ta không cần t́m kiếm chúng. Thực ra, những thiền sinh mới chỉ cần đơn
thuần chú tâm trên hai chuyển động phồng xẹp mà thôi nên sự thực tập cũng
không khó khăn lắm. Bạn hăy tiếp tục thực tập bài tập số một này bằng cách
chú tâm vào chuyển động phồng xẹp. Đừng bao giờ lập đi lập lại ra lời những
chữ phồng xẹp, chỉ cần niệm thầm mà thôi. Niệm thầm sẽ giúp quí bạn dễ chú
tâm vào đề mục. Nhưng nếu niệm thầm cản trở sự chú tâm của bạn, th́ bạn chỉ
ghi nhận sự chuyển động của bụng mà không cần niệm thầm cũng được. Nên thở
đều đặn tự nhiên tránh thở dài hay ngắn quá. Nhiều thiền sinh muốn thấy rơ
sự phồng xẹp nên hay thở dài hoặc thở nhanh, làm như thế sẽ khiến bạn mệt.
2. Bài Tập Thứ Hai
Trong khi thực tập quan sát sự phồng xẹp của bụng những tư tưởng khác sẽ
phát sinh làm bạn quên mất sự chú tâm. Tư tưởng, ham muốn, ư nghĩ, tưởng
tượng, v.v... sẽ xuất hiện giữa những "phồng xẹp". Bạn không nên bỏ qua
những phóng tâm hay vọng tưởng này mà phải ghi nhận từng phóng tâm một khi
chúng phát sinh.
Khi tâm bạn tưởng tượng điều ǵ, bạn phải biết ḿnh đang tưởng tượng và
ghi nhận: "tưởng-tượng, tưởng-tượng, tưởng-tượng". Khi bạn chỉ đơn thuần
nghĩ đến điều ǵ phải ghi nhận: "nghĩ, nghĩ, nghĩ". Khi bạn suy gẫm, ghi
nhận: "suy-gẫm, suy-gẫm, suy-gẫm". Khi bạn có dự định làm điều ǵ hăy ghi
nhận: "dự-định, dự-định, dự-định". Khi tâm bạn đi lang bạc không để ư đến
phồng xẹp hăy ghi nhận: "phóng-tâm, phóng-tâm, phóng-tâm". Khi tưởng tượng
hay đang đi đ?n một nơi nào phải ghi nhận: "đi, đi, đi". Khi đến th́ ghi
nhận: "đến, đến, đến". Khi nghĩ đến gặp người nào đó th́ ghi nhận: "gặp,
gặp, gặp". Khi nghĩ đến nói chuyện với ai th́ ghi nhận: "nói, nói, nói". Khi
bàn căi th́ ghi nhận: "bàn-căi, bàn-căi, bàn- căi". Khi thấy h́nh ảnh màu
sắc ghi nhận: "thấy, thấy, thấy". Mỗi một khi tâm thấy ǵ, nghĩ ǵ đều phải
ghi nhận cho đến khi chúng biến mất. Sau khi chúng biến mất ta lại chú tâm
vào sự phồng xẹp. Phải chú tâm hành tŕ đừng chểnh măng. Khi định nuốt nước
bọt phải ghi nhận: "định, định, định". Khi nuốt phải ghi nhận: "nuốt, nuốt,
nuốt". Muốn khạc nhổ, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn" rồi lại trở về sự phồng
xẹp. Nếu bạn muốn khum cổ ghi nhận: "muốn, muốn, muốn"; trong khi khum cổ
ghi nhận: "khum, khum, khum". Khi bạn định ngửng cổ lên, ghi nhận: "định,
định, định". Khi ngửng cổ lên ghi nhận: "ngửng, ngửng, ngửng". Tác động
ngửng cổ hay khum cổ phải làm từ từ.
Sau khi đă chú tâm ghi nhận mỗi một động tác đó, ta lại trở về với sự
phồng xẹp.
3. Bài Tập Thứ Ba
V́ phải liên tục thiền trong một khoảng thời gian khá dài với một tư thế
ngồi hay nằm nên bạn sẽ cảm thấy mệt và thấy mỏi tay chân. Trong trường hợp
này, bạn hăy chú tâm vào nơi mỏi mệt và ghi nhận: "mỏi-mệt, mỏi-mệt,
mỏi-mệt". Hăy ghi nhận một cách tự nhiên, không mau quá cũng không chậm quá.
Cảm giác mệt mỏi sẽ dần dần giảm đi và cuối cùng hết hẳn. Nếu sự mệt mỏi kéo
dài đến độ không chịu đựng nổi, lúc bấy giờ bạn hăy thay đổi tư thế. Tuy
nhiên đừng quên ghi nhận "muốn, muốn, muốn" trước khi thay đổi tư thế. Mỗi
một chi tiết chuyển động nhỏ đều phải được ghi nhận một cách trung thực và
thứ tự.
Nếu dự định đưa tay hay chân lên hăy ghi nhận: "dự-định, dự-định,
dự-định" trong khi đưa tay hay chân lên th́ ghi nhận: "đưa-lên, đưa-lên,
đưa-lên". Duỗi tay, chân ra; ghi nhận: "duỗi, duỗi, duỗi". Khi đặt tay
xuống, ghi nhận: "đặt, đặt, đặt". Khi tay hay chân tiếp xúc nhau ghi nhận:
"tiếp-xúc, tiếp-xúc, tiếp-xúc". Hăy thực hiện mọi động tác thật chậm để dễ
ghi nhận. Ngay khi bạn đă ở trong tư thế mới, bạn phải tiếp tục chú tâm vào
sự phồng xẹp của bụng ngay. Nếu thấy tư thế mới không thoải mái, muốn đổi tư
thế th́ cũng phải ghi nhớ như trên.
Nếu thấy ngứa một chỗ nào đó, chú tâm vào chỗ ngứa và ghi nhận: "ngứa,
ngứa, ngứa". Sự ghi nhận phải tự nhiên đừng quá mau cũng đừng quá chậm. Khi
cảm giác ngứa biến mất lại trở về với sự phồng xẹp. Nếu ngứa quá không chịu
được muốn găi, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn", rồi lại từ từ đưa tay lên, ghi
nhận: "đưa-lên, đưa-lên, đưa-lên". Khi tay đụng chỗ ngứa, ghi nhận: "đụng,
đụng, đụng". Khi găi nhè nhẹ vào chỗ ngứa, ghi nhận: "găi, găi, găi". Khi đă
ngứa, không muốn găi nữa và muốn đưa tay về, hăy ghi nhận: "đưa-về, đưa- về,
đưa-về". Khi tay trở về chỗ cũ và tiếp xúc với tay hay chân, ghi nhận:
"đụng, đụng, đụng". Rồi tiếp tục quan sát s? phồng xẹp của bụng.
Nếu thấy đau hay khó chịu, hăy chú tâm đến chỗ đau hay khó chịu đó. Hăy
ghi nhận một cách rơ ràng và chính xác mọi cảm giác phát sinh, chẳng hạn,
đau nhức, đè nặng, mệt, tê, cứng, v.v... Cần nhớ là những sự ghi nhận này
phải tự nhiên; đừng vội vă quá cũng đừng trễ quá. Cơn đau, nhức có thể chấm
dứt hay gia tăng. Khi cơn đau gia tăng cũng đừng hốt hoảng hay lo sợ ǵ cả
mà chỉ cần tiếp tục thiền và một lát sau cơn đau sẽ lắng đi. Nếu cơn đau
nhức vẫn kéo dài không thể chịu đựng nổi th́ hăy bỏ qua sự đau nhức và chú
tâm vào sự phồng xẹp.
Khi thiền của bạn tiến triển, bạn sẽ có những cảm giác đau đớn khó chịu.
Bạn có cảm giác khó thở, nghèn nghẹn, có khi như bị kim chích, thấy nhột
nhạt như có côn trùng ḅ trên thân ḿnh. Bạn cũng có thể thấy ngứa ngáy, đau
đớn như bị con ǵ cắn, bị rét run. Khi bạn ngưng thiền th́ những cảm giác
trên biến mất ngay. Khi bạn tiếp tục thiền trở lại và cứ mỗi khi bắt đầu
định tâm th́ những cảm giác khó chịu trên lại xuất hiện. Những cảm giác này
không có ǵ đáng lo ngại. Đây không phải là dấu hiệu của bệnh hoạn mà chỉ là
những cảm giác b́nh thường vẫn hiện diện trong cơ thể ta nhưng chúng bị che
lấp v́ tâm ta đang măi bận rộn với những đối tượng trước mắt. Khi thiền tiến
triển, tâm ta trở nên bén nhọn, tinh tế nên dễ dàng nhận thấy những cảm giác
này, khi mức độ thiền tiến triển hơn bạn sẽ vượt qua tất cả những chướng
ngại này. Nếu tiếp tục và kiên tŕ thiền bạn sẽ không c̣n gặp những cảm giác
khó chịu này nữa. Nếu bạn thiếu can đảm, thiếu quyết tâm và gián đoạn một
thời gian th́ bạn lại sẽ chạm trán với chúng lần nữa mỗi khi thiền của bạn
tiến triển. Nhưng nếu gặp những cảm giác khó chịu này mà bạn vẫn quyết tâm
và kiên tŕ tiếp tục hành thiền th́ bạn sẽ chinh phục được chúng và bạn sẽ
không bao giờ gặp những cảm giác khó chịu này nữa trong lúc hành thiền.
Nếu bạn dự định xoay ḿnh hăy ghi nhận: "dự-định, dự-định, dự-định". Khi
đang xoay ghi nhận: "xoay, xoay, xoay". Nhiều khi trong lúc đang hành thiền,
bạn thấy thân thể ḿnh lắc lư từ trước ra sau th́ cũng đừng sợ hăi, đừng
thích thú hay mong muốn tiếp tục lắc lư. Sự lắc lư sẽ chấm dứt nếu bạn chú
tâm vào nó và tiếp tục ghi nhận: "lắc-lư, lắc-lư, lắc-lư" cho đến khi hết
lắc lư. Nếu đă ghi nhận nhiều lần mà thân h́nh vẫn c̣n lắc lư bạn hăy dựa
vào tường hay nằm xuống một lát và vẫn tiếp tục hành thiền. Khi thân bị lay
chuyển hay run rẩy cũng chú tâm ghi nhận như trên. Khi thiền tiến triển đôi
khi bạn cũng sẽ cảm thấy rờn rợn run lên hoặc ớn lạnh ở xương sống hay toàn
thân. Đó là trạng thái phỉ lạc, một thành quả đương nhiên khi thiền được
tiến triển tốt đẹp. Khi tâm an trụ trong thiền th́ bạn rất dễ bị giật ḿnh
bởi những tiếng động nhỏ. Lư do là tâm của bạn bây giờ rất bén nhạy trước
mọi đối tượng của giác quan.
Trong lúc thiền nếu bạn cảm thấy khát nước, hăy ghi nhận cảm giác: "khát,
khát, khát". Khi muốn đứng dậy, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn" và chú tâm ghi
nhận mỗi một tác động chuẩn bị đứng dậy, rồi chú tâm vào tác động đứng và
ghi nhận: "đứng, đứng, đứng". Sau khi đứng dậy mắt bạn nh́n về phía có nước,
ghi nhận: "nh́n, nh́n, nh́n". Khi muốn đi, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn". Bắt
đầu bước từng bước, ghi nhận: "đi, đi, đi" hay "trái, phải". Bạn phải tỉnh
thức trong mọi bước đi từ lúc bắt đầu đi cho tới khi đứng lại. Khi đi tản bộ
hoặc thiền hành bạn cũng phải theo những nguyên tắc ghi nhận như trên. Hăy
cố gắng ghi nhận những bước chân qua hai tác động: "dở, đạp", "dở, đạp". Khi
bạn đă thuần thục với cách này, hăy chú tâm ghi nhận ba tác động: "dở, bước,
đạp", "dở, bước, đạp".
Khi bạn thấy hoặc đi đến chỗ để nước phải ghi nhận: "thấy, thấy, thấy"
hay "nh́n, nh́n, nh́n".
Khi dừng chân, ghi nhận: "dừng, dừng, dừng".
Khi đưa tay ra, ghi nhận: "đưa, đưa, đưa".
Khi tay đụng vào chén, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi cầm chén, ghi nhận: "cầm, cầm, cầm".
Khi thọc tay vào lu, ghi nhận: "thọc, thọc, thọc".
Khi đưa chén lên môi, ghi nhận: "đưa, đưa, đưa".
Khi chén đụng vào môi, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi cảm thấy mát, ghi nhận: "mát, mát, mát".
Khi nuốt, ghi nhận: "nuốt, nuốt, nuốt".
Khi để chén xuống ghi nhận: "để-xuống, để-xuống, để-xuống".
Khi thu tay về, ghi nhận: "thu-về, thu-về, thu-về".
Khi tḥng tay xuống, ghi nhận: "tḥng, tḥng, tḥng".
Khi tay đụng vào đùi, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi muốn quay lui, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn".
Khi quay lui, ghi nhận: "quay, quay, quay".
Khi đi, ghi nhận: "đi, đi, đi".
Khi đến nơi, muốn dừng lại, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn".
Khi dừng lại ghi nhận: "dừng, dừng, dừng".
Nếu đứng một thời gian lâu, th́ hăy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng.
Nhưng khi bạn muốn ngồi hăy ghi nhận: "muốn, muốn, muốn". Khi đi đến chỗ
ngồi, phải ghi nhận: "đi, đi, đi". Đến chỗ ngồi, ghi nhận: "đến, đến, đến".
Xoay người trước khi ngồi, ghi nhớ: "xoay, xoay, xoay". Ngồi xuống ghi nhận:
"ngồi, ngồi, ngồi". Phải ngồi xuống chầm chậm và ghi nhận mọi chuyển động
của sự ngồi. Bạn phải chú ư đến từng tác động một của tay chân khi ngồi.
Ngồi xong lại tiếp tục theo dơi sự phồng xẹp của bụng.
Khi bạn muốn nằm, ghi nhận: "muốn, muốn, muốn"; rồi lại ghi mọi tác động
của sự nằm: nghiêng người, chống tay, đặt đầu, duỗi chân, nằm... tất cả
những động tác này phải làm chầm chậm. Lúc nằm xuống rồi lại tiếp tục theo
dơi sự phồng xẹp. Trong khi nằm nếu cảm thấy đau nhức, mệt mỏi, ngứa ngáy...
Đều phải ghi nhận. Ghi nhận mọi cảm giác, suy nghĩ, ư kiến, cân nhắc, suy
xét và mọi tác động của tay chân và thân thể. Nếu thấy không c̣n cảm giác ǵ
đặc biệt đáng ghi nhận th́ hăy tiếp tục ghi nhận sự phồng xẹp. Khi buồn ngủ,
ghi nhận: buồn ngủ. Nếu bạn có đủ năng lực tập trung trong thiền, bạn có thể
vượt qua sự buồn ngủ và cảm thấy tươi tỉnh, lúc bấy giờ bạn hăy tiếp tục
theo dơi sự phồng xẹp, nếu bạn không thắng được cơn buồn ngủ hăy tiếp tục
niệm phồng xẹp cho đến khi ngủ. Giấc ngủ là sự liên tục của luồng hộ kiếp
hay tiềm thức, giống như trường hợp của tâm lúc tái sanh hay của tâm lúc
chết, cái tâm lúc này rất yếu ớt không thể nhận thức được ǵ cả... Khi bạn
thức, tâm này tiếp tục xuất hiện giữa những lúc bạn nh́n, nghe, nếm, ngửi,
xúc chạm và suy nghĩ. Nhưng tâm này xuất hiện rất yếu và không tồn tại lâu
nên khó nhận thấy. Tâm này sẽ duy tŕ liên tục khi bạn ngủ. Khi bạn thức
dậy, th́ mọi tư tưởng và mọi đối tượng sẽ được nhận thức rơ ràng liền.
Vào lúc thức giấc, bạn phải hành thiền ngay. Là thiền sinh mới v́ vậy bạn
khó có thể tỉnh thức vào những giây phút đầu tiên lúc mới thức dậy. Nhưng
bạn phải giác tỉnh ngay lúc bạn nhớ lại rằng ḿnh đang hành thiền. Chẳng hạn
lúc thức dậy, bạn nghĩ tưởng đến điều ǵ th́ phải tỉnh thức mà ghi nhận
ngay: "nghĩ-tưởng, nghĩ-tưởng, nghĩ-tưởng". Rồi tiếp tục với phồng xẹp. Khi
thức dậy bạn phải chú tâm đến những chi tiết của hoạt động cơ thể. Mọi tác
động của tay chân và thân thể phải được ghi nhận một cách tỉnh thức. Lúc
thức dậy bạn có nghĩ rằng bây giờ là mấy giờ không? Nếu nghĩ đến giờ th́
phải ghi nhận: "nghĩ, nghĩ, nghĩ". Bạn chuẩn bị rời khỏi giường ngủ hăy ghi
nhận chuẩn bị. Khi từ từ ngồi dậy phải ghi nhận: ngồi dậy. Lúc đang ở tư thế
ngồi, ghi nhận: "ngồi, ngồi, ngồi". Nếu c̣n ngồi ở giường một lúc lâu mới
đứng dậy đi th́ phải chú tâm đến phồng xẹp, tiếp theo đó. Lúc rửa mặt hay
tắm, cũng phải để tâm ghi nhận mọi chi tiết; chẳng hạn, nh́n, ngắm, duỗi,
cầm, nắm, ấm, lạnh, chà xát, v.v... Lúc trang điểm, lúc làm giường, lúc đóng
cửa, cầm nắm vật ǵ đều phải chú tâm ghi nhận theo thứ tự.
Bạn cũng chú ư từng tác động một trong lúc ăn:
Khi nh́n thức ăn ghi nhận: "nh́n, nh́n, nh́n".
Khi múc thức ăn ghi nhận: "múc, múc, múc".
Khi đưa thức ăn lên miệng ghi nhận: "đưa, đưa, đưa".
Khi thức ăn đụng môi, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi thức ăn vào đến miệng, ghi nhận: "vào, vào, vào".
Khi miệng ngậm lại, ghi nhận: "ngậm, ngậm, ngậm".
Khi bỏ tay xuống, ghi nhận: "bỏ xuống, bỏ xuống, bỏ xuống".
Khi tay đụng dĩa, ghi nhận: "đụng, đụng, đụng".
Khi nhai ghi nhận: "nhai, nhai, nhai".
Khi biết mùi vị ghi nhận: "biết, biết, biết".
Khi nuốt, ghi nhận: "nuốt, nuốt, nuốt".
Khi thực phẩm vào trong cuống họng chạm vào cuống họng, ghi nhận: "đụng,
đụng, đụng".
Hăy chú tâm theo dơi mỗi khi bạn múc một muỗng cơm cho đến khi xong bữa
ăn. Lúc mới thực hành sẽ có rất nhiều thiếu sót. Đừng ngại điều đó, sau một
thời gian kiên tŕ tập luyện, sự thiếu sót ghi nhận sẽ giảm đi. Khi mức
thiền tập của bạn tiến triển đến mức độ cao hơn bạn sẽ c̣n ghi nhận được
thêm nhiều chi tiết hơn những điều đă đề cập ở đây.
Bài Tập Thiền Hành Căn Bản
Giữa hai lần thiền tọa là khoảng thời gian từ bốn mươi đến chín mươi phút
để thiền hành. Thiền hành xen kẻ giữa thiền tọa để quân b́nh năng lực và
những yếu tố của sự định tâm, đồng thời để tránh buồn ngủ. Bạn có thể thiền
hành trong pḥng hay ngoài sân. Lúc thiền hành bạn nên đi chậm hơn lúc b́nh
thường và đi một cách tự nhiên. Trong lúc thiền hành bạn phải chú tâm vào sự
chuyển động của chân. Bạn phải chú tâm khi bàn chân phải (mặt) bắt đầu nhất
lên khỏi mặt đất, ghi nhận: dở; Khi đưa chân tới ghi nhận: bước; khi chân
đặt xuống đất, ghi nhận: đạp. Chân trái cũng làm như thế...
Cũng như lúc ngồi thiền; khi đi, mọi phóng tâm hay cảm giác phải được ghi
nhận. Chẳng hạn chợt nh́n một vật ǵ đó trong khi bạn đang đi hăy ghi nhận
tức th́: "nh́n, nh́n, nh́n", rồi trở về với những chuyển động của chân. Mặc
dầu trong khi đi những vật bạn nh́n thấy không liên quan ǵ đến thiền hành
nhưng nếu bạn vô t́nh để tâm đến nó th́ phải ghi nhận ngay: "nh́n, nh́n,
nh́n".
Khi đi đến mức cuối của đoạn đường kinh hành dĩ nhiên bạn phải trở bước
để đi ngược trở lại; lúc c̣n vài bước đến bước cuối cùng đoạn đường, bạn
phải ghi nhận: "muốn quay, muốn quay, muốn quay". Ư định muốn quay có thể
khó ghi nhận lúc ban đầu nhưng khi thiền của bạn tiến triển, bạn sẽ thấy dễ
dàng. Sau khi ghi nhận ư định bạn phải ghi nhận tất cả chi tiết của tư tưởng
và tác động liên quan đến việc quay.... ở bước cuối của con đường, bạn bắt
đầu quay ḿnh, phải ghi nhận: "quay, quay, quay", khi chân chuyển động phải
kịp thời ghi nhận dở... bước... đạp, v.v... Trong lúc quay thường v́ sự cám
dỗ của bên ngoài nên bạn có ư định muốn nh́n xem chung quanh có cái ǵ lạ
không, phải ghi nhận ngay: "dự-định, dự-định, dự-định" hay "muốn, muốn,
muốn", rồi lại chú tâm đến bước chân.
Thông thường đối với những thiền sinh mới, chú tâm đến ba giai đoạn dở,
bước và đạp rất có hiệu quả. Tuy nhiên, tùy theo khả năng của từng người,
thiền sư có thể khuyên họ nên chú ư ít hay nhiều giai đoạn hơn. Nhiều lúc
thấy sự đi chậm bất tiện, nhất là lúc đi ra ngoài khu vực hành thiền bạn có
thể đi nhanh hơn và ghi nhận: trái, phải mỗi khi chân trái hay chân phải đặt
xuống đất. Ghi nhận nhiều hay ít giai đoạn không quan trọng, điều cốt yếu là
bạn có chú tâm tỉnh thức trong từng bước đi hay không?
Thiền Mức Cao Hơn
Sau một thời gian hành thiền, định lực của bạn phát triển và bạn đă dễ
dàng theo dơi sự phồng xẹp của bụng, lúc bấy giờ bạn sẽ nhận thấy có một
thời gian, hay khoảng hở giữa hai giai đoạn phồng xẹp. Nếu bạn đang ngồi
thiền bạn hăy ghi nhận: "phồng, xẹp, ngồi". Khi ghi nhận ngồi, bạn hăy chú
tâm vào phần trên của thân. Khi bạn đang nằm thiền hăy ghi nhận: "phồng xẹp,
nằm".
Nếu bạn thấy có khoảng thời gian hở giữa phồng, xẹp, và xẹp, phồng, bạn
hăy ghi nhận: "phồng, ngồi, xẹp, ngồi". Nếu bạn đang nằm hăy ghi nhận:
"phồng, nằm, xẹp, nằm". Nếu thực hành một lát mà thấy sự ghi nhận ba hay bốn
giai đoạn như trên không dễ dàng đối với bạn, hăy trở về với hai giai đoạn
phồng, xẹp.
Trong khi chú tâm theo dơi chuyển động của cơ thể, bạn không cần phải chú
ư đến đối tượng thấy và nghe. Khi bạn có khả năng chú tâm vào chuyển động
phồng xẹp th́ bạn cũng có khả năng chú tâm vào đối tượng nghe và thấy. Tuy
nhiên, khi chú ư nh́n một vật ǵ đó th́ bạn phải đồng thời ghi nhận ba lần:
"thấy, thấy, thấy" sau đó trở về với sự chuyển động của bụng. Giả sử có một
người nào đó đi vào trong tầm nh́n của bạn, bạn để ư thấy th́ phải ghi nhận:
thấy hai hay ba lần, rồi trở về với sự phồng xẹp. Bạn có nghe tiếng nói
không? Bạn có lắng nghe không? Nếu bạn nghe hay lắng nghe th́ phải ghi nhận:
"nghe, nghe, nghe" hay "lắng-nghe, lắng-nghe, lắng-nghe"; sau đó trở về với
sự phồng xẹp. Giả sử bạn nghe những tiếng động lớn như tiếng chó sủa, nói
chuyện to, tiếng hát bạn phải tức khắc ghi nhận hai hay ba lần: nghe, rồi
trở về với bài tập phồng, xẹp. Nếu bạn quên không ghi nhận khi đang phóng
tâm vào sự nghe, điều này có thể khiến bạn suy tưởng hay chạy theo chúng mà
quên chú ư vào sự phồng xẹp. Lúc bấy giờ sự phồng xẹp sẽ trở nên yếu đi hay
không phân biệt được rơ ràng. Gặp những trường hợp bạn bị lôi cuốn bởi những
phiền năo chập chồng như thế, bạn hăy ghi nhận hai hay ba lần: "suy-tưởng,
suy-tưởng, suy-tưởng" rồi trở về với sự phồng xẹp. Nếu quên ghi nhận những
chuyển động của cơ thể, tay chân, v.v.. th́ phải ghi nhận: "quên, quên,
quên" rồi trở về với sự chuyển động của bụng. Bạn có thể cảm thấy lúc bấy
giờ hơi thở sẽ chậm lại hay chuyển động phồng xẹp không rơ ràng. Nếu điều đó
xảy ra và lúc ấy bạn đang ngồi th́ hăy chú tâm ghi nhận: ngồi, đụng. Nếu lúc
bấy giờ đang nằm hăy ghi nhận nằm, đụng. Khi ghi nhận đụng, không phải bạn
chỉ chú tâm vào một điểm của cơ thể đang tiếp xúc, mà phải chú tâm vào nhiều
điểm kế tiếp nhau. Có nhiều chỗ đụng; ít nhất sáu hay bảy chỗ bạn phải chú
tâm đến. Một trong những điểm đó là: đùi, đầu gối, hai tay chạm nhau, hai
chân đụng nhau, hai ngón cái đụng nhau, chớp mắt, lưỡi đụng miệng, môi chạm
nhau.
4. Bài Tập Thứ Tư
Cho đến bây giờ bạn đă hành thiền được nhiều giờ rồi. Bạn có thể bắt đầu
cảm thấy làm biếng khi nghĩ rằng ḿnh chưa tiến bộ được bao nhiêu. Đừng bỏ
dở, hăy tiếp tục ghi nhận: "làm biếng, làm biếng, làm biếng".
Trước khi thiền của bạn đủ sức mạnh để phát triển khả năng chú ư, định
tâm và tuệ giác, bạn có thể nghi ngờ không biết cách thức hành thiền như thế
này có đúng, có hữu ích không. Gặp trường hợp này hăy ghi nhận: "nghi-ngờ,
nghi-ngờ, nghi-ngờ". Bạn có ao ước hay mong muốn đạt được thành quả tốt
trong thiền không? Nếu bạn có tư tưởng như thế th́ hăy ghi nhận: "ao ước, ao
ước, ao ước" hay "mong muốn, mong muốn, mong muốn". Bạn có suy nghĩ xét lại
cách thức thực tập để bạn đạt được mức độ này không? Nếu có, bạn hăy ghi
nhận: "xét lại, xét lại, xét lại". Có trường hợp nào bạn xem xét đối tượng
thiền và phân vân không biết đó là tâm hay vật chất không? Nếu có, bạn hăy
ghi nhận: "xem xét, xem xét, xem xét". Có khi nào bạn tiếc nuối v́ ḿnh
không đạt được sự tiến bộ nào không? Nếu có, bạn hăy chú tâm ghi nhận cảm
giác: "tiếc nuối, tiếc nuối, tiếc nuối".
Ngược lại, bạn có cảm thấy sung sướng khi mức độ thiền của bạn tiến triển
hay không? Nếu có, bạn hăy ghi nhận: "sung sướng, sung sướng, sung sướng".
Đấy là cách thức bạn ghi nhận mỗi một trạng thái của tâm hồn, nếu không có
những tư tưởng hay quan niệm được ghi nhận th́ bạn hăy trở về với sự phồng
xẹp.
Trong một khóa hành thiền tích cực th́ thời gian hành thiền bắt đầu từ
lúc thức dậy cho đến khi đi ngủ. Bạn cần nhớ là phải luôn luôn thực hành
hoặc bài tập căn bản, hoặc là thực hành sự chú tâm liên tiếp suốt ngày cho
đến đêm, nếu bạn chưa buồn ngủ. Chẳng có nghỉ ngơi phút nào. Khi thiền của
bạn đạt được mức tiến bộ cao th́ bạn sẽ không c̣n cảm thấy buồn ngủ mặc dù
bạn phải hành thiền rất nhiều giờ; lúc bấy giờ bạn có thể tiếp tục thiền cả
ngày lẫn đêm.
Tóm lại trong thời gian hành thiền, bạn phải để tâm ghi nhận tất cả những
trạng thái của tâm, dù đó là trạng thái tốt hay xấu; bạn cũng phải chú tâm
đến những sự chuyển động của cơ thể, dù đó là những chuyển động lớn hay nhỏ;
bạn phải
chú tâm đến mỗi một cảm giác, dầu cảm giác ấy dễ chịu hay khó chịu. Trong
suốt thời gian hành thiền nếu không có những ǵ đặc biệt xảy ra khiến bạn
phải ghi nhận, th́ hăy chú tâm vào sự phồng xẹp của bụng. Nếu bạn đi làm một
việc ǵ đó, chẳng hạn, đi uống nước, bạn phải chú ư đến những tác động cần
thiết của sự đi, bạn phải chú tâm tỉnh thức ghi nhận từng bước đi một, chẳng
hạn: đi, đi, hay trái, phải. Lúc đến nơi bạn hăy niệm: đ?ng, cầm, nắm, uống
v.v... Nhưng khi bạn thực tập thiền hành bạn phải chú ư đến ba giai đoạn của
bước đi: dở, bước, đạp. Thiền sinh phải nỗ lực tập luyện suốt ngày đêm mới
có thể sớm khai triển tâm định đến tuệ giác thứ tư (tuệ biết được sự sinh
diệt) và từ đó đạt đến những tuệ giác cao hơn.
- Ḥa Thượng Mahasi Sayadaw
- Dịch Giả:
Tỳ khưu Khánh Hỷ
- Hiệu Đính:
Tỳ Khưu Kim Triệu
b.4.3. Thiền Tông với Thiền Đại Thừa.
Thiền Đại Thứa cũng có nhiều lối tu, cần yếu từ tướng thẳng vào bản tánh.
Tuy có những đề mục đồng với Tiểu Thừa, như Bồ Tát Tu Ngũ Pháp: Bồ Tát quán
Phật tam Muội, Bồ Tát quán bất tịnh tam muội, Bồ Tát quán Từ tam muội, Bồ
Tát quán nhơn duyên tam muội, Bồ Tát quán Lục diệu pháp môn. Song đối mỗi
pháp nầy, Bồ Tát quán từ tướng đi thẳng vào tánh, tức là từ giả tướng đến
Phật tướng. Hoặc Thiền theo Tông Thiên Thai của Ngài Trí Giả Đại Sư, ứng
dụng pháp tam quán: quán không, quán giả, quán trung, y cứ bài kệ trong
quyển Trung Quán Luận của Bồ Tát Long Thọ. Bài Kệ:
Nhơn duyên sở sanh pháp Nhơn duyên sanh các pháp
- Ngă thuyết tức thị không
- Diệc danh vi giả danh
- Diệc danh trung đạo nghĩa
Dịch nghĩa:
- Ta nói tức là không
- Cũng gọi là giả dang
- Cũng gọi là trung đạo
Thấy các pháp do nhơn duyên sanh, thể tánh đều không, tức là quán không.
Thể tánh các pháp là không, song duyên họp giả có, tức là quán giả. Không
Giả đều buông, chỉ c̣n nhất tâm chơn như, tức là Quán Trung Đạo đệ nhất
nghĩa. Bồ Tát tu nhơn như thế, đến kết quả sẽ chứng từng bậc từ Thập tín,
Thập Trụ, , Thập Hạnh, Thập Hồi Hướng, Thập Địa đến Đẳng Giác, Diệu Giác là
Phật. Thiền Đại Thừa đă gần với Thiền Tông, song Thiền Đại Thừa c̣n thấy có
pháp để tu, thấy có quả để chứng, nên c̣n khác biệt. Bởi v́, Thiền Tông
không thấy có pháp để dạy người, không thấy có một quả để chứng. (Tự Gia
Bảo, 391, 92)
b.4.4 và Thiền của Giáo Lư Nguyên Thủy
HT. Thích Thanh Từ
Tất cả chúng ta đều đồng ư là, pháp tu của Đạo Phật, dù phương tiện có
thể khác song cứu cánh phải gặp nhau. Nếu hai pháp tu mà phương tiện và cứu
cánh đều khác biệt nhau th́, pháp nầy là Đạo Phật, pháp kia hẳn không phải
Đạo Phật. Phật giáo Việt Nam đă mang sẵn hai pháp tu Thiền: Thiền Tông và
Thiền Nguyên Thủy. Vậy sự gặp gỡ nhau như thế nào? Đây là mục tiêu chúng ta
phải nghiên cứu. Theo thiển kiến chúng tôi thấy có những điểm gặp nhau, như
dưới đây:
A.- Chủ Đích Ban Đầu Gặp Nhau
Thiền Tông va Thiền Nguyên Thủy đều thừa nhận đức Phật Thích Ca là Giáo
Chủ, đồng kính thờ Ngài. Đậm nét nhất là mục đích xuất gia khi Ngài c̣n làm
Thái Tử. Sau khi dạo bốn cửa thành, h́nh ảnh sanh già bệnh chết đă đập mạnh
vào mắt Ngài, đă in sâu vào tâm năo Ngài, sự bất lực của con người với luật
vô thường, khiến Ngài phải băn khoăn thắc mắc. Ngài cương quyết t́m phương
paháp giải thoát sanh già bệnh chết. Đây là vấn đề không tiền khoáng hậu, mà
Ngài tự đạt ra cho ḿnh. Từ đây, "phương pháp giải thoát sanh già bệnh chết"
là vấn đề bức xúc nhất, thúc bách Ngài phải t́m phương giải quyết. Chính là
động cơ chủ yếu thôi thúc Ngài vượt thành xuất gia. Sau khi xuất gia, Ngài
gặp các Đạo Sĩ dạy tu Thiền định, cho đến cái định cuối cùng là Phi tưởng
phi phi tưởng, song vẫn chưa giải quyết hoài băo Ngài cưu mang từ buổi ban
đầu. Ngài từ giă họ, rồi bao nhiêu năm ḍ dẫm săn t́m, đến phút giây quyết
định là đêm thứ 49, Ngài ngồi dưới cội Bồ Đề được giác ngộ viên măn. Đến
đây, Ngài đă thấy tường tận manh mối trói buộc lôi kéo chúng sanh vào đường
sanh tử và biết rành rẽ phương pháp diệt trừ cắt đứt mọi mối dây trói buộc
giải thoát sanh tử. Bài pháp Tứ Đế Ngài giảng đầu tiên tại vườn Lộc Uyển đủ
minh chứng điều này. Thế là Ngài giải quyết xong vấn đề ôm ấp từ thuở ban
sơ, tuyên bố thành Phật.
Thiền Tông nhắm thẳng mục đích ấy, thực hiện theo sở hành của Phật mà
không hoàn toàn theo lời dạy của Phật. Lấy phương châm "Giải thoát sanh tử"
làm kim chỉ nam. Đặt vấn đề "Làm sao giải thoát sanh tử? " làm công án, trăn
trở thao thức nghiền ngẫm măi vấn đề này, đến bao giờ vỡ tung mới thôi. Phải
đạt đến cứu cánh thành Phật là mục tiêu cuối cùng. V́ thế, Tổ Bồ Đề Đạt Ma
(Bodhidharma) dơng dạc tuyên bố: "Giáo ngoại biệt truyền bất lập văn tự,
trực chỉ nhân tâm, kiến tánh thành Phật ". Lấy "Giải thoát sanh tử" làm chủ
đề, đặt nghi vấn làm phương tiện tu, do dùi mài hun đúc măi vấn đề này,
khiến mọi tâm niêm lăng xăng tự phải dừng lại, đến khi thuần thục chín muồi
vấn đề nổ tung là giác ngộ "giải thoát sanh tử". Chỗ này rất thích hợp với
các nhà khoa học xưa nay, bởi nghi vấn nên t́m ṭi nghiên cứu đến lúc chín
muồi liền phát minh. Có khi vấn đề đặt ra ch́m ngầm trong tiềm thức, như
mạch nước chảy ngầm dưới đất, nhờ công phu thiền định đến mức tột cùng, bỗng
dưng phát sáng, thấy rơ vấn đề ḿnh ôm ấp từ trước, như nhờ đào sâu xoi
thủng trúng mạch th́ ḍng nước vọt lên. Chính đây là hướng thực hành của
Thái Tử Tất Đạt Đa thưở xưa.
Thiền Nguyên Thủy cũng nhằm mục đích giải thoát sanh tử. Phương tiện tiến
tu dồn hết tư tưởng vào một đề mục, đi sâu măi cho đến chứng sơ thiền, nhị
thiền, tam thiền, tứ thiền, bước sang tam minh, cuối cùng giác ngộ "giải
thoát sanh tử", cụ thể bằng thấy rơ Tứ Đế. Như đoạn kinh Phật dạy:
"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu
nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm
đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là
nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Đây là sự diệt khổ", biết như thật:
"Đây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc",
biết như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc ", biết như thật: "Đây là
đoạn trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ
các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát
khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă
giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy biết:
"Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần làm đă làm; sau đời hiện
tại không có đời sống nào khác nưă " (Trung bộ i., 278-279)
B.- Giới Định Tuệ Gặp Nhau
Thiền Tông đặt giới luật lên trên, cụ thể là Lục Tổ Huệ Năng ngộ đạo rồi
vẫn thọ giới, sau mới hoằng hóa.
Thiền Tông ứng dụng theo hai lối tu:
1) Đặt nghi vấn để theo dơi
2) Nh́n lại ḿnh, không theo vọng tưởng.
Đặt nghi vấn để theo dơi là khán Công Án hay Thoại Đầu. Khi theo dơi công
án, mọi niệm lự dễ dừng lặng. Như khi ta đang thắc mắc về một vấn đề quan
trọng th́ mọi suy nghĩ khác đều tan. Dồn hết tâm tư trong một công án th́
đối với dục lạc thế gian ta sẽ lơ là, giới luật đă nằm sẵn ở đây. Giống như
nhiều nhà khoa học khi mải mê nghiên cứu một đề tài ǵ có lúc quên cả vợ
con, ăn uống. Khi vấn đề đă thành khối th́ ư thức chết lịm trong ấy, đấy là
Định. Đến lúc chín muồi gặp duyên khối nghi tan vỡ, là thấu suốt được vấn đề
ḿnh bao năm theo dơi, gọi là ngộ đạo. Tức là giác ngộ mục đích ḿnh t́m
kiếm, đây là Huệ. Hầu hết những vấn đề đặt ra đều tối quan trọng như: Thế
nào là Phật? Thế nào là Đại ư Phật Pháp? Thế nào là Kiến tánh thành Phật?
Thế nào là ư Tổ Sư từ Tây sang?
Nh́n lại ḿnh "Không theo vọng tưởng" gọi là "Phản quan tự kỷ", cũng gọi
"Hồi quan phản chiếu", dùng trí quán sát tâm tư của ḿnh. Mọi người đều nhận
ư nghĩ lăng xăng là tâm ḿnh, chạy theo nó tạo nghiệp không cùng. Ở đây hành
giả trong mọi oai nghi tỉnh táo quan sát tâm niệm ḿnh, "Thấy nó không
theo", hoặc t́m xem nó phát xuất từ chỗ nào? Không theo th́ nó lặng, t́m lại
th́ nó mất. Vận dụng trí tuệ quan sát thường xuyên khiến vọng tưởng không có
cơ hội dong chạy, là giữ Giới. Vọng tưởng cùng đường không lối thoát, buộc
chúng phải lặng yên là Định. Vọng tưởng đă sạch, trí tuệ hiện tiền là Huệ.
Chỗ này Thiền Sư Hoài Hải (724-814) nói: "Tâm địa nhược không, huệ nhật tự
chiếu". Đất tâm nếu không, mặt trời trí tuệ tự sáng. Lối tu này xuất phát từ
Tổ Đạt Ma chỉ dạy Ngài Huệ Khả. Huệ Khả hỏi: "Tâm con không an, xin thầy dạy
pháp an tâm". Tổ Đạt Ma bảo: "Đem tâm ta an cho". Huệ Khả sửng sốt t́m tâm
không được, thưa: "Con t́m tâm không được". Tổ Đạt Ma bảo: "Ta an tâm cho
ngươi rồi". Ngay đây Ngài Huệ Khả biết được lối vào. (Sử 33 vị Tổ, tr. 163)
Thiền Sư Đức Sơn (780-865) dạy chúng: "Các ông chớ cuồng, khuyên các ông
không ǵ hơn Thôi Hết đi, Vô Sự đi. Tâm vừa khởi một niệm tức là quyến thuộc
nhà ma, là kẻ tục phá giới" (Trung Hoa Chư Thiền Đức ii, 138). Cụ thể hóa
lối tu này bằng h́nh ảnh "Mười Mục Chăn Trâu Thiền Tông" (Thập Mục Ngưu Đồ
Thiền Tông).
Thiền Nguyên Thủy lấy Giới Định Huệ làm căn bản. Thiếu giới th́ không
định, không định th́ chẳng phát huệ. Chúng ta đọc đoạn này trong kinh Sa Môn
Quả (Trường Bộ i, 71):
"Vị ấy, với giới uẩn cao quư nầy, với sự hộ tŕ các căn cao quư nấy, với
chánh niệm tự giác cao quư nầy, với hạnh biết đủ cao quư nầy, lựa một chỗ
thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm
cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi
kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt"...
Với tâm định tỉnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến,
dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, vị Tỳ Kheo dẫn tâm, hướng tâm đến
lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là Khổ"; biết như thật: "Đây là
nguyên nhân khổ"; biết như thật: "Đây là sự diệt khổ"; biết như thật: "Đây
là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc"; biết
như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc"; biết như thật: "Đây là sự diệt
trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy
thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự
thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy
biết: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần làm đă làm; sau đời
hiện tại, không có đời sống nào khác nưă" (Trường Bộ i. 82-83).
Đọc hai đoạn trên, chúng ta thấy từ Giới luật đầy đủ mới tu Thiền Đ?nh,
từ Thiền Định đầy đủ mới phát Trí huệ sáng suốt thấy đúng như thật cội nguồn
sanh tử và xuất ly sanh tử.
Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy đều gặp nhau ở chỗ khai thác Trí Vô Sư.
Giáo lư nhà Phật chia hai thứ trí: Trí Hữu Sư và Trí Vô Sư. Trí Hữu Sư do
học hỏi mà được, là sản phẩm của người khác truyền sang. Trí Vô Sư sẵn có
nơi ḿnh, chỉ khi nào mọi tâm lự đ́nh chỉ th́ tự phát hiện. Nếu con người tự
măn với Trí Hữu Sư mai kia chúng ta sẽ không thông minh bằng người máy. V́
khoa học ngày nay đă bắt chước tế bào năo con người, chế biến các vi điện tử
cũng có khả năng ghi nhớ những dữ kiện như năo bộ con người. Nếu người ta
phát vào năo bộ người máy thật nhiều dữ kiện, nó sẽ biết nhiều, nhớ nhiều
hơn chúng ta. Bao nhiêu kiến thức chúng ta thu thập được đều thuộc bên ngoài
đưa vào, không phải là sự phát minh của Trí Vô Sư của chúng ta.
Thiền Tông bắt buộc thiền giả phải phát minh Trí Vô Sư, mọi kiến thức
tiếp thu được bên ngoài đều thuộc vô thường, thuộc người khác, không phải
chính ḿnh. Qua câu chuyện đối đáp của hai Thiền Sư Nham Đ?u Toàn Khoát
(826-887) và Tuyết Nghĩa Phong Tồn (822-908) thấy rơ điều này.
- Tuyết Phong nói: "Tôi thật c̣n chưa ổn".
- Nham Đầu bảo: "Nếu ông thật như thế cứ chỗ thấy của ông mỗi mỗi thông
qua, chỗ phải tôi sẽ chứng minh cho ông, chỗ không phải tôi sẽ v́ ông đuổi
dẹp".
- Tuyết Phong: "Khi tôi mới đến Diêm Quan thấy thượng đường nói nghĩa sắc
không liền được chỗ vào".
- Nham Đầu: "Từ đây đến ba mươi năm rất kỵ không nên nói đến".
- Tuyết Phong: "Tôi thấy bài kệ của Động Sơn qua sông: Thiết kỵ tùng tha
mích, điều điều dữ ngă sơ, cừ kim chánh thị ngă, ngă kim bất thị cừ".
- Nham Đầu: "Nếu cùng ấy tự cứu cũng chưa tột".
- Tuyết Phong, sau, hỏi Đức Sơn: Việc trong tông thừa từ trước con có
phần chăng?
- Đức Sơn đánh một gậy hỏi: Nói cái ǵ? Tôi khi đó giống như thùng lũng
đáy.
- Nham Đầu nạt: Ông chẳng nghe nói: "Từ cửa vào chẳng phải của báu trong
nhà?"
- Tuyết Phong: Về sau làm thế nào mới phải?
- Nham Đầu: Về sau, nếu muốn xiển dương Đại Giáo, mỗi mỗi từ trong hông
ngực ḿnh lưu xuất, sau nầy cùng ta che trời che đất đi!
Tuyết Phong nhơn câu ấy đại ngộ liền đảnh lễ, đứng dậy kêu luôn: Sư
huynh! Ngày nay mới là thành đạo ở Ngao Sơn (Trung Hoa Chư Thiền Đức ii.
203)
Thiền Nguyên Thủy cũng do mọi tâm niệm đều lặng sạch mới phát sanh trí
tuệ. Trí tuệ này do định phát sanh nên thuộc Trí Vô Sư. Chúng ta nghe một
đoạn Phật kể lại sự tu chứng của Ngài: "... Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm
thọ trước, chứng và trú thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh
tịnh... với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu
nhuyến, dễ xử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến
Túc Mạng Minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời..."
(Trung Bộ i. 247).
Sau khi được xả niệm thanh tịnh, hướng tâm về quá khứ th́ thấy rơ nhiều
đời của quá khứ... Trí tuệ thấy rơ này không phải do suy xét mà được. Chỉ
nhờ xả niệm thanh tịnh, nên thuộc Trí vô Sư.
C. Gặp Nhau Trên Lộ Tŕnh Tu Tập
Thiền Tông nghiên cứu công án hay đề khởi thoại đầu cốt phải đến chỗ niêm
mật, cho đến cô đọng thành một khối gọi là nghi t́nh. Khi nghi t́nh tan vỡ
là thành tựu đáp án, cũng có nghĩa là ngộ đạo. Nếu dùng "Thấy vọng không
theo" (phản quan tự kỷ) cũng phải hằng tỉnh hằng giác cho đến khi nào vọng
niệm lặng hết th́ kiến tánh ngộ đạo. Thiền sư Triệu Châu Tùng Thẩm (778-897)
nói: "Một tâm chẳng sanh muôn pháp không lỗi. Ông cứ nghiên cứu lư này, ngồi
quán sát hai ba mươi năm, nếu chẳng hội, chặt đầu lăo tăng đi. Nhọc nhằn nắm
bắt mộng huyễn không hoa, tâm nếu chẳng khác th́ muôn pháp nhất như". (Trung
Hoa Chư Thiền Đức i. 397)
Thiền Nguyên Thủy quán Tứ Niệm Xứ phải chuyên tâm cột niệm trong bốn Pháp
sẽ được kết quả. Chúng ta nghe Phật dạy trong bài kinh Tứ Niệm Xứ:
"Nầy các Tỳ Kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng
sanh, vượt khỏi sầu năo, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ
Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ".
"Thế nào là bốn? Nầy các Tỳ Kheo, ở đây vị Tỳ Kheo sống quán thân trên
thân, tinh cần, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời; sống quán
thọ trên các thọ, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời;
sống quán tâm trên tâm, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở
đời; sống quán pháp trên các pháp, tinh cần tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự
tham ưu ở đời." (Trung Bộ i. 56 -57).
Cũng kinh Tứ Niệm Xứ Phật nói kết quả của Tỳ Kheo nào tinh cần như sau:
"Nầy các Tỳ Kheo, vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ này như vậy trong bảy năm, vị
ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng chánh trí ngay trong
hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Này các Tỳ Kheo không cần ǵ bảy năm, một vị Tỳ Kheo tu Bốn Niệm Xứ nầy
như vậy trong sáu năm, trong năm năm, trong bốn năm, trong ba năm, trong hai
năm, trong một năm, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là
chứng chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, chứng quả Bất
Hoàn.
Này các Tỳ Kheo không cần ǵ một năm, một vị nào tu tập Bốn Niệm Xứ nầy
trong bảy tháng, vị ấy có thể chứng một trong hai quả sau đây: Một là chứng
chánh trí ngay trong hiện tại, hay nếu c̣n hữu dư y, chứng quả Bất Hoàn.
Nầy các Tỷ Kheo, đây là con đường độc nhất, đưa đến thanh tịnh cho chúng
sanh, vượt khỏi sầu năo, diệt trừ khổ ưu, thành tựu chánh trí, chứng ngộ
Niết Bàn. Đó là Bốn Niệm Xứ". (Trung Bộ i. 62A)
Tuy phương pháp ứng dụng tu có khác, song đều phải nhiệt tâm tinh cần,
kết quả sẽ đến không nghi. Thiền Tông nh́n thẳng tâm niệm ḿnh, Thiền Nguyên
Thủy tựa vào Tứ Niệm Xứ, dụng công tu cũng phải thiết tha thành khẩn như
nhau, kết quả tâm niệm lặng hết sẽ ngộ đạo hay chứng Niết Bàn.
D. Thiền Tông Gặp Giáo Lư Nguyên Thủy.
Thiền Tông tu bằng cách xoay sáu căn trở về tự tánh của nó (Hồi quang
phản chiếu). Bằng chứng khi Lục Tổ Huệ Năng (638-713 T.L) nghe Ngũ Tổ giảng
kinh Kim Cang, đến câu: "Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương,
vị, xúc, pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm". Chẳng nên dính sắc
sanh tâm, chẳng nên dính thanh, hương, vị, xúc, pháp sanh tâm, nên không chỗ
dính mà sanh tâm kia: Tâm Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Lục Tổ phát ngộ
la lên: "Đâu ngờ tánh ḿnh xưa nay thanh tịnh! Đâu ngờ tánh ḿnh vốn tự đầy
đủ...". (Kinh Pháp Bảo Đàn, Phẩm Hành Do). Sáu căn không dính mắc với sáu
trần là nguyên nhân đưa đến giác ngộ. Chính Trúc Lâm Đ?u Đà (Trần Nhân Tông)
định nghĩa Thiền Tông một cách đơn giản và cụ thể. Trong bài kệ Hán văn kết
thúc bài phú "Cư Trần Lạc Đạo " câu chót "Đối cảnh vô tâm mạc vấn thiền".
Đối cảnh không tâm là sáu căn tiếp đối sáu trần mà không dấy niệm chạy theo,
Thiền là ngay nơi đó.
Các kinh Nguyên Thủy, Phật thường dạy sáu căn tiếp xúc sáu trần phải biết
như thật tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu
căn. Nếu biết như thật rồi th́ đâu c̣n chạy theo sáu trần, cũng là nguyên
nhân chứng A La Hán hay Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Như bài kinh Phật
dạy sau đây:
..." Nầy các Tỳ Kheo, có sáu căn này. Thế nào là saú? Nhăn căn.... ư căn
"
"Cho đến khi nào, nầy các Tỷ kheo, Ta chưa như thật chứng tri sự tập
khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly khỏi sáu căn nầy, cho
đến khi ấy, nầy các Tỳ Kheo. Ta không có biết rơ về sự chứng ngộ Vô Thượng
Chánh Đẳng Chánh Giác, đối các thế giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với các
chúng Sa môn, Bà La Môn, Chư Thiên và loài người. Cho đến khi nào, nầy các
Tỳ Kheo, Ta như thật chứng tri sự tập khởi, sự chấm dứt, vị ngọt, sự nguy
hại và sự xuất ly khỏi sáu căn nầy, cho đến khi ấy nầy các Tỳ Kheo. Ta mới
nhận biết rơ ư nghĩa về sự chứng ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, đối
với các thế giới, như Thiên giới, Ma giới, Phạm Thiên giới, với các chúng Sa
môn, Bà La Môn, Chư Thiên và loài người." (Tương Ưng Bộ V. 218-219)
Thiền Tông phản quan nội tâm, không theo vọng tưởng, không có pháp môn để
tu. Mă Tổ Đạo Nhất (709-788) dạy chúng: "Các ông mỗi người tin tâm ḿnh là
Phật, tâm nầy tức là tâm Phật. Tổ Đạt Ma từ Nam Ấn sang Trung Hoa truyền
pháp thượng thừa nhất tâm, khiến các ông khai ngộ. Tổ lại dẫn kinh Lăng Già
để ấn tâm địa chúng sanh. Sợ e các ngươi điên đảo không tự tin pháp tâm nầy
mỗi người tự có, nên kinh Lăng Già nói "Phật nói tâm là chủ, cửa không là
cửa pháp'' - Phật ngữ: tâm vi tông, vô môn vi pháp môn" (Trung Hoa Chư Thiền
Đức i. 90). Thiền Sư Vô Nghiệp (760-821) đáp những câu hỏi của các Thiền
khách, sư thường sử dụng câu: "Chớ vọng tưởng". Sư dạy chúng: "Chư Phật chưa
từng ra đời, cũng không có một pháp dạy người, chỉ tùy bịnh cho thuốc nên có
12 phần giáo, như lấy chuối ngọt nhét thuốc đắng vào, cốt gột sạch gốc
nghiệp cho các ông (Trung Hoa Chư Thiền Đức i. 237)". Đức Sơn Tuyên Giám
(780-865) nói: "Tông ta không ngữ cú, thật không một pháp cho người".
Giáo lư Nguyên Thủy cũng có bài kinh "Có pháp môn nào?" tương tự Thiền
Tông:
"Có pháp môn nào, do pháp môn ấy, Tỷ Kheo, ngoài ḷng tin, ngoài ưa
thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp (akàraparitakka), ngoài
kham nhẫn, thích thú biện luận (ditthini khànakhanti), có thể xác chứng
chánh trí. Vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành. Những ǵ nên làm
đă làm. Không c̣n trở lui trạng thái nầy nửa"?
-"Bạch Thế Tôn, đối với chúng con, pháp lấy Thế Tôn làm căn bản... "
"Có một pháp môn, nầy các Tỷ kheo, do pháp môn ấy, Tỷ kheo ngoài ḷng
tin, ngoài ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài kham nhẫn, thích thú biện luận,
có thể xác chứng chánh trí. Vị ấy biết rơ: "Sanh đă tận... trạng thái nầy
nữa"?"
-"Pháp môn ấy là ǵ, do pháp môn ấy... không c̣n trở lui trạng thái nầy
nữa".
"Ở đây nầy các Tỳ Kheo. Tỷ kheo mắt thấy sắc, biết rơ rằng: "Nội tâm ta
không có tham, sân si". Nội tâm có tham, sân, si biết rơ rằng: "Nội tâm ta
có tham, sân, si"; hoặc biết rơ nội tâm không có tham, sân, si: "Nội tâm ta
không có tham, sân, si". Nầy các Tỳ kheo khi mắt thấy sắc, hoặc nội tâm có
tham sân si biết rơ: "Nội tâm ta có tham sân si"; nội tâm không có tham sân
si biết rơ: "Nội tâm ta không có tham, sân, si". Nầy các Tỷ Kheo biết rơ
chúng có mặt hay không có mặt trong tâm vị ấy, có phải chúng là những pháp
do ḷng tin được hiểu biết, hay do ưa thích được hiểu biết, hay do lắng nghe
được hiểu biết, hay do suy tư về phương pháp được hiểu biết, hay do kham
nhẫn, thích thú về biện luận được hiểu biết? "
-"Thưa không, bạch Thế Tôn ".
" Có phải pháp nầy, do thấy chúng với trí tuệ, nên được hiểu biết? "
- " Thưa phải, Bạch Thế Tôn.
"Đây là pháp môn, nầy các Tỷ Kheo, do pháp môn nầy, ngoài ḷng tin, ngoài
ưa thích, ngoài lắng nghe, ngoài suy tư về phương pháp, ngoài kham nhẫn,
thích thú biện luận, có thể xác chứng với chánh trí. Vị ấy biết rơ: "Sanh đă
tận.....không c̣n trở lui trạng thái nầy nữa"... (Tương ưng bộ iV. 146-147)
Qua bài kinh nầy, chúng ta thấy cụ thể có lối tu không dựa vào pháp môn.
Chỉ phản quan lại tâm ḿnh thấy đúng như thật, có tham sân si hay không tham
sân si. Chủ yếu là đến không tham sân si. Tham sân si, Thiền Tông gọi là
vọng tưởng, không tham sân si là hết vọng tưởng. Thế là hai bên gặp nhau ở
chỗ "Phản quan tự kỷ" và kết cuộc đều đến chỗ giải thoát sanh tử. Chính quán
sát nội tâm là trí tuệ, nhờ trí tuệ không bị phiền năo dẫn, từ từ chúng lặng
sạch.
E.- Chỗ Cứu Cánh Gặp Nhau
Thiền Nguyên Thủy tu qua tứ Thiền đến giác ngộ tứ đế là giải thoát sanh
tử. Thiền Tông khi ngộ được Phật Tánh sạch hết mọi tập khí vọng tưởng cũng
giải thoát sanh tử. Đây là chỗ cứu cánh hai bên gặp nhau. Chỉ khác nhau chỗ,
Thiền Tông nói Phật Tánh, Pháp Thân, Bản Lai Diện Mục... c̣n Thiền Nguyên
Thủy chỉ nói giải thoát không c̣n tái sanh đời sau. Tuy nhiên vẫn có bài
kinh trong hệ Nguyên Thủy nói rơ có cái để giải thoát (Duk. 11.6) (it.37):
"Điều nầy đă được Thế Tôn nói đến, đă được bậc A La Hán nói đến, và tôi
đă được nghe.
"Nầy các Tỳ Kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành,
không làm ra (asankhatam). Nầy các Tỷ Kheo, nếu không có cái không sanh,
không hiện hữu, không tác thành, không làm ra, thời ở đây không thể tŕnh
bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu, khỏi tác thành, khỏi làm ra.
Đó v́, nầy các Tỷ Kheo, có cái không sanh, không hiện hữu, không tác thành,
không làm ra, nên có thể tŕnh bày được sự xuất ly khỏi sanh, khỏi hiện hữu,
khỏi tác thành, khỏi làm ra. Thế Tôn đă nói ư nghĩa nầy. Ở đây điều nầy được
nói đến" (Tiểu Bộ i. 442 - 443).
Bao nhiêu cũng đủ minh chứng hệ Nguyên Thủy có cái để giải thoát khỏi
sanh tử, mặc dù không nói tên ra. Như vậy Thiền Tông và Thiền Nguyên Thủy
chỗ cứu cánh là gặp nhau. Chỉ có một điều, Thiền Tông đến chỗ giải thoát rồi
không chịu an trụ nơi đó mà vẫn lưu nguyện lăn lộn độ sanh. Như trong "Mười
mục chăn trâu", mục thứ chín là nhập Phật giới: Lá rụng về cội, mục thứ mười
là vào Ma giới: Buông thơng tay vào chợ.
Để kết thúc bài nầy, chúng tôi nhận thấy từ mục đích ban đầu Thiền Tông
và Thiền Nguyên Thủy đă gặp nhau, cho đến cứu cánh hai bên cũng gặp nhau.
Chỉ có phương tiện hai bên có khác nhau. Trên lộ tŕnh tu hành có gặp nhau
cũng có khác nhau. Tuy nhiên trọng tâm hành đạo mục đích và cứu cánh gặp
nhau, là chung một mục tiêu, chung một lư tưởng rồi. Phương tiện sai biệt,
chỉ v́ tŕnh độ khác nhau thôi. Với thời gian ngắn ngủi, chúng tôi không đủ
th́ giờ nghiên cứu chín chắn, có nhiều điều sai sót không thể tránh được,
mong quư vị chỉ bảo cho,
(Trích: "Thiền nguyên Thủy và Thiền Phát triển", Thiền Viện Vạn Hạnh, Sài
g̣n 1994)
b.4.5. THIỀN DZOGCHEN (Tạng Thư Sống Chết): PHẬT GIÁO TÂY TẠNG
Sự thực tập tu luyện Dzogchen được mô tả là Kiến, Thiền, Hành. Thấy được
một cách trực tiếp trạng thái tuyệt đối, cảnh hay nền tảng của bản thể chúng
ta - tự tánh, tánh bản nhiên - đó là Kiến; cái cách để làm cho cái thấy ấy
không gián đoạn gọi là Thiền; và hội nhập cái thấy ấy vào trong toàn thể
thực tại và cuộc đời chúng ta, gọi là Hành.
a). KIẾN: Vậy Kiến là ǵ? Đấy là thấy được thực trạng của vạn pháp
như nó là, đây là biết được rằng bản tánh thực của tự tâm cũng là bản tánh
thực sự của sự vật, và đăy là chân lư tuyệt đối. Dudjom Rinpoche nói: Kiến
là sự bao gồm của trạng thái tĩnh thức sơ nguyên, trong đó mọi sự được chứa
đựng: nhận thức giác quan và hiện tượng bên ngoài, sinh tử và niết bàn.Sự
tĩnh thức ấy có hai khía cạnh: Không là cái tuyệt đối, và Tướng hay nhận
thức là cái tương đối. Điều nầy muốn nói lên rằng toàn thể lănh vực tướng có
thể hiện ra, và tất cả hiện tượng trong mọi thực tại khác nhau, dù sinh tử
hay niết bàn, tất cả vẫn luôn luôn và sẽ măi măi toàn vẹn, đầy đủ trong bầu
trời bao la của tự tánh tâm. Nhưng mặc dù tinh túy của vạn pháp là trống
rỗng, và ỏơthanh tịnh từ khởi thủy, bản chất của nó vẫn đầy đủ đức tính cao
quư và sung măn mọi khả năng. Đó là một môi trường sáng tạo vô biên năng
động không ngừng nghỉ và luôn luôn tự nhiên toàn hảo.
Bạn có thể hỏi: Nếu trực nhận cái thấy ấy là chứng ngộ bản tâm, thế th́
bản tâm là ǵ? Hăy tưởng tượng một bầu trời trống rỗng bao la, trong sáng từ
khởi thủy, tinh túy (Thể) của nó là như thế. Hăy tưởng tượng một mặt trời
sáng, trong, không bị mây che, hiện diện một cách tự nhiên:
Bản chất (Tướng) của nó như thế. Hăy tưởng tượng mặt trời ấy chiếu ra một
cách vô tư trên tất cả người và vật, đi vào mọi hướng; năng lực (Dụng) của
nó, biểu hiện của tâm đại bi - là như thế -không ǵ làm chhướng ngại nó
được, và nó thâm nhập tất cả...
b). THIỀN: Thế th́ Thiền định trong Dzogchen nghĩa là ǵ? Đấy chỉ
là an trú trong Kiến không xao lăng, một khi đă được khai thị. Dudjom
Rinpoche mô tả: Thiền là trú tâm vào trạng thái Tâm bản lai (Rigpa), không
hết thảy mọi tạo tác của Tâm, trong khi hoàn toàn buông xả, không xao lảng
cũng không bám víu. V́ người xưa đă nói rằng Thiền không phải là nỗ lực, mà
tự nhiên thấm vào trong đó.
Toàn thể mục đích của Thiền trong pháp Dzogchen là tăng cường và an trú
trạng thái tâm bản nhiên (Rigpa), khiến cho nó phát triển toàn vẹn. Cái tâm
b́nh thường theo tập quán, đầy những dự phóng, thật là mảnh liệt vô cùng. Nó
cứ luôn luôn trở lại, và tóm lấy ta một cách dễ dàng, khi ta không chú ư
hoặc xao lăng. Dudjom Rinpoche thường nói: Bây giờ tâm bản nhiên (Rigpa) của
ta như một hài nhi bé bổng bị mắc kẹt trên một băi chiến trường vọng tưởng
nổi lên rất mạnh. Tôi muốn nói rằng chúng ta khởi sự công việc giữ em, giữ
cái tâm bản nhiên ở trong môi trường bảo đảm của Thiền định Tinh yếu của
hành Thiền Dzogchen được đề ra trong bốn điểm như sau:
-- Khi một niệm quá khứ đă chấm dứt mà niệm vị lai chưa sanh, trong
khoảng hở đó giữa hai niệm, có phải là có một ư thức về thực tại, mới mẻ,
nguyên sơ, không bị thay đổi một tơ tóc khái niệm nào, thuần là một sự tĩnh
giác nguyên vẹn hay không? Đấy! Tâm bản nhiên là thế đấy!
--Tuy nhiên nó không ở măi trạng thái như vậy, bởi v́ một niệm khác lại
khởi lên, phải không?
Đấy là ánh sáng chiếu ra của Tâm bản nhiên.
-- Nhưng nếu bạn không nhận ra niệm ấy đúng như bản chất nó (nghĩa là khi
có tâm, th́ tự nhiên có ư tưởng nổi lên -DG) ngay khi nó khởi, th́ nó sẽ trở
thành một ư tưởng khác, như trước. Đây gọi là dây chuyền vọng tưởng, và là
nguồn gốc của sinh tử.
-- Nếu bạn có thể nhận chân được bản chất thật sự của ư tưởng (niệm) ngay
khi nó khởi lên, và cứ để yên nó đừng theo đuổi thêm, th́ bất cứ ư tưởng nào
khởi lên đều tự động tan trở lại vào trong khoảng bao la của tâm bản nhiên,
và được giải thoát.
Có lẻ điểm quan trọng nhứt là Dzogchen trở thành một ḍng liên tục của
tâm bản nhiên như một con sông chảy liên tục ngày đêm không gián đoạn. Dĩ
nhiên đây là trạng thái lư tưởng, v́ sự an trú vào Kiến một cách không xao
lăng ấy, sau khi được khai thị và nhận chân --chính là phần thưởng của nhiều
năm tu tập kiên tŕ.
Giả sử bạn thấy ḿnh ở trong trạng thái yên lặng sâu xa, thông thường
trạng thái ấy không kéo dài, một ư niệm, một chuyển động luôn luôn khởi lên,
như sóng trong biển. Đừng chối bỏ sự chuyển động hay đặc biệt ôm lấy sự yên
tĩnh, mà cứ tiếp tục ḍng hiện trú thuần túy ấy của tâm bạn. Trạng thái an
b́nh lan khắp của Thiền định ấy chính là tâm bản nhiên, mọi sự khởi lên
trong tâm không ǵ khác hơn là tâm ấy chiếu ra. Đây là trái tim, là nền tảng
của pháp hành thiền Dzogchen. Một cách để tưởng tượng điều nầy là, như thể
bạn đang cởi trên tia mặt trời để trở về mặt trời. Bởi theo dỏi ngay những
niệm khởi trở về căn nguyên của chúng, nền tảng tâm bản nhiên. Khi bạn thể
hiện sự bền vững của Kiến, th́ bạn không c̣n bị đánh lừa và chia trí bởi bất
cứ ǵ sanh khởi, và do đó không thể làm mồi cho vọng tưởng.
Dĩ nhiên trong biển có sóng to, sóng nhỏ, có những cảm xúc mạnh kéo đến
như giận dữ, dục vọng, ganh tị. Hành giả thực thụ sẽ nhận chân những thứ nầy
không phải quấy rầy hay chướng ngại, mà cơ hội lớn. Phản ứng lại mhững sinh
khởi như thế với khuynh hướng thông thường là chấp nhận và chối bỏ chính là
những dấu hiệu chứng tỏ không những bạn chia trí, mà c̣n không nhận ra được,
và đă mất dấu Tâm bản nhiên. Phản ứng lại cảm xúc bằng cách đó th́ chỉ làm
cho chúng có thêm năng lực, và trói buộc chúng ta chặt chẻ hơn vào dây xích
vọng tưởng. Bí quyết lớn của Dzogchen là nh́n suốt những cảm xúc khi chúng
khởi lên, để thấy mặt thực của chúng là biểu hiện sống động như điện chớp
của chính năng lực Rigpa, Tâm bản nhiên. Khi bạn tập dần cách làm nầy, th́
ngay cả những cảm xúc rầy rà nhứt cũng không thể tóm lấy bạn, mà tan biến
như sóng lớn dậy lên rồi lùi lại ch́m vào đại dương yên tĩnh.
Hành giả khám phá - và đây là một cái nh́n đảo lộn, mà sự vi tế và năng
lực của nó không thể suy lường - rằngkhông những cảm xúc mạnh không thể kéo
bạn đi, lôi bạn trở lại vào ḍng nước xoáy của sự thác loạn trong bạn, mà
chúng có thể thực sự hữu ích để đào sâu, làm mạnh thêm tăng cường Rigpa,
trạng thái Tâm bản nhiên. Năng lực vũ băo trở thành nguyên liệu để nuôi
dưỡng cái năng lượng đă được đánh thức của tâm bản nhiên. Cảm xúc càng mạnh,
càng bốc lửa, th́ trạng thái tâm bản nhiên càng được tăng cường. Tôi thấy
rằng phương pháp độc đáo nầy của Dzogchen có mảnh lực ghê gớm để giải tỏa
ngay những vấn đề tâm lư và cảm xúc đă ăn sâu, thâm căn cố đế.
-ooOoo-
Bây giờ tôi đưa ra cho bạn một lối giải thích giản dị về tiến tŕnh nầy
hoạt động ra sao. Điều nầy sẽ vô giá về sau, khi ta xét đến những ǵ xảy ra
vào lúc chết.
Trong Dzogchen, bản chất nội tại tự nhiên của mọi sự ǵ là Ánh sáng căn
bản hay Ánh sáng mẹ. Nó lan khắp lănh vực kinh nghiệm của chúng ta, và bởi
thế cũng là bản chất nội tại của những tư tưởng và cảm xúc khởi lên trong
tâm ta nữa, mặc dù chúng ta không nhận ra điều đó. Khi bậc thầy khai thị cho
chúng ta bản chất chân thật của tâm, tức là trạng thái Rigpa hay Tâm bản
nhiên, th́ điều ấy giống như thầy cho ta một cái ch́a khóa. Trong Dzogchen
chúng ta gọi ch́a khóa ấy--sẽ mở cho chúng ta đến tri kiến toàn vẹn --là Ánh
sáng đạo lộ hay Ánh sáng con.Ánh sáng căn bản và Ánh sáng đạo lộ thực ra chỉ
là một, nhưng v́ mục đích giảng dạy mà phân ra như thế Nhưng một khi có được
ch́a khóa Ánh sáng đạo lộ nhờ sự khai thị của bậc thầy, th́ ta có thể sử
dụng nó tha hồ để mở vào cánh cửa Bản tánh tự nhiên của thực tại --sự mở cửa
nầy được gọi theo Dzogchen là Gặp gở giữa Ánh sáng căn bản và Ánh sáng đạo
lộ hay Mẹ con gặp gở. Một cách nói khác là, vừa khi một ư tưởng hay cảm xúc
khởi lên, Ánh sáng đạo lộ-Rigpa- nhận ra ngay bản chất cùa nó, tính nội tại
của nó, là Ánh sáng căn bản. Trong giây phút nhận ra nhau ấy, hai ánh sáng
tan ḥa vào nhau, tư tưởng và cảm xúc được giải phóng ngay tại nền tảng của
nó. Điều cốt yếu là kiện toàn sự tập luyện hội nhập hai Ánh sáng nầy và giải
tỏa những móng tâm động niệm ngay khi đang sống, bởi v́ điều nầy xảy ra vào
lúc chết, với tất cả mọi người là: Ánh sáng căn bản xuất hiện trong vẻ huy
hoàng rộng lớn, và mang theo nó một cơ hội để giải thoát hoàn toàn--nếu, và
chỉ nếu, làm thế nào để nhận ra nó.
Danh từ duy nhứt có thể diễn đạt được cái nầy là Không-Thiền. Trong trạng
thái ấy, theo lời các bậc thầy, dù bạn có đi t́m vọng tưởng cũng không c̣n
sót lại cái nào. Cho dù bạn muốn kiếm một ḥn sỏi b́nh thường trên một ḥn
đảo vàng ngọc, th́ bạn cũng không cách nào t́m được. Khi Kiến đă hiện diện
liên tục, ḍng tâm bản nhiên không gián đoạn, sự ḥa nhập hai Ánh sáng là tự
nhiên, liên tục, th́ mọi vọng tưởngkhả hữu đều được giải tỏa ngay tại gốc
của nó, và toàn thể nhận thức của bạn khởi lên liên tục là tâm bản nhiên.
Những bậc thầy nhấn mạnh rằng muốn ổn định được Kiến trong thiền định,
điều cốt yếu trước hết là hoàn tất sự luyện tập nầy trong một khung cảnh đặc
biệt của nhập thất, ở đây mọi điều kiện thuận lợi đều sẵn có. C̣n ở giữa sự
tán loạn rộn ràng của thế gian, th́ dù bạn có thiền bao nhiêu, kinh nghiệm
thực thụ cũng không phát sinh được trong tâm bạn.
Thứ hai, mặc dù trong Dzogchen không có sự khác biệt giữa thiền và đời
sống thường nhựt, song khi bạn chưa có được sự an trú vững vàng nhờ thiền
tập vào những thời khóa hẳn ḥi, th́ bạn không thể nào hội nhập tuệ giác của
thiền định vào kinh nghiệm hàng ngày. Thứ ba, ngay cả khi bạn thực hành, bạn
có thể an trú ḍng tương tục Tâm bản nhiên với niềm tin của Kiến. Nhưng nếu
bạn không thể tiếp tục ḍng ấy vào mọi lúc và mọi t́nh huống, ḥa lẫn sự tu
tập với đời sống hàng ngày của bạn, th́ nó sẽ không làm phương thuốc cứu bạn
được, mỗi khi hoàn cảnh khó chịu nổi lên, và bạn sẽ bị ư tưởng, cảm xúc dẫn
cho lạc vào mê vọng.
Có câu chuyện thú vị về một hành giả Dzogchen sống không khoe khoang,
nhưng lại có một đám đông đồ đệ. Có một ông thầy tu rất kiêu hảnh về học vấn
đa văn của ḿnh, đâm ra ganh tị với hành giả mà ông biết là không đọc sách
nhiều. Ông ta nghĩ: Sao một người tầm thường như thế dám dạy đệ tử? Sao y
dám tự xưng thầy? Ta sẽ đến thử tri kiến của y, cho lộ cái giả dối của y, và
làm nhục y trước mặt đệ tử, để bọn nầy bỏ mà theo ta. Bởi vậy y đến viếng vị
hành giả, và hỏi với vẻ khinh miệt: Này đồng bạn Dzogchen, có phải ông chỉ
có thiền mà thôi không?
-- Thế th́ ông không thiền định ǵ cả sao?
Vị hành giả trả lời một câu bất ngờ:
-- Có ǵ để thiền?
-- Thế th́ ông không thiền định ǵ cả sao? vị học giả nói một cách đắc
thắng.
-- Nhưng có bao giờ tôi tán loạn đâu?, vị hành giả đáp.
c). HÀNH: Khi sự an trú trong Tâm bản nhiên trở nên một thực tại,
th́ bắt đầu thấm nhuần sự sống hàng ngày của hành giả, nuôi dưỡng một sự ổn
định, và niềm tin sâu xa. Dudjom Rinpoche nói:
-Hành có nghĩa là thật sự ngấm nh́n những ư tưởng của chính bạn, xấu hay
tốt, nh́n suốt bản chất thật sự của bất cứ ư tưởng nào có thể khởi lên,
không truy tầm quá khứ cũng không mời mọc tương lai, không để cho tâm bám
víu vào một khinh nghiệm hạnh phúc, cũng không để cho nó tràn ngập những
t́nh cảm đau buồn. Khi làm như vậy, bạn cố đạt đến và an trú trong đại xả,
trong đó mọi tốt xấu, an nguy đều không có lai lịch ǵ chân thực.
Sự trực ngộ Kiến một cách tinh vi toàn triệt, sẽ thay đổi cái nh́n của
bạn đối với sự vật. Càng ngày tôi càng nhận rơ rằng chính ư tưởng và khái
niệm đă ngăn cản không để cho chúng ta luôn an trú trong tuyệt đối. Bây giờ
tôi mới hiểu v́ sao thầy tôi dạy: Hăy cố gắng đừng tạo ra quá nhiều hy vọng
hay lo sợ v́ chúng chỉ tổ gây thêm sự bám víu trong tâm. Khi Kiến có mặt,
th́ những ư tưởng được nh́n thấy đúng như bản chất chúng, đó là phù du,
trong suốt, và chỉ có tính cách tương đối. Bạn thấy suốt mọi sự một cách
trực tiếp như thể là bạn có con mắt X-quang. Bạn không bám víu cũng không
xua đuổi những ư tưởng cảm xúc, mà chào tất cả chúng trong ṿng ôm lớn rộng
của Tâm bản nhiên. Những ǵ mà trước đây bạn coi là rất quan trọng--những
tham vọng, kế hoạch, mong đợi, hoài nghi, đam mê--không c̣n khống chế bạn
một cách sâu xa nữa, v́ chánh kiến đă giúp bạn thấy được cái tống rỗng, phi
lư của tất cả chúng nó, nhờ vậy phát sinh trong bạn một tinh thần từ bỏ thật
sự.
An trú trong niềm tin và ánh sáng của Tâm bản nhiên làm cho ư tưởng cảm
xúc bạn được giải tỏa một cách tự nhiên không cần nỗ lực, vào trong không
gian rộng lớn của Tự Tính Tâm, giống như là viết chữ trên mặt nước hay vẽ
trên nền trời. Nếu bạn thật sự tu tập như thế đến chỗ toàn vẹn, th́ nghiệp
không c̣n cơ hội để tích lũy, và trong trạng thái buông xả hoàn toàn ấy,
định luật nhân quả trong ṿng nghiệp báo không c̣n cách nào trói buộc bạn.
Đừng tưởng điều dễ. Thật vô cùng gây go để an trú không xao lăng trong tự
tánh của tâm, dù chỉ trong chốc lát, chứ đừng nói giải tỏa một ư niệm hay
cảm xúc ngay khi nó sinh khởi. Chúng ta thường cho rằng chỉ v́ ḿnh hiểu
được một điều ǵ trên phương diện tri thức, hoặc tưởng ḿnh đă hiểu, mà việc
ấy có nghĩa rằng ḿnh đă thật sự đạt ngộ. Đấy là một ảo tưởng lớn lao. Cần
phải có sự lắng nghe, tư duy, quán tưởng, thiền định và thực hành kiên tŕ.
Và nhứt là thực hành Dzogchen luôn luôn cần sự hướng dẫn và khai đạo của một
bậc thầy đủ tư cách.
Nếu không, th́ sẽ có một mối nguy mà truyền thống nầy gọi là Kiến nuốt
mất Hành. Một giáo lư cao siêu mảnh liệt như Dzogchen kéo theo một nguy cơ
trầm trọng. Khi tự lừa dối ḿnh --tưởng ḿnh đă giải thoát hết tư tưởng cảm
xúc, mà kỳ thực tuyệt nhiên bạn chưa có khả năng làm chuyện ấy; hoặc tưởng
ḿnh đang hành động một cách tự nhiên như thiền sư Dzogchen thực thụ -- th́
bạn chỉ có đang kết nạp, tích lũy vô số ác nghiệp. Như Padmasambhava nói, và
điều nầy chúng ta đều nên có, là:
- Mặc dù Kiến ta bao la như bầu trời, mà hành động và niềm tôn kính đối
với nhân quả nơi ta nhỏ nhiệm, vi tế như hạt bụi.
Ngay trong một hành giả Dzogchen cao cấp nhất, nỗi buồn niềm vui hy vọng
sợ hải vẫn c̣n nổi lên như trước. Cái khác nhau giữa một người thường với
một hành giả là cái cách họ nh́n cảm xúc của họ và phản ứng đối với những
cảm xúc đó. Một người thường sẽ theo bản năng mà chấp nhận hay chối bỏ ngay
những cảm xúc, và thế là khơi dậy ràng buộc hoặc chán ghét, kết quả là tích
lũy thêm ác nghiệp. Nhưng một hành giả Dzogchen th́ nhận ra mọi sự khởi lên
trong trạng thái trong sáng tự nhiên của nó, không để cho sự chấp thủ khởi
lên trong nhận thức của ḿnh.
Dilgo Khientse Rinpoche mô tả một hành giả lang thang qua một khu vườn.
Ông hoàn toàn tĩnh giác trước vẻ đẹp huy hoàng của những đóa hoa, thưởng
thức màu sắc, h́nh dáng, mùi hương của chúng. Nhưng không có một dấu vết nào
của sự bám víu ở nơi ông, hay bất cứ một hậu ư nào trong tâm. Như Dudjom
Rinpoche nói:
- Bất cứ nhận thức ǵ khởi lên, bạn hăy nên làm như một đùa trẻ đi vào
một ngôi chùa trang hoàng lộng lẫy. Nó nh́n mà sự bám víu tuyệt nhiên không
đi vào nhận thức của nó. Cứ thế bạn để mọi sự ở nguyên trong trong trạng
thái mới mẻ, tự nhiên, sống động, , vô nhiễm của nó. Khi bạn để mọi sự ở
nguyên trạng thái nó, th́ h́nh dáng nó không thay đổi, màu sắc không phai
nhạt, vẻ sáng sủa của nó không biến mất. Bất cứ ǵ xăy đến không bị ô nhiểm
bởi chấp thủ nào, bởi thế tất cả ǵ bạn thấy đều khởi lên như là trực giác
trần tục của (Rigpa) Tâm bản nhiên, và vốn là sự ất khả phân của ánh sáng và
hư không.
Sự hài ḷng, tin tưởng, sự trong sáng khoáng đạt, sức mạnh và tính hài
hước sâu xa, niềm xác tính khởi lên do sự trực nhận chánh kiến về Tâm bản
nhiên, là kho tàng vĩ đại nhất của cuộc đời, là hạnh phúc tối thượng, mà một
khi đă đạt đến, th́ không có ǵ phá hủy, ngay cả cái chết.
Dilgo Rinpoche nói:
- Một khi bạn đă có chánh kiến, th́ dù cho những nhận thức lừa dối của
sinh tử vẫn c̣n khởi lên trong tâm, bạn vẫn như bầu trời: khi một cầu ṿng
xuất hiện trước mặt, nó cũng không lấy làm hănh diện, mà khi mây mù xuất
hiện, nó cũng không lấy làm buồn bực. Có một cảm giác sâu xa về sự hài ḷng.
Bên trong bạn cười thầm khi thấy mặt tiền của niết bàn và sinh tử. Chánh
kiến làm cho bạn luôn luôn vui vẻ, một nụ cười hàm tiếu luôn nở trong tâm.
Duljom Rinpoche nói:
- Khi đă thanh lọc ảo tưởng lớn, bóng đen của tâm thức, th́ tia sáng của
mặt trời không bị ngăn bít cứ liên tục chiếu ra. (tr.218 - 237)
-ooOoo-