--------->

 

Contents [go up]

 

 

 

 

Introduction [go up]

 

999

Shortly after her ordination, the Buddha's step-mother, Mahapajapati Gotami, asked him for a short Dhamma-instruction that would guide her in her solitary practice. He responded with eight principles for recognizing what qualifies as Dhamma and Vinaya, and what does not. The commentary tells us that after her instruction, Mahapajapati Gotami in no long time became an arahant.

 

9999

The eight principles have been widely cited ever since. One Thai writer has called them the "constitution of Buddhism" as they form the standards against which the validity of any interpretation of the Dhamma or Vinaya must be judged. Perhaps the most important point that these principles make is that any teaching has to be judged by the results that come when putting it into practice. They are an excellent illustration of the teachings given in the well-known Kalama Sutta (AN 3.65), as well as in the teachings that the Buddha gave to his son, Rahula (MN 61).

 

9999

The Canon illustrates these principles not only with abstract discussions but also with stories, and the stories are often more memorable than the discussions. Thus this study guide differs from its companions in that it is predominantly composed of stories. Bear in mind as you read the stories that they are often framed in somewhat extreme terms to drive their points home. Sister Subha [§1.4], Kali [§2.10], Prince Dighavu [§3.3], and the monk whose limbs are being removed by a saw [§2.10] would not be as memorable if their stories were framed in more realistic terms.

999

Also bear in mind that there is some overlap among the principles, and that a passage may illustrate more than one at a time. Thus, for instance, the story of Ven. Isidatta [§2.11] analyzes the fetter of self-identity views, at the same time illustrating the principles of modesty and non-entanglement. The most extensive overlap is between the principle of dispassion and that of not being fettered, as passion in its various forms covers three of the ten fetters that bind a person to the round of rebirth. Thus the section on dispassion contains passages dealing with how to overcome the three "passion fetters" — sensual passion, passion for the sense of form experienced in the jhanas of form, and passion for the sense of formlessness experienced in the formless jhanas — whereas the section on being unfettered treats the remaining seven fetters.

 

 

999

The Eight Principles [go up]

 

 

999

 

I have heard that at on one occasion the Blessed One was staying at Vesali, in the Peaked Roof Hall in the Great Forest.

 

Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahàvana, ở ngôi nhà có nóc nhọn.

 

Then Mahapajapati Gotami went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, stood to one side. As she was standing there she said to him: "It would be good, lord, if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief such that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell alone, secluded, heedful, ardent, & resolute."

 

Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn: "Lành thay, bạch Thế Tôn ! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần."

 

"Gotami, the qualities of which you may know, 'These qualities lead:

 

"Này Gotamì, những pháp nào bà biết :

 

to passion, not to dispassion;
to being fettered, not to being unfettered;
to accumulating, not to shedding;
to self-aggrandizement, not to modesty;
to discontent, not to contentment;
to entanglement, not to seclusion;
to laziness, not to aroused persistence;
to being burdensome, not to being unburdensome':

 

 

đưa đến tham dục, không phải ly tham;
đưa đến hệ phược, không đưa đến ly hệ phược;
đưa đến tích tập, không đưa đến không tích tập;
đưa đến dục lớn, không đưa đến ít dục;
đưa đến không biết đủ, không đưa đến biết đủ;
đưa đến tụ hội, không đưa đến nhàn tịnh;
đưa đến biếng nhác, không đưa đến tinh tấn;
đưa đến khó nuôi dưỡng, không đưa đến dễ nuôi dưỡng".

 

You may definitely hold, 'This is not the Dhamma, this is not the Vinaya, this is not the Teacher's instruction.'

 

 

Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng : "Đó là không phải Pháp, đó là không phải Luật, đó là không phải lời dạy của bậc Đạo sư".

 

"As for the qualities of which you may know, 'These qualities lead:

 

"Và này Gotamì, những pháp nào bà biết :

 

to dispassion, not to passion;
to being unfettered, not to being fettered;
to shedding, not to accumulating;
to modesty, not to self-aggrandizement;
to contentment, not to discontent;
to seclusion, not to entanglement;
to aroused persistence, not to laziness;
to being unburdensome, not to being burdensome':

 

 

đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục;
đưa đến ly hệ phược, không đưa đến hệ phược;
đưa đến không tích tập, không đưa đến tích tập;
đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn;
đưa đến biết đủ, không đưa đến không biết đủ;
đưa đến nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội;
đưa đến tinh tấn, không đưa đến biếng nhác;
đưa đến dễ nuôi dưỡng, không đưa đến khó nuôi dưỡng".

 

You may definitely hold, 'This is the Dhamma, this is the Vinaya, this is the Teacher's instruction.'"

 

 

Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng : "Đó là phải Pháp, đó là phải Luật, đó là lời dạy của bậc Đạo sư".

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Mahapajapati Gotami delighted at his words.

AN 8.53

 

 

 

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Mahapajapati Gotami hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn

AN 8.53

1. Dispassion [go up]

 

999

 

§ 1.1. I have heard that on one occasion the Blessed One was staying in Gaya, at Gaya Head, with 1,000 monks. There he addressed the monks:

 

 

§ 1.1. Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn trú ở Gàya, tại Gàyasiisa cùng với một ngàn Tỷ-kheo.
Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

 

"Monks, the All is aflame. What All is aflame? The eye is aflame. Forms are aflame. Consciousness at the eye is aflame. Contact at the eye is aflame. And whatever there is that arises in dependence on contact at the eye — experienced as pleasure, pain or neither-pleasure-nor-pain — that too is aflame. Aflame with what? Aflame with the fire of passion, the fire of aversion, the fire of delusion. Aflame, I tell you, with birth, aging & death, with sorrows, lamentations, pains, distresses, & despairs.

 

 

"Tất cả, này các Tỷ-kheo, đều bị bốc cháy. Và này các Tỷ-kheo, tất cả cái gì đều bị bốc cháy?
-Mắt, này các Tỷ-kheo, bị bốc cháy. Các sắc bị bốc cháy. Nhãn thức bị bốc cháy. Nhãn xúc bị bốc cháy. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưa, não.

 

"The ear is aflame. Sounds are aflame...

"The nose is aflame. Aromas are aflame...

"The tongue is aflame. Flavors are aflame...

"The body is aflame. Tactile sensations are aflame...

 

 

Tai bị bốc cháy. Các tiếng bị bốc cháy…
Mũi bị bốc cháy. Các hương bị bốc cháy…
Lưỡi bị bốc cháy. Các vị bị bốc cháy…
Thân bị bốc cháy. Các xúc bị bốc cháy…

"The intellect is aflame. Ideas are aflame. Consciousness at the intellect is aflame. Contact at the intellect is aflame. And whatever there is that arises in dependence on contact at the intellect — experienced as pleasure, pain or neither-pleasure-nor-pain — that too is aflame. Aflame with what? Aflame with the fire of passion, the fire of aversion, the fire of delusion. Aflame, I say, with birth, aging & death, with sorrows, lamentations, pains, distresses, & despairs.

 

 

Ý bị bốc cháy. Các pháp bị bốc cháy. Ý thức bị bốc cháy. Ý xúc bị bốc cháy. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; cảm thọ ấy bị bốc cháy. Bị bốc cháy bởi cái gì? Bị bốc cháy bởi lửa tham, lửa sân, lửa si. Ta nói rằng bị bốc cháy bởi sanh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, não.

 

"Seeing thus, the instructed noble disciple grows disenchanted with the eye, disenchanted with forms, disenchanted with consciousness at the eye, disenchanted with contact at the eye. And whatever there is that arises in dependence on contact at the eye, experienced as pleasure, pain or neither-pleasure-nor-pain: With that, too, he grows disenchanted.

 

 

Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Đa văn Thánh đệ tử nhàm chán đối với mắt, nhàm chán đối với các sắc, nhàm chán đối với nhãn thức, nhàm chán đối với nhãn xúc. Do duyên nhãn xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy.

 

"He grows disenchanted with the ear...

"He grows disenchanted with the nose...

"He grows disenchanted with the tongue...

"He grows disenchanted with the body...

 

 

Vị ấy nhàm chán đối với tai, nhàm chán đối với các tiếng,...
Vị ấy nhàm chán đối với mũi, nhàm chán đối với các hương,...
Vị ấy nhàm chán đối với lưỡi, nhàm chán đối với các vị,...
Vị ấy nhàm chán đối với thân, nhàm chán đối với các xúc,...

 

"He grows disenchanted with the intellect, disenchanted with ideas, disenchanted with consciousness at the intellect, disenchanted with contact at the intellect. And whatever there is that arises in dependence on contact at the intellect, experienced as pleasure, pain or neither-pleasure-nor-pain: He grows disenchanted with that too. Disenchanted, he becomes dispassionate. Through dispassion, he is fully released. With full release, there is the knowledge, 'Fully released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'"

 

 

Vị ấy nhàm chán đối với ý, nhàm chán đối với các pháp, nhàm chán đối với ý thức, nhàm chán đối với ý xúc. Do duyên ý xúc khởi lên cảm thọ gì, lạc, khổ hay bất khổ bất lạc; vị ấy nhàm chán đối với cảm thọ ấy. Do nhàm chán nên vị ấy ly tham. Do ly tham nên vị ấy được giải thoát. Trong sự giải thoát, khởi lên trí hiểu biết rằng: "Ta đã giải thoát". Vị ấy biết rõ: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, những việc nên làm đã làm, không còn trở lui với trạng thái này nữa".

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted at his words. And while this explanation was being given, the hearts of the 1,000 monks, through no clinging (not being sustained), were fully released from fermentation/effluents.

SN 35.28

 

 

Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn dạy. Và trong khi lời giải đáp này được nói lên, tâm của một ngàn Tỷ-kheo ấy được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có chấp thủ.

SN 35.28

§ 1.2. "And how does a monk guard the doors of his senses? On seeing a form with the eye, he does not grasp at any theme or details by which — if he were to dwell without restraint over the faculty of the eye — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail him. On hearing a sound with the ear... On smelling an odor with the nose... On tasting a flavor with the tongue... On touching a tactile sensation with the body... On cognizing an idea with the intellect, he does not grasp at any theme or details by which — if he were to dwell without restraint over the faculty of the intellect — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail him. Endowed with this noble restraint over the sense faculties, he is inwardly sensitive to the pleasure of being blameless. This is how a monk guards the doors of his senses."

DN 2

 

 

§ 1.2. " Và thế nào là Tỷ Kheo hộ trì các căn? Khi mắt thấy sắc, Tỷ Kheo không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì, khiến nhãn căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ Kheo tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì nhãn căn, thực hành sự hộ trì nhãn căn. Khi tai nghe tiếng…, mũi ngửi hương…, thân cảm xúc…, ý nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân gì khiến ý căn không được chế ngự, khiến tham ái, ưu bi, các ác, bất thiện pháp khởi lên, Tỷ Kheo chế ngự nguyên nhân ấy, hộ trì ý căn, thực hành sự hộ trì ý căn. Vị ấy, nhờ sự hộ trì cao quý các căn ấy, nên hưởng lạc thọ nội tâm, không vẩn đục. Như vậy Tỷ Kheo hộ trì các căn."

DN 2

§ 1.3.
[Sister Nanda:]
"Sick, putrid, unclean:
look, Nanda, at this physical heap.
Through contemplation of the foul,
develop your mind,
make it one, well-centered.

          As this [your body], so that.
As that, so this.
It gives off a foul stench,
the delight of fools."

Considering it thus,
untiring, both day & night,
I, with my own discernment
dissecting it,
saw.

And as I, heedful,
examined it aptly,
this body — as it actually is —
was seen inside & out.

Then was I disenchanted with the body
& dispassionate within:
Heedful, detached,
calmed was I.

                    Unbound.
Thig 5.4

 

 

§ 1.3.

[Sister Nanda:]

Nandà, hãy nhìn thân,
Bệnh bất tịnh, hôi thúi,
Hãy tu tâm bất tịnh,
Nhứt tâm khéo định tỉnh.


Như thân này thân ấy,
Như thân ấy thân này,
Hôi thối và rữa nát,
Chỉ kẻ ngu thích thú.

Như vậy quán thân này,
Ngày đêm không mệt mỏi,
Với trí tuệ của con,
Do vậy hãy thoát ly,
Với trí tuệ của con,
Thoát khỏi kiêu sắc đẹp,
Và người si nhìn thấy,
Với cái nhìn như thật.


Với tâm không phóng dật,
Như lý, quán thân ấy,
Tánh như thật thân này,
Ðược thấy trong và ngoài.


Ta nhàm chán thân thể,
Nội tâm được ly tham,
Không phóng dật ly hệ,
Ta an bình tịch tịnh.

Thig 5.4

 

§ 1.4. As Subha the nun was going through Jivaka's delightful mango grove, a libertine (a goldsmith's son) blocked her path, so she said to him:

 

 

 

§ 1.4. Trong rừng xoài tươi đẹp, Của ông Jivaka, Tỷ-kheo-ni Subhà, Ðang bộ hành đi tới, Có chàng trẻ ăn chơi Ngăn chặn Subhà lại Nàng nói lên người ấy Những lời nói như sau.

 

'What wrong have I done you
that you stand in my way?
It's not proper, my friend,
that a man should touch
a woman gone forth.
I respect the Master's message,
the training pointed out by the one well-gone.
I am pure, without blemish:
Why do you stand in my way?
You — your mind agitated, impassioned;
I — unagitated, unimpassioned,
with a mind entirely freed:
Why do you stand in my way?'

'You are young & not bad-looking,
what need do you have for going forth?
Throw off your ochre robe —
Come, let's delight in the flowering grove.
A sweetness they exude everywhere,
the towering trees with their pollen.
The beginning of spring is a pleasant season —
Come, let's delight in the flowering grove.
The trees with their blossoming tips
moan, as it were, in the breeze:
What delight will you have
if you plunge into the grove alone?
Frequented by herds of wild beasts,
disturbed by elephants rutting & aroused:
you want to go
unaccompanied
into the great, lonely, frightening grove?
Like a doll made of gold, you will go about,
like a goddess in the gardens of heaven.
With delicate, smooth Kasi fabrics,
you will shine, O beauty without compare.
I would gladly do your every bidding
if we were to dwell in the glade.
For there is no creature dearer to me
than you, O nymph with the languid regard.
If you do as I ask, happy, come live in my house.
Dwelling in the calm of a palace,
have women wait on you,
wear delicate Kasi fabrics,
adorn yourself with garlands & creams.
I will make you many & varied ornaments
of gold, jewels, & pearls.
Climb onto a costly bed,
scented with sandalwood carvings,
with a well-washed coverlet, beautiful,
spread with a woolen quilt, brand new.
Like a blue lotus rising from the water
where there dwell non-human beings,
you will go to old age with your limbs unseen,
if you stay as you are in the holy life.'

'What do you assume of any essence,
here in this cemetery grower, filled with corpses,
this body destined to break up?
What do you see when you look at me,
you who are out of your mind?'

          'Your eyes
are like those of a fawn,
like those of a sprite in the mountains.
Seeing your eyes, my sensual delight
grows all the more.
Like tips they are, of blue lotuses,
in your golden face
— spotless:
Seeing your eyes, my sensual delight
grows all the more.
Even if you should go far away,
I will think only of your pure,
long-lashed gaze,
for there is nothing dearer to me
than your eyes, O nymph with the languid regard.'

'You want to stray from the road,
you want the moon as a plaything,
you want to jump over Mount Sineru,
you who have designs on one born of the Buddha.
For there is nothing anywhere at all
in the cosmos with its gods,
that would be an object of passion for me.
I don't even know what that passion would be,
for it's been killed, root & all, by the path.
Like embers from a pit — scattered,
like a bowl of poison — evaporated,
I don't even see what that passion would be,
for it's been killed, root & all, by the path.
Try to seduce one who hasn't reflected on this,
or who has not followed the Master's teaching.
But try it with this one who knows
and you suffer.
For in the midst of praise & blame,
pleasure & pain,
my mindfulness stands firm.
Knowing the unattractiveness
of things compounded,
my mind cleaves to nothing at all.
I am a follower of the one well-gone,
riding the vehicle of the eightfold way:
My arrow removed, effluent-free,
I delight, having gone to an empty dwelling.
For I have seen well-painted puppets,
hitched up with sticks & strings,
made to dance in various ways.
When the sticks & strings are removed,
thrown away, scattered, shredded,
smashed into pieces, not to be found,
in what will the mind there make its home?
This body of mine, which is just like that,
when devoid of dhammas doesn't function.
When, devoid of dhammas, it doesn't function,
in what will the mind there make its home?
Like a mural you've seen, painted on a wall,
smeared with yellow orpiment,
there your vision has been distorted,
meaningless your human perception.
Like an evaporated mirage,
like a tree of gold in a dream,
like a magic show in the midst of a crowd —
you run blind after what is unreal.
Resembling a ball of sealing wax,
set in a hollow,
with a bubble in the middle
and bathed with tears,
eye secretions are born there too:
The parts of the eye
are rolled all together
in various ways.'

Plucking out her lovely eye,
with mind unattached
she felt no regret.

'Here, take this eye. It's yours.'

Straightaway she gave it to him.
Straightaway his passion faded right there,
and he begged her forgiveness.

'Be well, follower of the holy life.
This sort of thing
won't happen again.
Harming a person like you
is like embracing a blazing fire.
It's as if I have seized a poisonous snake.
So may you be well. Forgive me.'

And released from there, the nun
went to the excellent Buddha's presence.
When she saw the mark of his excellent merit,
her eye became
as it was before.
Thig 14

 

 

Ta đã xúc phạm gì,
Ðể chàng đứng chận tôi?
Thật là không xứng đáng
Ðể một người đàn ông
Xúc phạm nữ xuất gia,
Hỡi Hiền giả, hiểu cho.
Bậc Tôn sư ta dạy,
Chính học pháp như vậy,
Ðược bậc Thiện Thệ thuyết,
Là con đường thanh tịnh,
Không có cấu uế nào.
Sao chàng đứng chận ta.
Tâm ta thật thanh tịnh,
Tâm người không thanh tịnh,
Tâm người đầy tham ái,
Ta không tham, không uế,
Mọi nơi, ý giải thoát
Sao chàng đứng chận ta?
Nàng trẻ, không ác pháp,
Nàng xuất gia làm gì?
Hãy bỏ áo Cà sa!
Ðến, lạc hưởng rừng hoa.
Toàn hoa tỏa hương ngát,
Cây rưới bụi muôn hoa,
Xem tuổi xuân tuổi trẻ,
Là thời tiết hạnh phúc,
Hãy đến thọ hưởng lạc
Trong rừng nở trăm hoa.
Con đường dưới vòm hoa,
Xào xạc gió lay động,
Nàng được lạc thú gì,
Khi một mình vào rừng.
Trú xứ chúng thú dữ,
Vang tiếng voi rống dục,
Rừng lớn trống không người,
Nhiều hiện tượng hãi hùng,
Nàng lại muốn đi vào,
Không một ai bạn đường?
Như búp bê vàng chói,
Giống tiên nữ vườn trời,
Nàng đắp vải Kàsi,
Ðẹp mịn, sáng chói nàng.
Ta sống nô lệ nàng,
Nếu nàng sống ở rừng,
Không một sanh loại nào,
Mà ta yêu hơn nàng,
Hỡi nàng mắt dịu hiền,
Như mắt Kin-na-rì.
Nếu nàng theo lời ta,
Nàng sẽ được hạnh phúc,
Hạnh phúc sống gia đình,
Sống lâu đài che gió,
Sống có các nữ nhân,
Hầu hạ phục vụ nàng.
Mang lụa mịn Kàsi,
Dùng vòng hoa, sáp đỏ,
Ta làm nhiều trang sức,
Vàng châu báu ngọc ngà.
Nàng leo lên giường quý,
Gỗ chiên đàn, lỏi thơm,
Che màn đẹp tinh sạch,
Trải nệm mới lông dài.
Như sen vươn từ nước,
Phục vụ cho phi nhân,
Như vậy nàng Phạm hạnh,
Sống toàn hảo đến già.
Ở đây là cái gì,
Chàng xem là tuyệt diệu,
Trong nghĩa địa ứ đầy,
Tràn đầy những thân xác,
Chàng được thấy cái gì,
Trong thân xác hủy hoại,
Khi chàng thốt ra lời,
Si mê, vô ý thức?
Chính mắt như sơn dương,
Như Kinri giữa rừng,
Ta thấy con mắt nàng,
Dục lạc liền tăng trưởng.
Trong gương mặt không uế,
Sáng chói như vàng ròng,
Chẳng khác gì hoa sen,
Ðặt chính giữa đài sen,
Thấy con mắt của nàng,
Lòng dục liền tăng trưởng.
Tuy xa ta vẫn nhớ,
Lông mi dài tuyệt đẹp,
Không gì ta yêu hơn,
Mắt Kinri của nàng.
Chàng muốn dùng phi đạo,
Tìm mặt trăng mà chơi,
Muốn nhảy qua Mê-ru,
Muốn tìm đến con Phật.
Trên đời này, cõi trời,
Ta nay không tham ái.
Ta không biết người ấy,
Người ấy như thế nào,
Ðường đạo đã giết sạch,
Giết hại tận gốc rễ.
Quăng đi như hố than,
Than hừng đang cháy đỏ,
Ðánh giá như thuốc độc,
Ðang xâm nhập đến thân,
Ta không biết người ấy,
Người ấy như thế nào,
Ðường đạo đã giết sạch,
Giết hại đến gốc rễ.
Hãy cám dỗ nữ nhân,
Không có biết quán sát,
Hay Ðạo Sư người ấy,
Ðang còn phải học tập,
Chàng mê hoặc người ấy,
Làm hại được người ấy.
Còn ta đã chánh niệm,
Ðối khen chê lạc khổ,
Biết hữu vi bất tịnh,
Bám chặt tư tưởng ấy.
Ta là đệ tử Ni,
Của bậc đại Thiện Thệ,
Ta đã dấn thân bước
Trên đường đạo tám ngành,
Mũi tên đã nhổ lên
Không còn các lậu hoặc,
Ta đi đến nhà trống,
Tâm tư ta hoan hỷ.
Ta đã được thấy nó,
Một búp bê khéo vẽ,
Với trục quay gỗ mới,
Khéo cột với dây que,
Búp bê ấy nhảy múa,
Nhiều điệu múa khác nhau.
Dây que ấy được rút,
Mở lòng rời phân tán,
Thành trống không, miếng nhỏ,
Chỗ nào ý say đắm.
Thân ta ví dụ vậy,
Không bộ phận không động.
Không bộ phận, không động.
Chỗ này ý say đắm.
Như thấy một bức vẽ,
Tô màu đỏ trên tường,
Cái thấy chàng đảo lộn,
Vì trí người thiếu sót.
Ảo thuật xem tối thượng,
Như cây vàng trong mộng,
Mù lòa ngươi chạy theo,
Cái trống không, không thực,
Như cái trò múa rối,
Ðược xem giữa quần chúng.
Mắt nàng như hòn bi,
Ðặt lỗ trống của cây,
Như những bong bóng nước,
Ðầy dẫy những nước mát,
Những con người đa dạng,
Sanh ra những mủ ghèn.
Thiếu nữ đẹp tuyệt ấy,
Với tâm không chấp trước,
Bóc một con mắt nàng.
Trao liền cho người ấy,
Và nói hãy cầm lấy,
Con mắt này của người.
Khi ấy tham liền diệt,
Chàng khẩn cầu xin lỗi,
Mong rằng Phạm hạnh ni,
Ðược an ổn trở lại,
Tôi sẽ không còn dám,
Xâm phạm thế này nữa.
Hại hạng người thế này,
Chẳng khác ôm lửa hừng,
Tôi như nắm rắn độc,
Mong an ổn tha thứ.
Thoát khỏi bị xúc phạm,
Vị Tỷ-kheo-ni ấy,
Từ đấy đi đến gần
Bậc Giác ngộ thù thắng,
Thấy được tướng công đức,
Tốt đẹp và thù thắng,
Mắt của nàng hồi phục,
Ðược trở lại như xưa.

Thig 14

 

§ 1.5. Now at that time Ven. Anuruddha, going through the Kosalan countryside on his way to Savatthi, arrived in the evening at a certain village. And at that time a rest house had been set up by a woman in that village. So Ven. Anuruddha went to the woman and, on arrival, said to her, "If it is no inconvenience for you, sister, I will stay for one night in the rest house."

 

 

999

 

"You are welcome to stay, venerable sir."

 

 

999

 

Then other travelers went to that woman and, on arrival, said, "If it is no inconvenience for you, lady, we will stay for one night in the rest house."

 

 

999

 

"This master has arrived first. If he gives his permission, you may stay."

 

 

999

 

So the travelers went to Ven. Anuruddha and on arrival said to him, "If it is no inconvenience for you, venerable sir, we will stay for one night in the rest house."

 

 

999

 

"You are welcome to stay, friends."

 

 

999

.

Now it so happened that the woman had fallen in love with Ven. Anuruddha at first sight, so she went to him and said, "The master will not be comfortable, crowded with these people. It would be good if I were to prepare a bed inside for the master."

 

 

999

 

Ven. Anuruddha consented by remaining silence.

 

 

999

 

Then the woman, having herself prepared a bed inside for Ven. Anuruddha, having put on her jewelry and scented herself with perfumes, went to him and said, "Master, you are beautiful, good-looking, and appealing. I, too, am beautiful, good-looking, & appealing. It would be good if I were to be your wife."

 

999

 

When this was said, Ven. Anuruddha remained silent. So a second time... A third time she said to him, "Master, you are beautiful, good-looking, & appealing. I too am beautiful, good-looking, & appealing. Please take me together with all my wealth."

 

 

999

 

A third time, Ven. Anuruddha remained silent. So the woman, having slipped off her upper cloak, paraded up & down in front of him, stood, sat down, & then lay down right in front of him. But Ven. Anuruddha, keeping control of his faculties, didn't as much as glance at her or say even a word.

 

 

999

 

Then the thought occurred to her: "Isn't it amazing! Isn't it astounding! Many men send for me at a price of 100 or even 1,000 (a night), but this contemplative, even when I myself beg him, doesn't want to take me together with all of my wealth!" So, putting her upper cloak back on and bowing her head at his feet, she said to him: "Venerable sir, a transgression has overcome me in that I was so foolish, so muddle-headed, & so unskillful as to act in such a way. Please accept this confession of my transgression as such, so that I may restrain myself in the future."

 

 

 

999

 

 

"Yes, sister, a transgression overcame you in that you were so foolish, so muddle-headed, & so unskillful as to act in such a way. But because you see your transgression as such and make amends in accordance with the Dhamma, we accept your confession. For it is a cause of growth in the Dhamma & Discipline of the noble ones when, seeing a transgression as such, one makes amends in accordance with the Dhamma and exercises restraint in the future."

 

 

999

 

Then, when the night had passed, the woman, with her own hand, served & satisfied Ven. Anuruddha with excellent staple and non-staple food. When Ven. Anuruddha had eaten & removed his hand from his bowl, she sat to one side. As she was sitting there, Ven. Anuruddha instructed, urged, roused, & encouraged her with a talk on Dhamma. Then the woman, having been instructed, urged, roused, & encouraged by Ven. Anuruddha with a talk on Dhamma, said to him, "Magnificent, venerable sir! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has Ven. Anuruddha — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma, and to the Community of monks. May the master remember me as a lay follower who has gone for refuge from this day forward for life."

— Pacittiya 6 (See Introduction to the Patimokkha Rules)

 

 

999

 

§ 1.6. "Quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, he enters and remains in the first jhana: rapture and pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought and evaluation. He permeates and pervades, suffuses and fills this very body with the rapture and pleasure born from withdrawal. Just as if a skilled bathman or bathman's apprentice would pour bath powder into a brass basin and knead it together, sprinkling it again and again with water, so that his ball of bath powder — saturated, moisture-laden, permeated within and without — would nevertheless not drip; even so, the monk permeates... this very body with the rapture and pleasure born of withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture and pleasure born from withdrawal. This is a fruit of the contemplative life, visible here and now, more excellent than the previous ones and more sublime.

 

 

§ 1.6. " Khi quán tự thân đã xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh. Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Như một người hầu tắm lão luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột tắm ấy được thấm nhuần nước ướt, trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân hình với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không đuợc hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước. 

 

"Furthermore, with the stilling of directed thoughts & evaluations, he enters and remains in the second jhana: rapture and pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought and evaluation — internal assurance. He permeates and pervades, suffuses and fills this very body with the rapture and pleasure born of composure. Just like a lake with spring-water welling up from within, having no inflow from the east, west, north, or south, and with the skies supplying abundant showers time and again, so that the cool fount of water welling up from within the lake would permeate and pervade, suffuse and fill it with cool waters, there being no part of the lake unpervaded by the cool waters; even so, the monk permeates... this very body with the rapture and pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture and pleasure born of composure. This, too, is a fruit of the contemplative life, visible here and now, more excellent than the previous ones and more sublime.

 

 

"Lại nữa, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.

 

"And furthermore, with the fading of rapture, he remains in equanimity, is mindful & alert, and senses pleasure with the body. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' He permeates and pervades, suffuses and fills this very body with the pleasure divested of rapture. Just as in a lotus pond, some of the lotuses, born and growing in the water, stay immersed in the water and flourish without standing up out of the water, so that they are permeated and pervaded, suffused and filled with cool water from their roots to their tips, and nothing of those lotuses would be unpervaded with cool water; even so, the monk permeates... this very body with the pleasure divested of rapture. There is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture. This, too, is a fruit of the contemplative life, visible here and now, more excellent than the previous ones and more sublime.

 

 

"Lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉmh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là “Xả niệm lạc trú”, chứng và an trú thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước,  từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung mãn, tràn đầy thân mình với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước.

 

"And furthermore, with the abandoning of pleasure and pain — as with the earlier disappearance of elation and distress — he enters and remains in the fourth jhana: purity of equanimity and mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He sits, permeating the body with a pure, bright awareness. Just as if a man were sitting covered from head to foot with a white cloth so that there would be no part of his body to which the white cloth did not extend; even so, the monk sits, permeating the body with a pure, bright awareness. There is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness. This, too, great king, is a fruit of the contemplative life, visible here and now, more excellent than the previous ones and more sublime."

DN 2

 

 

"Lại nữa, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần tòan thân mình với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần toàn thân mình với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Đó là quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn, còn vi diệu thù thắng hơn những quả thiết thực hiện tại của hạnh Sa-môn trước."

DN 2

§ 1.7. "'I tell you, the ending of the effluents depends on the first jhana.' Thus it has been said. In reference to what was it said?... Suppose that an archer or archer's apprentice were to practice on a straw man or mound of clay, so that after a while he would become able to shoot long distances, to fire accurate shots in rapid succession, and to pierce great masses. In the same way, there is the case where a monk... enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born of withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He regards whatever phenomena there that are connected with form, feeling, perception, fabrications, & consciousness, as inconstant, stressful, a disease, a cancer, an arrow, painful, an affliction, alien, a disintegration, an emptiness, not-self. He turns his mind away from those phenomena, and having done so, inclines his mind to the property of deathlessness: 'This is peace, this is exquisite — the resolution of all fabrications; the relinquishment of all acquisitions; the ending of craving; dispassion; cessation; Unbinding.'

 

 

§ 1.7. "Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng: "Y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận", như vậy được nói đến. Do duyên gì, được nói đến như vậy?... Ví như người bắn cung, hay đệ tử người bắn cung tập bắn trên một hình nộm bằng cỏ hay trên đống đất sét, rồi người ấy có thể trở thành một người bắn xa, bắn nhanh, bắn thủng qua vật dày lớn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng đạt và an trú sơ Thiền, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh có tầm và tứ. Vị ấy ở đây, đối với cái gì thuộc về sắc, thuộc về thọ, thuộc về tưởng, thuộc về hành, thuộc về thức, các pháp ấy, vị ấy tùy quán là vô thường, là khổ, là bệnh, là mụt nhọt, là mũi tên, là va chạm, là tật bệnh, là khác lạ, là biến hoại, là trống không, là vô ngã. Vị ấy tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm mình khỏi những pháp ấy, sau khi tránh né tâm khỏi những pháp ấy, vị ấy hướng dẫn đến giới bất tử: "Đây là tịch tịnh, đây là thù thắng, tức là sự chỉ tức tất cả hành, sự từ bỏ tất cả sanh y, sự diệt tận khát ái, ly tham, chứng đạt Niết-bàn".

 

"Staying right there, he reaches the ending of the mental effluents. Or, if not, then — through this very dhamma-passion, this very dhamma-delight, and from the total wasting away of the first five of the Fetters [self-identity views, grasping at precepts & practices, uncertainty, sensual passion, and resistance] — he is due to be reborn [in the Pure Abodes], there to be totally unbound, never again to return from that world.

 

 

 

Vị ấy trú ở đây, đạt đến sự diệt tận các lậu hoặc. Nếu không diệt tận các lậu hoặc, với pháp ái ấy, với pháp hỷ ấy, do đoạn tận năm hạ phần kiết sử, vị ấy là vị hóa sanh, tại đấy chứng được Niết-bàn, không còn trở lui thế giới này nữa.

 

"'I tell you, the ending of the effluents depends on the first jhana.' Thus was it said, and in reference to this was it said.

 

 

Này các Tỷ-kheo, Ta nói y chỉ vào sơ Thiền, các lậu hoặc được đoạn tận, như vậy được nói đến. Do duyên này, được nói đến.

 

(Similarly with the other levels of jhana up through the dimension of nothingness.)

 

 

(Tương tự như vậy cho các tầng Thiền cao hơn, đến Vô sở hữu xứ.)

 

"Thus, as far as the perception-attainments go, that is as far as gnosis-penetration goes. As for these two spheres — the attainment of the dimension of neither perception nor non-perception & the attainment of the cessation of feeling & perception — I tell you that they are to be rightly explained by those monks who are meditators, skilled in attaining, skilled in attaining & emerging, who have attained & emerged in dependence on them."

AN 9.36

 

 

"Như vậy, xa cho đến các tưởng Thiền chứng, cho đến như vậy, cần phải lấy trí để thể nhập. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, các xứ này, như Phi tưởng phi phi tưởng Thiền chứng và Diệt thọ tưởng là những xứ, các Tỷ-kheo Thiền quán, khéo léo chứng nhập, khéo léo khởi xuất, các xứ ấy cần phải được chơn chánh làm cho biết rõ".

AN 9.36

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

  Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | Trang kế| trở về đầu trang | Home page |