Living With the Cobra |
Sống Với Rắn Độc |
(A brief talk given as final instruction to an elderly Englishwoman who spent two months under the guidance of Ajahn Chah at the end of 1978 and beginning of 1979.) |
(Dưới đây là một bài Pháp ngắn do Ngài Ajahn Chah thuyết giảng cho một cụ bà người Anh vừa trải qua thời gian hai tháng, vào cuối năm 1978 và đầu năm 1979, tu học dưới sự hướng dẫn của Ngài, trước khi cụ bà lên đường về xứ). |
This short talk is for the benefit of a new disciple who will soon be returning to London. May it serve to help you understand the Teaching that you have studied here at Wat Pah Pong. Most simply, this is the practice to be free of suffering in the cycle of birth and death. |
Đây là thời Pháp được thuyết giảng v́ lợi ích của một vị đệ tử mới, sắp lên đường trở về Luân Đôn (London). Ước mong rằng những lời dạy nầy sẽ giúp Cụ lănh hội Giáo Huấn đă thọ nhận tại Wat Pah Pong nầy. Một cách giản dị, đây là pháp hành nhằm vượt thoát ra khỏi mọi khổ đau của ṿng luân hồi. |
In order to do this practice, remember to regard all the various activities of mind, all those you like and all those you dislike, in the same way as you would regard a cobra. The cobra is an extremely poisonous snake, poisonous enough to cause death if it should bite us. And so, also, it is with our moods; the moods that we like are poisonous, the moods that we dislike are also poisonous. They prevent our minds from being free and hinder our understanding of the Truth as it was taught by the Buddha. |
Nhằm thực hành pháp môn nầy xin Cụ hăy ghi nhớ nằm ḷng: phải nh́n tất cả mọi sinh hoạt khác nhau của tâm, tất cả những ǵ Cụ ưa thích và tất cả những ǵ Cụ ghét bỏ, giống như Cụ nh́n một con rắn độc. Rắn độc vô cùng nguy hiểm. Nọc độc của rắn đủ sức làm cho ta chết ngay nếu vô phúc bị nó cắn. Những cơn vui buồn thương ghét của ta cũng dường thế ấy. Những cơn vui mà ta ưa thích là con rắn độc, và những cơn buồn mà ta ghét bỏ cũng là con rắn độc. Cả hai đều ngăn ngừa không để cho tâm của ta được tự do, và tạo chướng ngại, không cho chúng ta thông hiểu chân lư đúng theo như Đức Phật dạy. |
Thus is it necessary to try to maintain our mindfulness throughout the day and night. Whatever you may be doing, be it standing, sitting, lying down, speaking or whatever, you should do with mindfulness. When you are able to establish this mindfulness, you'll find that there will arise clear comprehension associated with it, and these two conditions will bring about wisdom. Thus mindfulness, clear comprehension and wisdom will work together, and you'll be like one who is awake both day and night. |
Như vậy cần phải cố gắng, ngày đêm gia công bảo tŕ chánh niệm. Dầu trong lúc đang làm ǵ, đi, đứng, nằm, ngồi, nói chuyện hay bất luận làm ǵ khác, luôn luôn phải làm với chánh niệm. Khi niệm được củng cố vững vàng, sự hiểu biết rơ ràng sẽ phát sanh, chung hợp với niệm. Niệm và hiểu biết rơ ràng sẽ khởi duyên cho trí tuệ phát sanh. Như vậy niệm, hiểu biết rơ ràng và trí tuệ cùng chung nhau sinh hoạt và lúc ấy ta sẽ như người ngày đêm "thức tỉnh". |
These Teachings left us by the Buddha are not Teachings to be just listened to, or simply absorbed on an intellectual level. They are Teachings that through practice can be made to arise and known in our hearts. Wherever we go, whatever we do, we should have these Teachings. And what we mean by "to have these Teachings" or "to have the Truth," is that, whatever we do or say, we do and say with wisdom. When we think and contemplate, we do so with wisdom. We say that one who has mindfulness and clear comprehension combined in this way with wisdom, is one who is close to the Buddha. |
Những Lời Dạy mà Đức Phật ban truyền cho chúng ta không phải là Giáo Huấn chỉ để nghe suông, hoặc chỉ giản dị để lănh hội ở mức độ trí thức. Những Lời Dạy ấy là Giáo Huấn mà xuyên qua pháp hành, có thể thấm nhuần ăn sâu vào tâm thức. Dầu đi đâu hay làm ǵ ta luôn luôn có những Lời Dạy ấy. Ư nghĩa của đoạn "có những Lời Dạy ấy", hay "có Chân Lư" là: dầu chúng ta làm ǵ, dầu nói ǵ, chúng ta luôn luôn nói và làm với trí tuệ. Khi suy tư hay quán niệm, chúng ta suy tư và quán niệm với trí tuệ. Chúng ta nói rằng người có chánh niệm và giác tỉnh -- niệm, hiểu biết rơ ràng, phối hợp với trí tuệ như vậy là người sống gần Đức Phật. |
When you leave here, you should practice bringing everything back to your own mind. Look at your mind with this mindfulness and clear comprehension and develop this wisdom. With these three conditions there will arise a "letting go." You'll know the constant arising and passing away of all phenomena. |
Khi rời nơi nầy Cụ phải gia công đưa tất cả trở vào tâm ḿnh. Hăy nh́n cái tâm của ḿnh với chánh niệm, hiểu biết rơ ràng, và phát triển trí tuệ. Với ba yếu tố ấy chung hợp lại sẽ phát sanh trạng thái "buông xả", để cho tất cả đi qua, không dính mắc hay bám níu vào bất cứ ǵ. Cụ sẽ nhận thức rằng tất cả mọi hiện tượng đều luôn luôn sanh và diệt. |
You should know that that which is arising and passing away is only the activity of mind. When something arises, it passes away and is followed by further arising and passing away. In the Way of Dhamma we call this arising and passing away "birth and death"; and this is everything — this is all there is! When suffering has arisen, it passes away, and, when it has passed away, suffering arises again.14 There's just suffering arising and passing away. When you see this much, you'll be able to know constantly this arising and passing away; and, when your knowing is constant, you'll see that this is really all there is. Everything is just birth and death. It's not as if there is anything which carries on. There's just this arising and passing away as it is — that's all. |
Cụ phải biết rằng cái ǵ phát sanh và hoại diệt chỉ là sinh hoạt của tâm. Khi một hiện tượng phát sanh nó liền hoại diệt, và liền theo đó chuỗi dài sanh-diệt không ngừng tiếp nối với nhau. Trong ngôn ngữ của Giáo Pháp ta gọi sự sanh diệt ấy là "sanh và tử", và đó là tất cả. Tất cả chỉ là vậy! Khi đau khổ phát sanh, nó liền trôi qua. Và khi nó trôi qua đau khổ phát sanh trở lại [*]. Chỉ có đau khổ phát sanh và hoại diệt. Khi thấy được bấy nhiêu Cụ sẽ có thể thấu hiểu một cách thường xuyên trạng thái sanh và diệt, và khi thông suốt như vậy Cụ sẽ thấy rằng trong thực tế chỉ có thế. Tất cả mọi sự vật chỉ là sanh và tử, không có bất luận ǵ tồn tại. Chỉ có sanh và diệt như thế ấy. Chỉ thế thôi! |
|
[*] Nơi đây danh từ "đau khổ" hàm xúc đặc tướng bất toại nguyện của tất cả mọi kiếp sinh tồn trong thế gian vô thường luôn luôn biến đổi nầy. Ở đây không phải là sự đau khổ như thông thường được hiểu, nghịch nghĩa với hạnh phúc. |
This kind of seeing will give rise to a tranquil feeling of dispassion towards the world. Such a feeling arises when we see that actually there is nothing worth wanting; there is only arising and passing away, a being born followed by a dying. This is when the mind arrives at "letting go," letting everything go according to its own nature. Things arise and pass away in our mind, and we know. When happiness arises, we know; when dissatisfaction arises, we know. And this "knowing happiness" means that we don't identify with it as being ours. And likewise with dissatisfaction and unhappiness, we don't identify with them as being ours. When we no longer identify with and cling to happiness and suffering, we are simply left with the natural way of things. |
Lối nh́n nầy sẽ khơi động cảm giác thản nhiên an tĩnh đối với thế gian. Một cảm giác tương tợ phát sanh khi ta nhận thức rằng trong thực tế không có ǵ đáng được ham muốn; chỉ có sanh và diệt. Chúng sanh vào đời rồi từ giă cuộc đời. Đó là khi tâm tiến đạt đến "buông bỏ", để cho tất cả mọi sự vật trôi qua theo bản chất thiên nhiên của nó. Sự vật phát sanh rồi hoại diệt ngay trong tâm của ta, và ta thông hiểu như vậy. Khi hạnh phúc phát sanh, ta thấu hiểu. "Hiểu biết hạnh phúc" có nghĩa là ta không tự đồng hóa ḿnh với nó, không xem hạnh phúc là "của ḿnh". Và cùng thế ấy, ta không đồng hóa và xem bất toại nguyện và những điều bất hạnh là "của ta". Khi đă không c̣n tự đồng hóa ḿnh với, và bám níu vào, hạnh phúc và đau khổ, ta chỉ tách rời, sống riêng với đường lối thiên nhiên của vạn hữu. |
So we say that mental activity is like the deadly poisonous cobra. If we don't interfere with a cobra, it simply goes its own way. Even though it may be extremely poisonous, we are not affected by it; we don't go near it or take hold of it, and it doesn't bite us. The cobra does what is natural for a cobra to do. That's the way it is. If you are clever you'll leave it alone. And so you let be that which is good. You also let be that which is not good — let it be according to its own nature. Let be your liking and your disliking, the same way as you don't interfere with the cobra. |
V́ lẽ ấy chúng ta nói rằng sinh hoạt tâm linh cũng tựa hồ như con rắn độc. Nếu ta không động đến rắn th́ nó chỉ theo con đường của nó. Mặc dầu là rắn độc, dầu nọc độc của nó vô cùng nguy hiểm và nếu bị nó cắn ắt không phương cứu chữa, nhưng nếu không đến gần nó hay không nắm bắt nó ta vẫn không hề ǵ. Nó sẽ không cắn ta. Rắn độc chỉ hành động theo bản chất thiên nhiên của một con rắn độc. Nó là vậy! Nếu là người sáng suốt ta cứ để nó yên một ḿnh. Cùng thế ấy, hăy buông bỏ những ǵ tốt đẹp, để nó yên. Ta cũng để yên những ǵ không tốt đẹp -- hăy để cho nó theo bản chất thiên nhiên của nó. Hăy để yên những ǵ ta ưa thích và những ǵ ta ghét bỏ, cũng như ta để yên, không động đến con rắn độc. |
So, one who is intelligent will have this kind of attitude towards the various moods that arise in the mind. When goodness arises, we let it be good, but we know also. We understand its nature. And, too, we let be the not-good, we let it be according to its nature. We don't take hold of it because we don't want anything. We don't want evil, neither do we want good. We want neither heaviness nor lightness, happiness nor suffering. When, in this way, our wanting is at an end, peace is firmly established. |
Vậy người thông minh sáng suốt sẽ có thái độ tương tợ, đối với những cơn vui buồn khác nhau phát sanh đến tâm ḿnh. Khi điều tốt đẹp khởi sanh, hăy để yên cho nó tốt đẹp, nhưng ta cũng thấu hiểu. Ta thấu hiểu bản chất thiên nhiên của nó. Khi điều không tốt đẹp khởi phát cũng vậy, hăy để yên cho nó theo đúng bản chất thiên nhiên của nó. Không nắm giữ lại, bởi v́ chúng ta không muốn ǵ cả. Chúng ta không muốn điều xấu, cũng không muốn điều tốt. Chúng ta không muốn nặng, cũng không muốn nhẹ, không muốn hạnh phúc cũng không muốn đau khổ. Đến chừng ấy, bằng đường lối nầy, ḷng ham muốn chấm dứt và trạng thái thanh b́nh an lạc được củng cố vững chắc. |
When we have this kind of peace established in our minds, we can depend on it. This peace, we say, has arisen out of confusion. Confusion has ended. The Buddha called the attainment of final Enlightenment an "extinguishing," in the same way that fire is extinguished. We extinguish fire at the place at which it appears. Wherever it is hot, that's where we can make it cool. And so it is with Enlightenment. Nibbana is found in Samsara.15 Enlightenment and delusion (Samsara) exist in the same place, just as do hot and cold. It's hot where it was cold and cold where it was hot. When heat arises, the coolness disappears, and when there is coolness, there's no more heat. In this way Nibbana and Samsara are the same. We are told to put an end to Samsara, which means to stop the ever-turning cycle of confusion. |
Khi được có loại an lạc nầy vững chắc củng cố trong tâm, ta có thể nương tựa vào và tùy thuộc nơi đó. Ta nói rằng trạng thái an lạc nầy đă phát sanh từ t́nh trạng vọng động mê mờ. Giờ đây rối loạn và si mê chấm dứt. Đức Phật gọi sự thành đạt Giác Ngộ cuối cùng là "sự dập tắt", trong ư nghĩa giống như ta dập tắt một ngọn lửa. Khi ngọn lửa bên ngoài được dập tắt, th́ có sự "mát mẻ". Khi các ngọn lửa tham ái, sân hận và si mê bên trong được dập tắt, ắt cũng có trạng thái "mát mẻ". Giác ngộ và si mê cùng hiện hữu ở một nơi, giống như nóng và lạnh. Giờ đây là nóng, ngay tại nơi mà trước kia là lạnh. Khi nóng là hết lạnh, và khi lạnh là không c̣n nóng. Niết Bàn và luân hồi cũng cùng thế ấy. |
This putting an end to confusion is extinguishing the fire. When external fire is extinguished there is coolness. When the internal fires of sensual craving, aversion and delusion are put out, then this is coolness also. |
Ta dập tắt ngọn lửa ngay ở nơi mà nó khởi phát. Nơi nào nóng, ta có thể làm cho mát. Sự Giác Ngộ cũng vậy. Đó là sự chấm dứt ṿng luân hồi [*], ngưng lại cuộc vận chuyển triền miên của ṿng quanh mê hoặc. |
|
[*] Samsàra, Ta-Bà, ṿng luân hồi -- theo đúng ngữ nguyên, là cuộc đi thênh thang bất định triền miên -- là danh từ thường được dùng để chỉ những kiếp sống thăng trầm trong biển trầm luân triền miên tiếp diễn, h́nh ảnh của tiến tŕnh vô tận những hoàn cảnh sanh, già. bệnh, chết. |
This is the nature of Enlightenment; it's the extinguishing of fire, the cooling of that which was hot. This is peace. This is the end of Samsara, the cycle of birth and death. When you arrive at Enlightenment, this is how it is. It's an ending of the ever-turning and ever-changing, an ending of greed, aversion and delusion in our minds. We talk about it in terms of happiness because this is how worldly people understand the ideal to be, but in reality it has gone beyond. It is beyond both happiness and suffering. It's perfect peace. |
Đó là bản chất thiên nhiên của sự Giác Ngộ, dập tắt lửa nóng, làm mát lại những ǵ trước kia là nóng. Đó là an lạc, là chấm dứt luân hồi. Khi Cụ thành đạt Giác Ngộ th́ đó là vậy. Đó là chấm dứt cuộc vận chuyển, dừng lại mọi si mê trong tâm ta. Chúng ta mô tả trạng thái chấm dứt nầy bằng những danh từ khác nhau hàm ư "hạnh phúc", bởi v́ đó là phương cách mà con người thế gian hiểu lư tưởng ḿnh là như vậy, nhưng thật sự nó đă vượt lên khỏi, vượt ra ngoài mọi tưởng tượng của người thế. Nó vượt lên khỏi hạnh phúc và đau khổ. Nó là thanh b́nh an lạc toàn hảo. |
So as you go you should take this Teaching which I have given you and contemplate it carefully. Your stay here hasn't been easy and I have had little opportunity to give you instruction, but in this time you have been able to study the real meaning of our practice. May this practice lead you to happiness; may it help you grow in Truth. May you be freed from the suffering of birth and death. |
Trong khi chuẩn bị lên đường Cụ hăy giữ lấy lời dạy của Sư ngày hôm nay và thận trọng quán niệm. Những ngày mà Cụ đă trải qua tại đây không được mấy dễ dàng và Sư không có nhiều cơ hội để chỉ dạy Cụ. Nhưng giờ đây Cụ đă có thể học hỏi ư nghĩa thật sự của pháp hành. Ước mong rằng pháp hành nầy có thể dẫn dắt Cụ đến hạnh phúc. Ước mong nó sẽ giúp Cụ trưởng thành trong chân lư. Ước mong Cụ sẽ thoát khỏi mọi đau khổ của ṿng luân hồi. |
Reading the Natural Mind |
Đọc Cái Tâm Thiên Nhiên |
(An informal talk given to a group of newly ordained monks after the evening chanting, middle of the Rains Retreat, 1978) |
(Dưới đây là những lời khuyên dạy của Ngài Ajahn Chah đến một nhóm thiền sinh tu sĩ vừa mới xuất gia tỳ khưu, giữa mùa An Cư Kiết Hạ năm 1978, sau khi đọc kinh buổi chiều) |
Our way of practice is looking closely at things and making them clear. We're persistent and constant, yet not rushed or hurried. Neither are we too slow. It's a matter of gradually feeling our way and bringing it together. However, all of this bringing it together is working towards something, there is a point to our practice. |
Đường lối thực hành của chúng ta là tận tường nh́n sự vật và thấy sự vật rành mạch, rơ ràng. Chúng ta kiên tŕ cố gắng và đều đặn chuyên cần, nhưng không hấp tấp vội vàng. Cũng không quá lơ đễnh buông lơi để bê trễ. Đây là vấn đề tuần tự ḍ dẫm lối đi và dần dần góp nhặt, gom chung lại. Tuy nhiên, mọi tập trung nầy đều hướng về một cái ǵ. Pháp hành của chúng ta có một mục tiêu. |
For most of us, when we first start to practice, it's nothing other than desire. We start to practice because of wanting. At this stage our wanting is wanting in the wrong way. That is, it's deluded. It's wanting mixed with wrong understanding. If wanting is not mixed with wrong understanding like this, we say that it's wanting with wisdom (Pañña).16 It's not deluded — it's wanting with right understanding. In a case like this we say that it's due to a person's Parami or past accumulations. However, this isn't the case with everyone. |
Đối với phần đông chúng ta, lúc bắt đầu hành thiền th́ không có ư ǵ khác ngoài ḷng mong muốn. Chúng ta khởi sự hành thiền v́ ham muốn. Vào giai đoạn nầy tâm ham muốn của chúng ta là ham muốn một cách sai lầm. Đó là si mê, là ham muốn ảo huyền, là ḷng ham muốn pha lẫn với tà kiến. Nếu ham muốn không lẫn lộn với tà kiến như thế đó th́ ta nói là ham muốn với trí tuệ, pannà [*]. Ham muốn với trí tuệ th́ không phải là si mê. Đây là ham muốn với chánh kiến. Trong trường hợp nầy ta nói rằng được vậy là nhờ Ba La Mật, nói cách khác, là do thiện nghiệp tích trữ từ trong quá khứ. Dầu sao không phải là trường hợp của tất cả mọi người. |
|
[*] Danh từ "pannà" nầy (phiên âm là "bát nhă") có nhiều ư nghĩa khác nhau, từ kiến thức thông thường đến sự hiểu biết sâu sắc, chí đến tuệ Minh Sát, thấu triệt thâm sâu vào Chân Lư (Dhamma, Giáo Pháp). Mặc dầu có thể được dùng trong nhiều ư nghĩa khác nhau nhưng danh từ nầy luôn luôn hàm xúc sự thấu triệt Chân Lư ngày càng thâm sâu, dần đến tột đỉnh là tuệ Minh Sát và Giác Ngộ. |
Some people don't want to have desire, or they want not to have desires, because they think that our practice is directed at not wanting. However, if there is no desire, then there's no way of practice. |
Vài người không muốn có tâm ham muốn, hoặc họ muốn có tâm không ham muốn. Bởi v́ họ nghĩ rằng pháp hành của chúng ta nhằm Chấm Dứt ham muốn. Tuy nhiên, nếu không ham muốn, nếu không có ư muốn hành ắt không thực hành. |
We can see this for ourselves. The Buddha and all His Disciples practiced to put an end to defilements. We must want to practice and must want to put an end to defilements. We must want to have peace of mind and want not to have confusion. However, if this wanting is mixed with wrong understanding, then it will only amount to more difficulties for us. If we are honest about it, we really know nothing at all. Or, what we do know is of no consequence, since we are unable to use it properly. |
Chúng ta có thể tự ḿnh nhận thấy điều nầy. Đức Phật và tất cả các vị đệ tử của Ngài hành thiền để chấm dứt ô nhiễm. Chúng ta phải muốn hành thiền và phải muốn chấm dứt ô nhiễm. Chúng ta phải muốn có tâm an lạc thanh b́nh, và phải muốn không vọng động. Tuy nhiên, nếu tâm ham muốn nầy mà lẫn lộn với tà kiến th́ nó chỉ đem lại cho ta nhiều khó khăn phiền phức hơn. Nếu thành thật với chính ḿnh ta sẽ nhận thức rằng chúng ta thật sự không hiểu biết ǵ cả, hoặc những ǵ ta hiểu không mang lại hậu quả tốt đẹp nào, v́ chúng ta không thể xử dụng nó một cách thích nghi. |
Everybody, including the Buddha, started out like this, with the desire to practice — wanting to have peace of mind and wanting not to have confusion and suffering. These two kinds of desire have exactly the same value. If not understood then both wanting to be free from confusion and not wanting to have suffering are defilements. They're a foolish way of wanting — desire without wisdom. |
Tất cả mọi người, kể cả Đức Phật, đều bắt đầu như thế ấy, với ḷng muốn hành thiền, muốn có tâm thanh b́nh an lạc, muốn tâm không bị vọng động và đau khổ. Hai loại ham muốn kể sau có giá trị y hệt bằng nhau. Nếu không hiểu biết đúng mức th́ cả hai -- muốn tâm không bị vọng động và muốn không đau khổ -- đều là ô nhiễm. Đó là ham muốn điên cuồng, ham muốn không có trí tuệ. |
In our practice we see this desire as either sensual indulgence or self-mortification. It's in this very conflict that our Teacher, the Buddha, was caught up, just this dilemma. He followed many ways of practice which merely ended up in these two extremes. And these days we are exactly the same. We are still afflicted by this duality, and because of it we keep falling from the Way. |
Trong pháp hành của chúng ta, ta nh́n thấy tâm ham muốn nầy là, hoặc lợi dưỡng buông trôi theo dục lạc, hoặc khổ hạnh khắc kỷ ép xác. Chính Đức Phật, Đức Bổn Sư của chúng ta, cũng đă bị dính kẹt trong t́nh trạng xung đột nầy. Ngài hành theo nhiều phương pháp khác nhau, nhưng rốt cùng rồi cũng rơi vào hai cực đoan nầy. Ngày nay chúng ta cũng rơi vào t́nh trạng giống y hệt như vậy. Ta vẫn c̣n bị cặp đôi nầy chi phối và vẫn c̣n tiếp tục tách rời, xa ĺa Con Đường. |
However, this is how we must start out. We start out as worldly beings, as beings with defilements, with wanting devoid of wisdom, desire without right understanding. If we lack proper understanding, then both kinds of desire work against us. Whether it's wanting or not wanting, it's still craving (Tanha). If we don't understand these two things then we won't know how to deal with them when they arise. We will feel that to go forward is wrong and to go backwards is wrong, and yet we can't stop. Whatever we do we just find more wanting. This is because of the lack of wisdom and because of craving. |
Dầu sao đó là phương cách mà ta phải bắt đầu. Ta phải bắt đầu như những chúng sanh phàm tục, những chúng sanh có nhiều ô nhiễm, những chúng sanh ham muốn mà không có trí tuệ, ham muốn mà không có chánh kiến. Nếu chúng ta không hiểu biết thích nghi th́ cả hai loại ham muốn nầy sẽ chống lại ta. Dầu muốn hay không muốn, đó vẫn là ái dục (tanhà). Nếu thông suốt hai điểm nầy ta sẽ không biết phải làm cách nào để đối phó với chúng khi nó phát sanh. Chúng ta sẽ cảm thấy rằng tiến tới là sai lầm, thối lui cũng sai lầm, mà ta không thể dừng lại. Làm bất luận ǵ rồi ta chỉ thấy rằng vẫn c̣n ham muốn thêm nữa. Đó là v́ kém trí tuệ và c̣n ái dục. |
It's right here, with this wanting and not wanting, that we can understand the Dhamma. The Dhamma which we are looking for exists right here, but we don't see it. Rather, we persist in our efforts to stop wanting. We want things to be a certain way and not any other way. Or, we want them not to be a certain way, but to be another way. Really these two things are the same. They are part of the same duality. |
Chính ở ngay tại đây, với ư muốn và ư không muốn, ta có thể thấu hiểu Giáo Pháp. Giáo Pháp mà chúng ta đang mong t́m hiện ở ngay tại đây, nhưng ta không trông thấy. Chúng ta lại cố gắng chấm dứt ḷng ham muốn. Chúng ta muốn sự vật phải như thế nầy và không phải như thế nào khác. Hoặc chúng ta muốn sự vật không phải như thế nầy mà phải như thế nào khác. Đúng ra, hai điều nầy cũng là một. Chúng là hai thành phần của một cặp. |
Perhaps we may not realize that the Buddha and all of His Disciples had this kind of wanting. However the Buddha understood regarding wanting and not wanting. He understood that they are simply the activity of mind, that such things merely appear in a flash and then disappear. These kinds of desires are going on all the time. When there is wisdom, we don't identify with them — we are free from clinging. Whether it's wanting or not wanting, we simply see it as such. In reality it's merely the activity of the natural mind. When we take a close look, we see clearly that this is how it is. |
Có lẽ chúng ta không nhận thức rằng Đức Phật và tất cả những vị đệ tử của Ngài đều có loại ham muốn nầy. Nhưng Đức Phật thông suốt vấn đề muốn và không muốn. Ngài tận tường thấu triệt rằng nó chỉ giản dị là sinh hoạt của tâm, và những sinh hoạt tâm linh tương tợ chỉ phát sanh trong chớp nhoáng, rồi tan biến. Những loại ham muốn như vậy luôn luôn liên tục tiếp diễn. Khi có trí tuệ th́ ta biết nó là vậy và không tự ḿnh đồng hóa với nó. Trong thực tế nó chỉ là sinh hoạt của cái tâm thiên nhiên. Khi nh́n nó tận tường ta trông thấy rành mạch, rơ ràng nó là vậy. |
The Wisdom of Everyday Experience |
Trí Tuệ Phát Sanh Do Kinh Nghiệm Hằng Ngày |
So it's here that our practice of contemplation will lead us to understanding. Let us take an example, the example of a fisherman pulling in his net with a big fish in it. How do you think he feels about pulling it in? If he's afraid that the fish will escape, he'll be rushed and start to struggle with the net, grabbing and tugging at it. Before he knows it, the big fish has escaped — he was trying too hard. |
Như vậy, chính tại nơi đây mà pháp hành quán niệm dẫn chúng ta đến trí tuệ minh mẫn. Hăy lấy thí dụ anh thợ chài kéo lên một con cá to trong lưới. Quư Sư nghĩ thế nào về cảm giác của anh ta trong khi kéo chài lên? Sợ làm sẩy một con cá to anh ta luưnh quưnh hối hả, chiến đấu với cái chài. Vội vàng chụp nhanh lấy đầu lưới và rán sức kéo lên. Nhưng cá đă vượt thoát ra khỏi lưới trước khi anh hay biết. Anh đă cố gắng quá sức. |
In the olden days they would talk like this. They taught that we should do it gradually, carefully gathering it in without losing it. This is how it is in our practice; we gradually feel our way with it, carefully gathering it in without losing it. Sometimes it happens that we don't feel like doing it. Maybe we don't want to look or maybe we don't want to know, but we keep on with it. We continue feeling for it. This is practice: if we feel like doing it, we do it, and if we don't feel like doing it, we do it just the same. We just keep doing it. |
Vào những ngày xa xưa người ta cũng nói như vậy. Vào thời ấy người thợ chài được dạy là phải từ từ kéo lưới lên và cẩn thận gom túm cái chài lại mà không để mất cá. Pháp hành của chúng ta cũng cùng thế ấy. Chúng ta từ từ dọ dẫm đường lối và thận trọng góp nhặt, gom chung lại mà không để mất mát. Đôi khi chúng ta không cố tâm làm như vậy. Có thể chúng ta không muốn nh́n, hoặc có thể chúng ta không muốn biết, nhưng vẫn tiếp tục làm như vậy. Chúng ta tiếp tục muốn như vậy. Pháp thực hành phải như thế nầy: Nếu chúng ta cảm nghe thích hành thiền, hăy cứ hành. Nếu cảm nghe không thích, vẫn cứ hành y như vậy. Chúng ta chỉ tiếp tục hành thiền. |
If we are enthusiastic about our practice, the power of our faith will give energy to what we are doing. But at this stage we are still without wisdom. Even though we are very energetic, we will not derive much benefit from our practice. We may continue with it for a long time and a feeling will arise that aren't going to find the Way. We may feel that we cannot find peace and tranquillity, or that we aren't sufficiently equipped to do the practice. Or maybe we feel that this Way just isn't possible anymore. So we give up! |
Nếu chúng ta thực hành một cách nhiệt thành, oai lực của đức tin sẽ cho ta đầy đủ khả năng để thực hiện điều mong muốn. Nhưng vào giai đoạn nầy chúng ta chưa có trí tuệ. Mặc dầu tinh tấn chuyên cần chúng ta không thọ hưởng được bao nhiêu lợi ích của pháp hành. Ta có thể tiếp tục thực hành như vậy trong một thời gian lâu dài rồi một cảm nghĩ sẽ phát sanh rằng ta không t́m ra Con Đường. Ta có thể cảm nghe ḿnh không thể t́m được an lạc và thanh b́nh, hoặc ta không được trang bị đầy đủ để thực hành. Hoặc nữa, ta có thể cảm nghe Con Đường quá xa xôi, quá viển vông, không thể t́m ra. Rồi ta bỏ cuộc! |
At this point we must be very, very careful. We must use great patience and endurance. It's just like pulling in the big fish — we gradually feel our way with it. We carefully pull it in. The struggle won't be too difficult, so without stopping we continue pulling it in. Eventually, after some time, the fish becomes tired and stops fighting and we're able to catch it easily. Usually this is how it happens, we practice gradually gathering it together |
Đến mức nầy chúng ta phải hết sức, thật hết sức thận trọng. Phải tận lực vận dụng đức hạnh nhẫn nhục chuyên cần và kiên tŕ chịu đựng. Cũng chỉ như kéo lên một con cá to trong lưới, phải từ từ ḍ dẫm đường lối. Chúng ta thận trọng túm con cá lại trong lưới và dần dần kéo lên. Cuộc chiến đấu sẽ không quá khó khăn. Chúng ta không dừng tay mà nhè nhẹ kéo lưới lên một cách liên tục. Như thế ấy, sau một lúc cá sẽ mệt mỏi, kiệt lực và không c̣n vùng vẫy nữa. Ta sẽ dễ dàng bắt nó. Thông thường là vậy. Chúng ta thực hành từ từ, tuần tự tiến hành và góp nhặt, gom chung lại những ư nghĩ rời rạc. |
It's in this manner that we do our contemplation. If we don't have any particular knowledge or learning in the theoretical aspects of the Teachings, we contemplate according to our everyday experience. We use the knowledge which we already have, the knowledge derived from our everyday experience. This kind of knowledge is natural to the mind. Actually, whether we study about it or not, we have the reality of the mind right here already. The mind is the mind whether we have learned about it or not. This is why we say that whether the Buddha is born in the world or not, everything is the way it is. Everything already exists according to its own nature. This natural condition doesn't change, nor does it go anywhere. It just is that way. This is called the Sacca Dhamma. However, if we don't understand about this Sacca Dhamma, we won't be able to recognize it. |
Đó là đường lối quán niệm của chúng ta. Nếu không có kiến thức hay tŕnh độ học hỏi nào về Giáo Lư thuần túy lư thuyết chúng ta hăy quán niệm theo đúng với kinh nghiệm hằng ngày của ḿnh. Hăy xử dụng kiến thức mà ḿnh sẵn có, kiến thức thâu thập từ kinh nghiệm trong đời sống hằng ngày. Đối với tâm, loại kiến thức nầy là thiên nhiên. Trên thực tế, dầu có nghiên cứu học hỏi cùng không chúng ta vẫn có sẵn cái tâm hiện thực ngay tại nơi đây. Tâm là tâm, dầu ta có học hỏi nghiên cứu cùng không. V́ lẽ ấy ta nói rằng dầu Đức Phật có thị hiện trên thế gian cùng không mọi sự vật vẫn là vậy. Mọi sự vật đă có hiện hữu đúng theo bản chất thiên nhiên của nó. Hoàn cảnh thiên nhiên nầy không thay đổi, cũng không di chuyển đi nơi nào khác. Đường lối thiên nhiên chỉ là vậy. Điều nầy được gọi là Sacca Dhamma, Giáo Pháp đúng với Chân Lư. Tuy nhiên, nếu không thông hiểu Chánh Pháp nầy ta sẽ không thể nhận ra nó. |
So we practice contemplation in this way. If we aren't particularly skilled in scripture, we take the mind itself to study and read. Continually we contemplate (lit. talk with ourselves) and understanding regarding the nature of the mind will gradually arise. We don't have to force anything. |
Do đó chúng ta thực hành quán niệm theo đường lối nầy. Nếu không đặc biệt tinh thông kinh điển ta hăy quán chiếu chính cái tâm của ḿnh. Hăy nghiên cứu học hỏi và "đọc"nó. Chúng ta hăy thường xuyên và liên tục quán niệm -- tự nói chuyện với ḿnh. Ta sẽ thấu hiểu dần dần bản chất thiên nhiên của tâm. |
Constant Effort |
Kiên Tŕ Tinh Tấn |
Until we are able to stop our mind, until we reach tranquillity, the mind will just continue as before. It's for this reason that the Teacher says, "Just keep on doing it, keep on with the practice!" Maybe we think, "If I don't yet understand, how can I do it?" Until we are able to practice properly, wisdom doesn't arise. So we say just keep on with it. If we practice without stopping we'll begin to think about what we are doing. We'll start to consider our practice. |
Chí đến lúc có thể dừng cái tâm lại khi chúng ta tiến đạt đến trạng thái vắng lặng, tâm vẫn c̣n y như trước. V́ lẽ ấy Đức Phật khuyên dạy, "Hăy tiếp tục hành thiền, hăy kiên tŕ thực hành!" Có thể ta suy tư, "Nếu chưa biết th́ làm sao thực hành?" -- Chí đến khi ta có thể hành thiền một cách thích nghi trí tuệ mới phát sanh. Do vậy, hăy cứ tiếp tục thực hành. Nếu thường xuyên thực hành, không chểnh mảng ngừng nghỉ, ta sẽ bắt đầu quán xét đến việc ḿnh đang làm. Ta sẽ bắt đầu khảo sát pháp hành của chúng ta. |
Nothing happens immediately, so in the beginning we can't see any results from our practice. This is like the example I have often given you of the man who tries to make fire by rubbing two sticks of wood together. He says to himself, "They say there's fire here." and he begins rubbing energetically. He's very impetuous. He rubs on and on but his impatience doesn't end. He wants to have that fire. He keeps wanting to have that fire, but the fire doesn't come. So he gets discouraged and stops to rest for awhile. He starts again but the going is slow, so he rests again. By then the heat has disappeared; he didn't keep at it long enough. He rubs and rubs until he tires and then he stops altogether. Not only is he tired, but he becomes more and more discouraged until he gives up completely. "There's no fire here!" Actually he was doing the work, but there wasn't enough heat to start a fire. The fire was there all the time but he didn't carry on to the end. |
Không có ǵ xảy diễn trong tức khắc. Do đó, lúc ban sơ ta sẽ không nhận thấy thành quả rơ rệt nào của công phu hành thiền. Đây cũng giống như thí dụ người muốn làm ra lửa, cọ xát vào nhau hai que củi. Anh tự nghĩ, "Người ta nói ở đây có lửa", và ra sức hăng hái cọ xát hai que củi. Anh cọ mạnh mẽ và tiếp tục cọ dữ dội không ngừng. Anh muốn có lửa. Anh vẫn mong muốn có lửa. Nhưng lửa không phát sanh. Anh thối chí, nản ḷng, và ngưng lại, nghỉ một lúc. Rồi anh bắt đầu trở lại công việc cọ xát hai que củi đến mệt và ngừng nghỉ. Chẳng những anh mệt mỏi mà ngày càng nản chí, và cuối cùng bỏ cuộc hoàn toàn, "ở đây không có lửa!" Trong thực tế anh có cố gắng làm việc, nhưng làm không đúng mức. Anh cọ xát hai que củi, nhưng cọ không đến mức tạo đủ sức nóng khả dĩ làm cho lửa phát sanh. Lửa lúc nào cũng vẫn tiềm tàng hiện hữu ở đó nhưng người kia không thực hiện công tác của ḿnh đến nơi đến chốn. |
This sort of experience causes the meditator to get discouraged in his practice, and so he restlessly changes from one practice to another. And this sort of experience is also similar to our own practice. It's the same for everybody. Why? Because we are still grounded in defilements. The Buddha had defilements also, but He had a lot of wisdom in this respect. While still worldlings the Buddha and the arahants were just the same as us. If we are still worldlings then we don't think rightly. |
Cùng một loại kinh nghiệm nầy làm cho người hành thiền chán nản rồi quanh quẩn thay đổi phương pháp. Và cũng một loại kinh nghiệm tương tợ xảy đến với chúng ta trong khi hành thiền. Nó xảy đến với mọi người, cùng một thế ấy. Tại sao? -- Bởi v́ chúng ta c̣n dính kẹt trong ô nhiễm. Xưa kia Đức Phật cũng có ô nhiễm, nhưng đối với vấn đề nầy Ngài có rất nhiều trí tuệ. Ngài sáng suốt vô cùng. Trong khi c̣n là phàm nhân Đức Phật và chư vị A La Hán cũng chỉ như chúng ta. C̣n là người thế gian nên dĩ nhiên chúng ta c̣n suy tư lầm lạc. |
Thus when wanting arises we don't see it, and when not wanting arises we don't see it. Sometimes we feel stirred up, and sometimes we feel contented. When we have not wanting we have a kind of contentment, but we also have a kind of confusion. When we have wanting this can be contentment and confusion of another kind. It's all intermixed in this way. |
Do đó, khi ḷng ham muốn phát sanh ta không nhận thấy và khi ḷng ham muốn không phát sanh, ta không nhận thấy. Đôi khi ta cảm nghe khuấy động và đôi khi hài ḷng. Lúc không có ham muốn ta mang máng nghe như có một loại hài ḷng, nhưng cùng lúc cũng cảm nghe mơ hồ, rối loạn. Khi tâm ham muốn phát sanh có lẽ ta lại chứng nghiệm một loại hài ḷng và mơ hồ rối loạn khác. Nó lẫn lộn pha trộn như thế. |
Knowing Oneself and Knowing Others |
Hiểu Biết Ḿnh Và Hiểu Người Khác |
The Buddha taught us to contemplate our body, for example: hair of the head, hair of the body, nails, teeth, skin... it's all body. Take a look! We are told to investigate right here. If we don't see these things clearly as they are in ourselves, we won't understand regarding other people. We won't see others clearly nor will we see ourselves. However, if we do understand and see clearly the nature of our own bodies, our doubts and wonderings regarding others will disappear. |
Đức Phật dạy ta quán niệm thân của ḿnh -- thân quán niệm xứ -- như tóc, lông, móng tay móng chân, răng, da v.v.. toàn khắp châu thân. Hăy thử nh́n. Chúng ta được dạy là phải trạch quán ngay nơi đây. Nếu không trông thấy rơ ràng các phần ấy trong thân ḿnh ắt ta không thể hiểu biết nó ở người khác. Ta sẽ không thấy rơ ràng nơi người khác mà cũng không thấy ở ta. Tuy nhiên, nếu thật sự ta hiểu biết và nh́n thấy rơ ràng bản chất thiên nhiên của chính thân ḿnh th́ mọi hoài nghi hay mọi điểm mơ hồ về người khác sẽ tan biến. |
This is because body and mind (Rupa and Nama) are the same for everybody. It isn't necessary to go and examine all the bodies in the world since we know that they are the same as us — we are the same as them. If we have this kind of understanding then our burden becomes lighter. Without this kind of understanding, all we do is develop a heavier burden. In order to know about others we would have to go and examine everybody in the entire world. That would be very difficult. We would soon become discouraged. |
Như vậy là bởi v́ thân và tâm (rùpa và nàma, sắc và danh) của mọi người đều giống nhau. Không cần phải đi quanh đi quẩn để quan sát thân của tất cả mọi người trên thế gian v́ chúng ta biết rằng cơ thể của ai cũng giống như của ḿnh, của ḿnh cũng giống như bất luận của ai khác. Nếu có được loại hiểu biết nầy th́ gánh nặng của chúng ta sẽ trở thành nhẹ. Nếu không hiểu, dầu ta có làm ǵ, gánh nặng sẽ ngày càng nặng trĩu. Nếu muốn hiểu biết tất cả mọi người mà ta phải đi cùng khắp thế gian để quan sát th́ quả thật là khó. Ta sẽ sớm nản ḷng. |
Our Vinaya is similar to this. When we look at our Vinaya (Code of Monks' Discipline) we feel that it's very difficult. We must keep every rule, study every rule, review our practice with every rule. If we just think about it, "Oh, it's impossible!" We read the literal meaning of all the numerous rules and, if we merely follow our thinking about them, we could well decide that it's beyond our ability to keep them all. Anyone who has had this kind of attitude towards the Vinaya has the same feeling about it — there are a lot of rules! |
Giới Luật (Vinaya) của chúng ta cũng dường thế ấy. Khi nh́n vào Giới Luật ta thấy rất khó. Phải giữ chừng ấy giới và từng giới một. Phải nghiên cứu và học hỏi từng giới một. Phải quán xét pháp hành của ḿnh để giữ cho nó thích nghi với từng giới. Chỉ nghĩ đến chừng ấy thôi, "Ồ, quả thật không thể được! Bất khả hành!" Chúng ta đọc và t́m hiểu ư nghĩa từng chữ của bao nhiêu giới luật, và nếu chỉ theo dơi suy tư của chúng ta khi học hỏi những từ ngữ ấy, chắc là ta sẽ quyết định rằng những giới luật ấy quả thật đă vượt qua khỏi tầm mức mà ta có thể hành. Ta không thể trang nghiêm thọ tŕ từng ấy giới luật. Bất luận ai có thái độ tương tợ đối với giới luật sẽ cảm nghĩ, "Nhiều giới quá! Không thể giữ hết." |
The scriptures tell us that we must examine ourselves regarding each and every rule and keep them all strictly. We must know them all and observe them perfectly. This is the same as saying that to understand about others we must go and examine absolutely everybody. This is a very heavy attitude. And it's like this because we take what is said literally. If we follow the textbooks, this is the way we must go. Some Teachers teach in this manner — strict adherence to what the textbooks say. It just can't work that way |
Kinh điển dạy ta phải tự quán chiếu, t́m hiểu thái độ của ḿnh đối với mỗi giới và nghiêm túc hành tŕ tất cả, từng giới một. Chúng ta phải thông suốt các giới và giữ ǵn trong sạch tất cả. Điều nầy cũng giống như nói rằng muốn hiểu biết mỗi người ta phải đi cùng khắp và quan sát tất cả mọi người. Đó là thái độ rất "nặng", quá nặng nề. Và như vậy là v́ ta chấp theo từ ngữ. Nếu chúng ta đọc những kinh sách về giới luật th́ đó là phương cách mà ta phải đọc, từng chữ một. Vài đạo sư dạy như vậy. Theo sát những ǵ kinh sách dạy. Học theo lối nầy không thể hành. |
Actually, if we study theory like this, our practice won't develop at all. In fact our faith will disappear, our faith in the Way will be destroyed. This is because we haven't yet understood. When there is wisdom we will understand that all the people in the entire world really amount to just this one person. They are the same as this very being. So we study and contemplate our own body and mind. With seeing and understanding the nature of our own body and mind comes understanding the bodies and minds of everyone. And so, in this way, the weight of our practice becomes lighter. |
Đúng thật ra nếu hành giáo lư như vậy pháp hành của chúng ta sẽ không tiến triển chút nào. Trong thực tế, đức tin của ta sẽ tan biến, niềm tin mà ta đặt vào Con Đường sẽ không c̣n, bởi v́ chúng ta chưa hiểu biết. Khi trí tuệ phát sanh chúng ta sẽ hiểu rằng mọi người trên khắp thế gian thật sự chỉ là một. Tất cả đều cũng như chính ta, chúng sanh nầy. Như vậy, ta tự quán chiếu, khảo sát sắc và danh của ta. Khi nhận thấy và hiểu biết bản chất thiên nhiên của danh và sắc nơi chính ḿnh ta sẽ nhận thức thân và tâm của tất cả mọi người. Và như vậy, bằng phương cách nầy gánh nặng của pháp hành sẽ suy giảm. |
The Buddha said to teach and instruct ourselves — nobody else can do it for us. When we study and understand the nature of our own existence, we will understand the nature of all existence. Everyone is really the same. We are all the same "make" and come from the same company — there are only different shades, that's all! Just like "Bort-hai" and "Tum-jai." They are both pain-killers and do the same thing, but one type is called "Bort-hai" and the other "Tum-jai." Really they aren't different. |
Đức Phật đă chỉ giáo và ta đă lănh hội, "Không ai có thể làm điều ấy cho ta". Khi học hỏi và thấu hiểu bản chất thiên nhiên của kiếp sinh tồn của ḿnh ta sẽ hiểu biết bản chất của tất cả mọi cuộc sống. Mọi người thật sự đều như nhau. Tất cả chúng ta chỉ mang một "nhăn hiệu" và là "sản phẩm" của một công ty -- chỉ cái dáng bề ngoài có đôi chút khác biệt nhau. Chỉ thế thôi! Cũng như hai loại thuốc "Bort-hai" và "Tum-jai". Cả hai đều là thuốc an thần và chỉ có một loại công hiệu. Nhưng thuốc nầy gọi là "Bort-hai" c̣n thuốc kia là "Tum-jai". Thật sự không có ǵ khác biệt. (Trong một trường hợp khác Ngài Ajahn Chah dạy rằng nếu ta biết ǵn giữ chính cái tâm của ḿnh th́ đó là nghiêm chỉnh tŕ giới). |
You will find that this way of seeing things gets easier and easier as you gradually bring it all together. We call this "feeling our way," and this is how we begin to practice. We'll become skilled at doing it. We keep on with it until we arrive at understanding, and when this understanding arises, we will see reality clearly. |
Quư Sư sẽ thấy rằng lối nh́n vào sự vật như vậy ngày càng trở nên dễ dàng hơn khi ta dần dần tập hợp chung lại. Ta gọi đó là "ḍ dẫm đường lối", và đó là phương cách mà ta bắt đầu pháp hành. Ta sẽ trở thành quen thuộc và tinh thông hơn. Chúng ta tiếp tục làm như vậy cho đến khi nhận thức. Và khi sự nhận thức nầy phát sanh ta sẽ trông thấy rơ ràng thực tại. |
Theory and Practice |
Lư Thuyết Và Thực Hành |
So we continue this practice until we have a feeling for it. After a time, depending on our own particular tendencies and abilities, a new kind of understanding arises. This we call Investigation of Dhamma (Dhamma-vicaya), and this is how the Seven Factors of Enlightenment arise in the mind. Investigation of Dhamma is one of them. The others are: Mindfulness, Energy, Rapture, Tranquillity, concentration (Samadhi) and Equanimity. |
Vậy, hăy tiếp tục thực hành cho đến khi nhận thức rơ ràng thực tại. Sau một thời gian -- dài hay ngắn tùy khả năng và khuynh hướng riêng của ta -- một loại kiến thức mới sẽ phát sanh. Kiến thức nầy được gọi là Trạch Pháp (Dhamma Vicaya, quán chiếu và phân biệt rành mạch Giáo Pháp). Và đây là đường lối mà Thất Giác Chi khởi sanh trong tâm (Bojjhanga, Thất Giác Chi, là bảy yếu tố của sự giác ngộ). Trạch Pháp là một trong bảy yếu tố ấy. Sáu chi c̣n lại là niệm, tấn, lạc, an, định và xả. |
If we have studied about the Seven Factors of Enlightenment, then we'll know what the books say, but we won't have seen the real Factors of Enlightenment. The real Factors of Enlightenment arise in the mind. Thus the Buddha came to give us all the various Teachings. All the Enlightened Ones have taught the way out of suffering and Their recorded Teachings we call the theoretical Teachings. This theory originally came from the practice, but it has become merely book learning or words. |
Nếu có học về Thất Giác Chi ắt ta hiểu những ǵ kinh sách dạy, nhưng vẫn không thật sự thấy Thất Giác Chi. Thất Giác Chi thật sự chỉ phát sanh trong tâm. Do đó Đức Phật ban truyền cho chúng ta những Lời Dạy khác nhau. Tất cả các bậc Toàn Giác đều giáo truyền con đường để vượt thoát ra khỏi khổ đau, và Giáo Huấn của các Ngài được lưu truyền đến nay là Giáo Huấn có tính cách lư thuyết. Lư thuyết nầy vốn phát nguyên từ pháp hành, nhưng rồi trở thành những lời dạy suông có tính cách từ chương, hay chỉ là những ngôn từ, những chữ được ghi chép trong kinh sách. |
The real Factors of Enlightenment have disappeared because we don't know them within ourselves, we don't see them within our own minds. If they arise they arise out of practice. If they arise out of practice then they are factors leading to Enlightenment of the Dhamma and we can use their arising as an indication that our practice is correct. If we are not practicing rightly, such things will not appear. |
Thất Giác Chi thật sự đă tan biến, bởi v́ ta không nhận thức nó bên trong chúng ta. Chúng ta không thấy nó trong tâm ḿnh. Nếu vạn nhất có phát sanh, nó sẽ phát sanh từ công phu thực hành. Nếu nó phát sanh từ pháp hành th́ đó là những yếu tố của Giáo Pháp dẫn đến giác ngộ, và đó là những chỉ dẫn cho thấy rằng đường lối thực hành của ta là đúng. Nếu hành không đúng nó sẽ không khởi phát. |
If we practice in the right way, then we can see Dhamma. So we say to keep on practicing, feeling your way gradually and continually investigating. Don't think that what you are looking for can be found anywhere other than right here. |
Nếu thực hành đúng, chúng ta sẽ thấy Giáo Pháp (Dhamma). Vậy, hăy tiếp tục thực hành, ḍ dẫm dần dần con đường và tiếp tục quán trạch. Không nên nghĩ rằng điều mà chúng ta đang mong t́m có thể ở đâu khác hơn là ngay tại đây. |
One of my senior disciples had been learning Pali at a study Temple before he came here. He hadn't been very successful with his studies so he thought that, since monks who practice meditation are able to see and understand everything just by sitting, he would come and try this way. He came here to Wat Pah Pong with the intention of sitting in meditation so that he would be able to translate Pali scriptures. He had this kind of understanding about practice. So I explained to him about our way. He had misunderstood completely. He had thought it an easy matter just to sit and make everything clear. |
Một trong mấy đệ tử đầu tiên của Sư đă theo học lớp Pàli tại một ngôi chùa có trường học, trước khi đến đây. ở trường vị sư ấy không thành công nên đến đây thử học phương pháp nầy. Vị sư ấy đến đây, tại Wat Pah Pong nầy, với ư định học pháp môn hành thiền nhằm phát triển khả năng phiên dịch Pàli. Vị ấy có một loại nhận thức về thiền như thế ấy. Rồi Sư giảng cho vị ấy về phương pháp của chúng ta. Vị ấy hiểu sai hoàn toàn, nghĩ rằng đây là vấn đề chỉ ngồi lại hành thiền rồi tự nhiên thấy rơ ràng mọi sự vật. |
If we talk about understanding Dhamma then both study monks and practice monks use the same words. But the actual understanding which comes from studying theory and that which comes from practicing Dhamma is not quite the same. It may seem to be the same, but one is more profound. One is deeper than the other. The kind of understanding which comes from practice leads to surrender, to giving up. Until there is complete surrender we persevere — we persist in our contemplation. If desires or anger and dislike arise in our mind, we aren't indifferent to them. |
Nói đến kiến thức về Giáo Pháp th́ cả hai, nhà sư có pháp học và vị có pháp hành, đều dùng những từ ngữ như nhau. Tuy nhiên, kiến thức thâu thập được do pháp học và kiến thức do pháp hành không giống hệt như nhau. Hai kiến thức nầy có thể h́nh như là một, nhưng trong đó có một là thâm diệu hơn, sâu sắc hơn cái kia. Loại kiến thức phát xuất từ pháp hành dẫn đến trạng thái quy hàng, từ bỏ. Cho đến khi có sự quy hàng trọn vẹn chúng ta vẫn kiên tŕ, nhẫn nại gia công quán niệm. Nếu có tham hay sân hoặc có tâm ưa thích khởi sanh chúng ta không hờ hững lờ hẳn, không màng biết đến nó. |
We don't just leave them but rather take them and investigate to see how and from where they arise. If such moods are already in our mind, then we contemplate and see how they work against us. We see them clearly and understand the difficulties which we cause ourselves by believing and following them. This kind of understanding is not found anywhere other than in our own pure mind. |
Chúng ta không gác bỏ qua một bên mà giữ nó lại và quán trạch, xem từ đâu nó đến và đến bằng cách nào. Nếu trạng thái nầy đă có sẵn trong tâm, ta hăy quán chiếu, xem nó hoạt động chống ta như thế nào. Chúng ta nh́n nó tận tường và hiểu biết những khó khăn mà chính ḿnh đă tự tạo cho ḿnh, v́ lầm lạc tin tưởng và đi theo nó. Loại hiểu biết nầy không thể t́m ở đâu khác hơn là trong cái tâm thanh tịnh của ta. |
It's because of this that those who study theory and those who practice meditation misunderstand each other. Usually those who emphasize study say things like this, "Monks who only practice meditation just follow their own opinions. They have no basis in their Teaching." Actually, in one sense, these two ways of study and practice are exactly the same thing. It can help us to understand if we think of it like the front and back of our hand. If we put our hand out, it seems as if the back of the hand has disappeared. Actually the back of our hand hasn't disappeared anywhere, it's just hidden underneath. When we say that we can't see it, it doesn't mean that it has disappeared completely, it just means that it's hidden underneath. When we turn our hand over, the same thing happens to the palm of the hand. It doesn't go anywhere, it's merely hidden underneath. |
Cũng v́ lẽ ấy mà người có pháp học và người có pháp hành hiểu lầm nhau. Thông thường những vị chú trọng riêng biệt về pháp học nói, "Các nhà sư đặc biệt chuyên về pháp môn hành thiền chỉ có những ư kiến riêng tư. Họ không nắm vững căn bản Giáo Lư". Trong thực tế cả hai -- pháp học và pháp hành -- chỉ là một. Nếu nghĩ đến vấn đề nầy như ta nghĩ đến bề mặt và bề trái của bàn tay ắt không khỏi nhằm lẫn. Nếu lật ngửa bàn tay ta thấy h́nh như bề lưng biến đâu mất. Đúng ra th́ bề lưng bàn tay không biến tan đâu mất mà chỉ bị che dấu phía dưới. Nói rằng không thấy nó, không có nghĩa là nó biến mất mà chỉ có nghĩa là nó bị che khuất đâu phía dưới. Đến lúc lật úp bàn tay trở xuống th́ không thấy ḷng bàn tay. Cũng không phải ḷng bàn tay biến mất mà nó chỉ bị che dấu phía dưới. |
We should keep this in mind when we consider practice. If we think that it has "disappeared," we'll go off to study, hoping to get results. But it doesn't matter how much you study about Dhamma, you'll never understand, because you won't know in accordance with Truth. If we do understand the real nature of Dhamma, then it becomes letting go. This is surrender — removing attachment (Upadana), not clinging anymore, or, if there still is clinging, it becomes less and less. There is this kind of difference between the two ways of study and practice |
Phải ghi nhớ nằm ḷng điểm nầy khi nghĩ đến pháp hành. Nếu nghĩ rằng nó đă "biến mất" ta gạt bỏ qua một bên để đi học, hy vọng sẽ thâu hoạch thành quả tốt đẹp. Tuy nhiên, dầu có học Giáo Pháp nhiều đến đâu ta vẫn không thông suốt, v́ không hiểu biết Chân Lư. Nếu ta thông hiểu bản chất thật sự của Giáo Pháp nó sẽ trở thành sự buông bỏ. Đó là quy hàng, từ khước, dứt bỏ luyến ái (Upadàna, Thủ), không c̣n đeo níu ǵ. Hoặc có c̣n bám níu đi nữa nó cũng ngày càng suy giảm. Đó là sự khác biệt giữa pháp học và pháp hành. |
When we talk about study, we can understand it like this: our eye is a subject of study, our ear is a subject of study — everything is a subject of study. We can know that form is like this and like that, but we attach to form and don't know the way out. We can distinguish sounds, but then we attach to them. Forms, sounds, smells, tastes, bodily feelings and mental impressions are all like a snare to entrap all beings. |
Khi nói về pháp học, ta có thể hiểu pháp nầy như sau: mắt của chúng ta là đề tài để học, tai của chúng ta là đề tài để học -- tất cả là đề tài để học. Ta có thể hiểu h́nh sắc là thế nầy, thế kia, nhưng ta vẫn bám níu vào h́nh sắc và không biết con đường để thoát ra khỏi "sắc". Ta có thể phân biệt âm thanh, nhưng vẫn c̣n vương víu trong "thinh". H́nh sắc, âm thanh, hương, vị, những cảm giác của thân và những cảm tưởng, tất cả đều là cạm bẫy, những cái lưới để rập bắt tất cả chúng sanh. |
To investigate these things is our way of practicing Dhamma. When some feeling arises we turn to our understanding to appreciate it. If we are knowledgeable regarding theory, we will immediately turn to that and see how such and such a thing happens like this and then becomes that... and so on. If we haven't learned theory in this way, then we have just the natural state of our mind to work with. This is our Dhamma. If we have wisdom then we'll be able to examine this natural mind of ours and use this as our subject of study. It's exactly the same thing. Our natural mind is theory. The Buddha said to take whatever thoughts and feelings arise and investigate them. Use the reality of our natural mind as our theory. We rely on this reality. |
Quán trạch -- tức quán chiếu và phân biệt sự vật -- là phương cách thực hành Giáo Pháp của chúng ta. Khi có cảm thọ phát khởi, ta dùng trí hiểu biết để nhận thức. Nếu thông suốt pháp học ta sẽ lập tức hướng tâm về cảm thọ ấy và trông thấy điều nầy hay điều nọ phát sanh như thế nào rồi trở thành cái ǵ khác v.v... Nếu không học giáo lư theo đường lối nầy ta chỉ c̣n trạng thái thiên nhiên của tâm để làm công cụ khảo sát. Đó là Giáo Pháp của ta. Nếu có đủ trí tuệ ta sẽ có thể quán chiếu trạng thái tâm thiên nhiên nầy của chúng ta và dùng nó làm đề tài để học. Đúng y là một. Cái tâm thiên nhiên của ta là giáo lư. Đức Phật dạy hăy nắm lấy bất luận tư tưởng hay cảm thọ nào phát khởi và quán trạch. Hăy dùng thực tại của cái tâm thiên nhiên của chúng ta làm pháp học. Chúng ta nương tựa vào thực tại ấy. |