Coming to the Center |
Nhập Vào Trung Tâm |
Try watching a spider. A spider spins its web in any convenient niche and then sits in the center, staying still and silent. Later, a fly comes along and lands on the web. As soon as it touches and shakes the web, "boop!" — the spider pounces and winds it up in thread. It stores the insect away and then returns again to collect itself silently in the center of the web. |
Ta thử quan sát con nhện. Nhện giăng tơ, làm thành một màng lưới, rồi ngồi lại ở giữa, im ĺm, bất động. Sau đó, một con ruồi bay đến, đáp lên, và mắc vào lưới nhện. Vừa khi ruồi đụng đến và làm rung chuyển lưới th́ "phụp!" nhện phóng nhanh tới và quấn chặt. Ruồi bị giữ lại đó. Nhện quay về trung tâm màng lưới, thâu ḿnh vào, im lặng. |
Watching a spider like this can give rise to wisdom. Our six senses have mind at the center surrounded by eye, ear, nose, tongue and body. When one of the senses is stimulated, for instance, form contacting the eye, it shakes and reaches the mind. The mind is that which knows, that which knows form. Just this much is enough for wisdom to arise. It's that simple. |
Quan sát một con nhện như vậy có thể khai triển trí tuệ. Hệ thống giác quan của ta có cái tâm ở giữa và mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư bao quanh. Khi một giác quan bị khơi động, thí dụ như có h́nh thể tiếp xúc với mắt, th́ nó rung động và chạy đến tâm. Tâm là cái ǵ hay biết -- ở đây là biết h́nh thể. Chỉ bấy nhiêu cũng đủ làm cho trí tuệ phát sanh. Giản dị như vậy! |
Like a spider in its web, we should live keeping to ourselves. As soon as the spider feels an insect contact the web, it quickly grabs it, ties it up and once again returns to the center. This is not at all different from our own minds. "Coming to the center" means living mindfully with clear comprehension, being always alert and doing everything with exactness and precision — this is our center. There's really not a lot for us to do; we just carefully live in this way. But that doesn't mean that we live heedlessly thinking, "There is no need to do siting or walking meditation!" and so forget all about our practice. We can't be careless! We must remain alert just as the spider waits to snatch up insects for its food. |
Giống như con nhện trên màng lưới của nó, ta phải giữ ḿnh, thu thúc lục căn. Vừa khi nhện hay biết có ruồi chạm vào lưới, tức th́ nó nhanh chóng phóng tới chụp và quấn chặt, rồi quay về trung tâm trở lại. Không có ǵ khác biệt với tâm ta. "Nhập vào trung tâm" có nghĩa là sống với Chánh Niệm, ghi nhận và hay biết rơ ràng, luôn luôn giác tỉnh, làm tất cả mọi việc một cách thỏa đáng và chính xác -- đó là trung tâm của chúng ta. Thật sự không phải làm ǵ nhiều, chỉ thận trọng sống như vậy. Nhưng nói thế không có nghĩa là chúng ta sống buông lung, không chuyên cần, nghĩ rằng, "không cần thiền tọa hoặc thiền hành", hay quên đi, gác qua một bên pháp hành. Chúng ta không thể bất cẩn. Phải thận trọng, luôn luôn giác tỉnh, y như con nhện đứng ŕnh để chụp ruồi làm vật thực. |
This is all that we have to know — sitting and contemplating that spider. Just this much and wisdom can arise spontaneously. Our mind is comparable to the spider, our moods and mental impressions are comparable to the various insects. That's all there is to it! The senses envelop and constantly stimulate the mind; when any of them contact something, it immediately reaches the mind. The mind then investigates and examines it thoroughly, after which it returns to the center. This is how we abide — alert, acting with precision and always mindfully comprehending with wisdom. Just this much and our practice is complete. |
Đó là tất cả những ǵ ta cần phải biết: ngồi lại và suy niệm về con nhện. Chỉ làm thế thôi, trí tuệ có thể tự nhiên phát hiện. Tâm ta giống như con nhện. Những cảm tưởng giống như ruồi, muỗi và những loại côn trùng khác nhau. Tất cả chỉ có bấy nhiêu! Giác quan bao trùm và luôn luôn khơi động tâm. Khi một giác quan tiếp xúc với đối tượng, nó lập tức chạy đến tâm. Tâm quán chiếu, suy xét tận tường rồi nhập trở lại vào trung tâm. Ta sống an trú như vậy -- giác tỉnh, hành động chính xác và luôn luôn giữ chánh niệm, hay biết với trí tuệ. Chỉ bấy nhiêu, và pháp hành của ta hoàn thành viên măn. |
This point is very important! It isn't that we have to do sitting practice throughout the day and night, or that we have to do walking meditation all day and all night long. If this is our view of practice, then we really make it difficult for ourselves. We should do what we can according to our strength and energy, using our physical capabilities in the proper amount. |
Điểm nầy rất quan trọng. Chúng ta không nhất thiết phải ngồi thiền suốt ngày suốt đêm, hay là phải đi kinh hành suốt đêm suốt ngày. Nếu quan niệm pháp hành là vậy ta thật sự tạo khó khăn cho ḿnh. Phải làm điều nào mà ḿnh có thể làm được, lượng sức dẻo dai và năng lực của ḿnh và xử dụng khả năng của cơ thể trong mức độ thích nghi. |
It's very important to know the mind and the other senses well. Know how they come and how they go, how they arise and how they pass away. Understand this thoroughly! In the language of Dhamma we can also say that, just as the spider traps the various insects, the mind binds up the senses with Anicca-Dukkha-Anatta (impermanence, unsatisfactoriness, not-self). Where can they go? We keep them for food, these things are stored away as our nourishment.8 That's enough; there's no more to do, just this much! This is the nourishment for our minds, nourishment for one who is aware and understanding. |
Điều rất quan trọng là hiểu biết cái tâm và các giác quan. Thấu hiểu nó đến như thế nào và thấu hiểu nó đi như thế nào. Khởi sanh như thế nào và hoại diệt như thế nào. Hăy thấu hiểu tận tường. Trong ngôn ngữ của Giáo Pháp ta có thể nói rằng giống y như lưới nhện bao bắt ruồi muỗi và những loại côn trùng khác nhau, tâm cột trói giác quan bằng Vô Thường, Khổ, Vô Ngă. Rồi những giác quan ấy đi về đâu? Ta giữ nó lại để làm vật thực, tồn trữ nó vào kho để làm chất liệu dinh dưỡng -- chất liệu để quán niệm nhằm nuôi dưỡng trí tuệ. Đó là chất dinh dưỡng đối với người hay biết và thấu hiểu. |
If you know that these things are impermanent, bound up with suffering and that none of it is you, then you would be crazy to go after them! If you don't see clearly in this way, then you must suffer. When you take a good look and see these things as really impermanent, even though they may seem worth going after, really they are not. Why do you want them when their nature is pain and suffering? It's not ours, there is no self, there is nothing belonging to us. So why are you seeking after them? All problems are ended right here. Where else will you end them? |
Biết rằng những sự vật ấy là vô thường, dính liền với đau khổ và không có ǵ gọi là "ta" th́ phải là điên cuồng ta mới chạy theo chúng! Nếu không nhận thức rơ ràng như vậy ắt ta phải đau khổ. Khi đă quan sát tận tường và thấy rằng những sự vật ấy quả thật là vô thường th́ dầu nó có vẻ như đáng cho ta chạy theo, thật sự nó không đáng. Tại sao ta muốn làm ǵ trong khi bản chất của nó là đau đớn và sầu khổ? Nó không phải của ta, không có thực chất, không có ǵ thuộc về của ta. Như vậy tại sao ta chạy theo t́m nó làm ǵ? Tất cả mọi vấn đề khó khăn đều chấm dứt nơi đây. C̣n đâu khác để ta chấm dứt nó? |
Just take a good look at the spider and turn it inwards, turn it back unto yourself. You will see that it's all the same. When the mind has seen Anicca-Dukkha Anatta, it lets go and releases itself. It no longer attaches to suffering or to happiness. This is the nourishment for the mind of one who practices and really trains himself. That's all, it's that simple! You don't have to go searching anywhere! So no matter what you are doing, you are there, no need for a lot of fuss and bother. In this way the momentum and energy of your practice will continuously grow and mature. |
Chỉ nh́n rơ con nhện và quay cái nh́n vào bên trong ḿnh, hướng cái nh́n trở lại vào trong. Ta sẽ thấy rằng hai h́nh ảnh đều giống nhau y hệt. Khi cái tâm đă thấy Vô Thường, Khổ, Vô Ngă th́ nó buông bỏ tất cả và tự phóng thích. Nó không c̣n bám níu vào đau khổ hay hạnh phúc. Đó là chất liệu dinh dưỡng cho tâm linh người có pháp hành, người thật sự đă tự rèn luyện. Tất cả chỉ có bấy nhiêu, thật giản dị! Ta không cần chạy t́m nơi nào khác. Như vậy bất luận việc ǵ mà ta đang làm, đặt tâm ở ngay tại đó. Không cần phải rầm rộ và phiền nhiễu. Làm như vậy đà tinh tấn và năng lực của pháp hành sẽ tiếp tục tăng cường và trở nên thuần thục. |
Escape |
Tẩu Thoát |
This momentum of practice leads us towards freedom from the cycle of birth and death. We haven't escaped from that cycle because we still insist on craving and desiring. We don't commit unwholesome or immoral acts, but doing this only means that we are living in accordance with the Dhamma of morality: for instance, the chanting when people ask that all beings not be separated from the things that they love and are fond of. If you think about it, this is very childish. It's the way of people who still can't let go. |
Năng lực của pháp hành nầy đưa ta ra khỏi ṿng quanh sanh và tử. Ta măi c̣n thênh thang trong ṿng lẩn quẩn nầy v́ vẫn c̣n ham muốn và khát khao. Chúng ta không c̣n lầm lạc trong những hành động bất thiện hay vi phạm giới luật, nhưng được như vậy chỉ có nghĩa là chúng ta sống điều hợp thuận theo Giới Luật của Giáo Pháp: thí dụ như có người thỉnh chúng ta tụng kinh để cho tất cả chúng sanh đừng xa ĺa những sự vật được thương yêu quư mến. Quư Sư hăy suy nghĩ lại xem! Quả thật là trẻ con. Đó là đường lối của người thế gian, vẫn c̣n chưa có thể buông bỏ. |
This is the nature of human desire — desire for things to be other than the way that they are; wishing for longevity, hoping that there is no death or sickness. This is how people hope and desire, then when you tell them that whatever desires they have which are not fulfilled cause suffering, it clobbers them right over the head. What can they say? Nothing, because it's the Truth! You're pointing right at their desires. |
Đó là bản chất tham ái của con người, khát khao ham muốn những ǵ khác hơn là cái mà họ có: họ muốn được trường thọ, họ mong mỏi sẽ không chết hoặc không bệnh hoạn. Đó là những ǵ mà con người mong mỏi và thèm khát. Rồi khi họ nghe nói rằng bất luận ham muốn nào mà không được thỏa măn sẽ gây đau khổ th́ họ đuối lư. Họ có thể nói ǵ? Không nói ǵ được, bởi v́ đó là Chân Lư. |
When we talk about desires we know that everyone has them and wants them fulfilled, but nobody is willing to stop, nobody really wants to escape. Therefore our practice must be patiently refined down. Those who practice steadfastly, without deviation or slackness, and have a gentle and restrained manner, always persevering with constancy, those are the ones who will know. No matter what arises, they will remain firm and unshakable. |
Khi đề cập đến tham ái ta biết rằng tất cả mọi người đều có ḷng tham và muốn cho tham vọng của ḿnh được thỏa măn. Nhưng không có ai khứng chịu dừng bước, không ai muốn tẩu thoát. Do đó phải làm cho pháp hành của chúng ta ngày càng tế nhị. Những ai thực hành một cách kiên tŕ, không sai lệch hay chểnh mảng, sống cuộc đời hiền ḥa, thu thúc, và luôn luôn chuyên cần tinh tấn, những vị ấy sẽ thấu triệt. Bất cứ ǵ phát sanh, các Ngài luôn luôn vững chắc không lay chuyển. |
The Training of the Heart |
Pháp Luyện Tâm |
(A talk given to a group of Western Monks from Wat Bovornives, Bangkok, March 1977)9 |
(Dưới đây là thời Pháp do Ngài AJAHN CHAH thuyết giảng tại chùa Bovornives, Bangkok, vào năm 1977, trước một cử tọa gồm chư Tăng Thái và một nhóm tỳ khưu người Tây Phương.) |
In the time of Ajahn Mun10 and Ajahn Sao11 life was a lot simpler, a lot less complicated than it is today. In those days monks had few duties and ceremonies to perform. They lived in the forests without permanent resting places. There they could devote themselves entirely to the practice of meditation. |
Vào thời của các Ngài Thiền Sư Ajahn Mun [1] và Ajahn Sao [2], đời sống thật là giản dị, ít phức tạp hơn ngày nay nhiều. Trong những ngày xa xưa ấy có rất ít Phật sự phải làm và rất ít nghi lễ để cử hành. Các Ngài sống giữa rừng sâu, không cố định một nơi nào. Trong hoàn cảnh tương tợ các Ngài có thể dành trọn vẹn th́ giờ của ḿnh để hành thiền. |
In those times one rarely encountered the luxuries that are so commonplace today, there simply weren't any. One had to make drinking cups and spittoons out of bamboo and laypeople seldom came to visit. One didn't want or expect much and was content with what one had. One could live and breathe meditation! |
Những tiện nghi mà ngày nay ta xem là thông thường, ai cũng có, vào thời ấy thật là hiếm hoi; đúng ra là không có tiện nghi ǵ hết. Các Ngài phải dùng ống tre để làm ly uống nước và ống nhổ, c̣n thiện tín cư sĩ th́ chẳng có ai tới lui thăm viếng. Các Ngài không ham muốn, cũng không cầu mong ǵ nhiều mà chỉ an phận, vui vẻ với những ǵ ḿnh đang có. Các Ngài có thể sống và hành thiền, sống và hành thiền cũng tợ như sống và thở. |
The monks suffered many privations living like this. If someone caught malaria and went to ask for medicine, the Teacher would say, "You don't need medicine! Keep practicing." Besides, there simply weren't all the drugs that are available now. All one had were the herbs and roots that grew in the forest. The environment was such that monks had to have a great deal of patience and endurance; they didn't bother over minor ailments. Nowadays you get a bit of an ache and you're off to the hospital! |
Chư sư thời ấy thiếu thốn mọi điều. Nếu có một vị lâm bệnh sốt rét và đến hỏi xin thuốc, th́ vị Thầy Bổn Sư bảo, "Sư không cần thuốc đâu! Cứ tiếp tục hành thiền đi!" Ngày nay th́ chúng ta có đủ loại thuốc chớ thuở đó th́ không có ǵ hết. Người bệnh chỉ có rễ cây và rau cỏ trong rừng. V́ hoàn cảnh đă là vậy, chư Tăng phải có rất nhiều đức tính nhẫn nại và chịu đựng. Các Ngài không màng quan tâm đến những chứng bệnh lặt vặt, không phải như ngày nay, đau một chút ǵ th́ chúng ta vội vă đi ngay đến bệnh viện. |
Sometimes one had to walk ten to twelve kilometers on almsround (pindapad). You would leave as soon as it was light and maybe return around ten or eleven o'clock. One didn't get very much either, perhaps some glutinous rice, salt or a few chilis. Whether you got anything to eat with the rice or not didn't matter. That's the way it was. No one dared complain of hunger or fatigue; they were just not inclined to complain but learned to take care of themselves. They practiced in the forest with patience and endurance alongside the many dangers that lurked in the surroundings. There were many wild and fierce animals living in the jungles and there were many hardships for body and mind in the ascetic practice of the Dhutanga or Forest-Dwelling monk. Indeed, the patience and endurance of the monks in those days was excellent because the circumstances compelled them to be so. |
Đi tŕ b́nh (pindapad) đôi khi các Ngài phải đi xa từ mười đến mười hai cây số. Phải ra đi thật sớm, lúc trời vừa tửng bưng sáng, và có khi đến mười hay mười một giờ trưa mới trở về đến nhà. Vậy mà thọ bát cũng không có ǵ. Không chừng được một ít xôi, muối và vài trái ớt. Dầu có ǵ để ăn với xôi không, điều ấy không thành vấn đề. Đời sống tu hành là vậy. Không ai dám than phiền là đói bụng hay mệt nhọc. Các Ngài không có khuynh hướng than phiền mà chỉ lo tu học phương cách tự chăm sóc lấy ḿnh. Các Ngài nhẫn nhục hành thiền và chịu đựng giữa rừng sâu đầy hiểm họa. Sống lẩn lộn với các Ngài có rất nhiều thú rừng, đủ loại sài lang hổ báo, và lối sống của vị tu sĩ ẩn dật thực hành hạnh Đầu Đà (Dhutanga) [*] thật là khổ nhọc, cho cả thân lẩn tâm. Quả thật vậy, hạnh nhẫn nhục và sức chịu đựng của chư Sư thời bấy giờ lên đến mức độ rất cao, bởi v́ hoàn cảnh lúc bấy giờ bắt buộc các Ngài phải như vậy. |
|
[*] Hạnh Đầu Đà (Dhutanga), theo nghĩa trắng của danh từ, là "phương tiện khuấy động. Ở đây là khuấy động các ô nhiễm. Dhutanga là phương tiện để thanh lọc, làm cho trở nên trong sạch. Đó là những giới luật nghiêm khắc mà Đức Phật khuyên chư Tăng nên hành tŕ để trau giồi những hạnh nhẫn nhục, tri túc, buông bỏ, tinh tấn, an phận với những ǵ ḿnh đang có v.v.. Vị tỳ khưu có thể hành một hoặc nhiều giới của hạnh Đầu Đà trong một thời gian dài hay ngắn, tùy theo lời nguyện. Sách Visuddhi Magga, Thanh Tịnh Đạo lược kê 13 giới khác nhau của hạnh Đầu Đà. |
In the present day, circumstances compel us in the opposite direction. In ancient times, one had to travel by foot; then came the oxcart and then the automobile. Aspiration and ambition increased, so that now, if the car is not air-conditioned, one will not even sit in it; impossible to go if there is no air-conditioning! The virtues of patience and endurance are becoming weaker and weaker. The standards for meditation and practice are lax and getting laxer, until we find that meditators these days like to follow their own opinions and desires. When the old folks talk about the old days, it's like listening to a myth or a legend. You just listen indifferently, but you don't understand. It just doesn't reach you! |
Đến nay th́ khác hẳn. Hoàn cảnh hiện tại đưa đẩy và lôi cuốn chúng ta theo chiều hướng đối nghịch. Thời xưa người ta đi bộ, kế đó đi xe ḅ, rồi đến đi xe hơi. Rồi ước vọng và ḷng khao khát ham muốn tăng trưởng, măi đến nay nếu xe hơi không có máy lạnh ta cũng không muốn ngồi trên đó: không thế nào đi được nếu xe không có máy điều hoà không khí! Hạnh nhẫn nhục và đức tính chịu đựng đă suy giảm, yếu dần. Công tŕnh hành thiền bê trễ, và ngày càng bê trễ hơn, đưa đến t́nh trạng là ngày nay người hành thiền chỉ muốn làm theo ư riêng và sở thích ḿnh. Khi những bậc cao niên nhắc lại những mẫu chuyện thời xưa, họ nghe như chuyện thần thoại hoang đàng. Họ chỉ nghe một cách lơ đễnh mà không quan tâm đến. Họ không hiểu. Nó không đến với họ. |
As far as we should be concerned about the ancient monks' tradition, a monk should spend at least five years with his Teacher. Some days you should avoid speaking to anyone. Don't allow yourself to speak or talk very much. Don't read books! Read your own heart instead. Take Wat Pah Pong for example. These days many university graduates are coming to ordain. I try to stop them from spending their time reading books about Dhamma, because these people are always reading books. They have so many opportunities for reading books, but opportunities for reading their own hearts are rare. So, when they come to ordain for three months following the Thai custom, we try to get them to close their books and manuals. While they are ordained they have this splendid opportunity to read their own hearts. |
Đoạn này không được dịch |
Listening to your own heart is really very interesting. This untrained heart races around following its own untrained habits. It jumps about excitedly, randomly, because it has never been trained. Therefore train your heart! Buddhist meditation is about the heart; to develop the heart or mind, to develop your own heart. This is very, very important. This training of the heart is the main emphasis. Buddhism is the religion of the heart. Only this! One who practices to develop the heart is one who practices Buddhism. |
Lắng nghe chính cái tâm của ḿnh quả thật thích thú kỳ diệu. Cái tâm chưa được rèn luyện nầy không ngừng chạy quanh chạy quẩn theo những thói quen tật cũ hoang dại của nó. Nó nhảy nhót một cách điên cuồng bấn loạn, v́ chưa bao giờ được rèn luyện. V́ lẽ ấy ta phải luyện tâm. Và pháp hành thiền trong Phật Giáo mật thiết liên quan đến tâm. Hăy trau giồi tâm, hăy phát triển chính cái tâm của ta. Điều nầy rất quan trọng, tối quan trọng. Rèn luyện tâm là công tŕnh vô cùng thiết yếu. Phật Giáo là tôn giáo của tâm. Chỉ có thế! Ai thực hành pháp trau giồi tâm là thực hành Phật Giáo. |
This heart of ours lives in a cage, and what's more, there's a raging tiger in that cage. If this maverick heart of ours doesn't get what it wants, it makes trouble. You must discipline it with meditation, with Samadhi. This is called "Training the Heart." At the very beginning, the foundation of practice is the establishment of moral discipline (Sila). Sila is the training of the body and speech. From this arises conflict and confusion. When you don't let yourself do what you want to do, there is conflict. |
Tâm của chúng ta sống trong một cái chuồng. Hơn thế nữa, trong chuồng ấy c̣n có một con cọp hung tợn. Nếu cái tâm buông lung của chúng ta mà không t́m ra được những ǵ cọp muốn th́ con cọp hung dữ ấy sẽ nổi dậy gây rối loạn. Ta phải huấn luyện, khép nó vào kỷ luật bằng pháp hành thiền, bằng tâm định (samàdhi). Làm như vậy gọi là "luyện tâm". Tiên khởi hơn hết, nền tảng của pháp hành là kiên cố giới luật (śla). Śla, giới luật, là luyện thân và luyện khẩu. Từ đó phát sanh xung đột và rối loạn. Khi chống đối, không tự cho phép ḿnh làm điều ḿnh muốn ắt có xung đột. |
Eat little! Sleep little! Speak little! Whatever it may be of worldly habit, lessen them, go against their power. Don't just do as you like, don't indulge in your thought. Stop this slavish following. You must constantly go against the stream of ignorance. This is called "Discipline." When you discipline your heart, it becomes very dissatisfied and begins to struggle. It becomes restricted and oppressed. When the heart is prevented from doing what it wants to do, it starts wandering and struggling. Suffering (Dukkha) 12 becomes apparent to us. |
Ăn bớt lại! Ngủ bớt lại! Nói bớt lại! Bất luận ǵ là thói quen của cuộc sống trần tục, hăy giảm bớt lại. Hăy đi ngược lại sức lôi cuốn của nó. Chớ nên chỉ làm những điều mà ta ưa thích. Chớ nên buông lung, để cho ḍng tư tưởng tự nhiên trôi chảy. Hăy tự kềm hảm, chấm dứt thói quen quỳ lụy phục tùng, để cho nó sai khiến. Ta phải luôn luôn đi ngược ḍng lôi cuốn của vô minh. Đó là "giới luật", kỷ cương. Khi ta khép cái tâm vào khuôn khổ kỷ cương, ắt nó trở nên bất măn và bắt đầu chiến đấu chống lại. Nó bị hạn chế và áp bức. Khi bị ngăn chận, không được tự do làm theo ư muốn th́ cái tâm bắt đầu phóng đi và chiến đấu chống lại. Chừng ấy Dukkha [*], đau khổ, phát sanh, nổi lên hiển hiện cho ta thấy. |
|
[*] Dukkha, đau khổ, hàm xúc những trạng thái tâm bất toại nguyện. Bất măn, không toàn hảo, không an toàn, của tất cả những pháp hữu lậu. Pháp hữu lậu là những ǵ phát sanh và tồn tại do những yếu tố khác tạo điều kiện. Trong thực tế tất cả những sự vật trên thế gian đều là pháp hữu lậu. Bởi v́ tất cả những ǵ làm nguyên nhân và tạo duyên (điều kiện) cho những hiện tượng ấy phát sanh đều phải luôn luôn biến đổi nên chính những hiện tượng ấy cũng luôn luôn biến đổi và do đó, là nhân sanh khổ, dukkha. Dukkha, đau khổ, bao hàm tất cả những h́nh thức bất toại nguyện, từ sự đau đớn thô sơ của cơ thể vật chất, những khổ đau của tuổi già, của bệnh tật và chết chóc, đến những thọ cảm khó chịu, tế nhị hơn như phải xa ĺa người thân kẻ yêu, hay phải kết hợp với người không ưa thích, luôn đến những trạng thái tâm vi tế như dă dượi hôn trầm, phóng dật lo âu v.v... Đây là một trong những khái niệm thường được hiểu lầm hơn hết và cũng là quan trọng hơn hết để phát triển tâm. |
This Dukkha, this suffering, is the first of the Four Noble Truths. Most people want to get away from it. They don't want to have any kind of suffering at all. Actually, this suffering is what brings us wisdom; it makes us contemplate Dukkha. Happiness (Sukha) tends to make us close our eyes and ears. It never allows us to develop patience. Comfort and happiness make us careless. Of these two defilements, Dukkha is the easiest to see. Therefore we must bring up suffering in order to put an end to our suffering. We must first know what Dukkha is before we can know how to practice meditation. |
Dukkha, trạng thái đau khổ, là đế (chân lư) đầu tiên trong Tứ Diệu Đế (bốn chân lư thâm sâu huyền diệu). Phần đông người ta muốn tránh xa, thoát ra khỏi đau khổ. Họ không muốn loại khổ nào hết. Đúng thật ra, chính đau khổ đem trí tuệ đến cho ta. Chính nó làm cho ta quán tưởng dukkha. Hạnh phúc, sukha, làm cho ta nhắm mắt, bịt tai và không bao giờ cho phép ta phát triển hạnh nhẫn nhục. Tiện nghi và hạnh phúc làm cho ta bất cẩn. V́ không nhẫn nhục và không chuyên cần nên ta không thể thấy được Chân Lư Thâm Diệu Cao Thượng Về Sự Khổ (Khổ Đế). Do vậy ta phải khơi dậy trạng thái đau khổ để tận diệt đau khổ của ta. Trước tiên phải hiểu biết dukkha là ǵ rồi mới có thể biết làm thế nào hành thiền. |
In the beginning you have to train your heart like this. You may not understand what is happening or what the point of it is, but when the Teacher tells you to do something, then you must do it. You will develop the virtues of patience and endurance. Whatever happens, you endure, because that is the way it is. |
Trong giai đoạn sơ khởi phải hành như thế nầy. Có thể ta không hiểu biết những ǵ đang xảy ra hay điểm nào là quan trọng, nhưng khi vị Thiền Sư bảo làm điều ǵ ta phải làm đúng lời dạy. Bằng cách đó ta trau giồi hạnh nhẫn nhục và đức tính kiên tŕ chịu đựng. Bất luận điều ǵ xảy đến, ta vẫn kiên tŕ chịu đựng, v́ đường lối tu học là vậy. |
For example, when you begin to practice Samadhi you want peace and tranquillity. But you don't get any. You don't get any because you have never practiced this way. Your heart says, "I'll sit until I attain tranquillity." But when tranquillity doesn't arise, you suffer. And when there is suffering, you get up and run away! To practice like this can not be called "developing the heart." It's called "desertion." |
Thí dụ như khi bắt đầu hành pháp định tâm (samàdhi) ta muốn đạt đến trạng thái vắng lặng và an tĩnh, nhưng mặc dầu cố gắng, ta không thâu đạt kết quả nào. Không có kết quả bởi v́ ta chưa bao giờ hành thiền như vậy. Tâm ta nói, "ta sẽ ngồi đây cho đến khi nào thành đạt trạng thái vắng lặng". Nhưng vắng lặng không phát sanh. Ta đâm ra bất măn, đau khổ. Và khi cảm nghe đau khổ ta đứng dậy, bỏ đi! Hành thiền như thế không thể gọi là "phát triển tâm", phải gọi là "đào tẩu". |
Instead of indulging in your moods, you train yourself with the Dhamma of the Buddha. Lazy or diligent, you just keep on practicing. Don't you think that this is a better way? The other way, the way of following your moods, will never reach the Dhamma. If you practice the Dhamma, then whatever the mood may be, you keep on practicing, constantly practicing. The other way of self-indulgence is not the way of the Buddha. When we follow our own views on practice, our own opinions about the Dhamma, we can never see clearly what is right and what is wrong. We don't know our own heart. We don't know ourselves. |
Thay v́ dể duôi tự buông trôi theo những cảm xúc buồn vui tùy hứng của ḿnh, ta hăy tự uốn nắn, tu tập đúng theo Giáo Pháp (Dhamma) của Đức Phật. Dầu lười biếng hay siêng năng ta cũng vẫn tiếp tục hành thiền. Có phải chăng đó là đường lối tốt đẹp hơn? Lối sống kia, lối sống buông tay tự lăn trôi theo những cơn hứng thú, lúc siêng lúc lười tùy hoàn cảnh, sẽ không bao giờ đưa đến Giáo Pháp. Nếu quyết tâm thực hành Giáo Pháp th́ dầu ở trong tâm trạng nào ta vẫn một mực tinh tấn hành thiền, một mực kiên tŕ chuyên cần. Dễ dăi tự nuông chiều để cuộc sống đẩy đưa tùy hứng không phải là con đường của Đức Phật. Nếu khăng khăng cố giữ quan kiến riêng của ḿnh về Giáo Pháp ta sẽ không bao giờ nh́n thấy rơ ràng điều nào là đúng, điều nào sai. Ta không hiểu biết tâm ḿnh. Ta không tự hiểu biết chính ḿnh. |
Therefore, to practice following your own teachings is the slowest way. To practice following the Dhamma is the direct way. Lazy you practice; diligent you practice. You are aware of time and place. This is called "developing the heart." |
Vậy, hành thiền theo lời dạy của chính ḿnh là đường lối chậm trễ nhất. Hành theo Giáo Pháp là con đường trực tiếp. Lười biếng, ta hành; siêng năng, ta hành. Ta hay biết thời gian và nơi chốn ḿnh đang thực hành. Đó gọi là "phát triển tâm". |
If you indulge in following your own views and try to practice accordingly, then you will start thinking and doubting a lot. You think to yourself, "I don't have very much merit. I don't have any luck. I've been practicing meditation for years now and I'm still unenlightened. I still haven't seen the Dhamma." To practice with this kind of attitude can not be called "developing the heart." It is called "developing disaster." |
Nếu dễ dăi chiều theo quan kiến riêng của ḿnh và cố gắng thực hành đúng theo đó ta sẽ bắt đầu suy tư và hoài nghi nhiều điều. Ta tự nghĩ, "Tôi không được có nhiều phước báu. Tôi không được may mắn. Tôi đă cố gắng hành thiền trong nhiều năm qua mà vẫn không thành đạt Đạo Quả nào. Tôi vẫn chưa thấy được Giáo Pháp". Hành thiền với thái độ tương tợ không thể gọi là "phát triển tâm". Gọi đó là "phát triển thảm bại". |
If, at this time, you are like this, if you are a meditator who still doesn't know, who doesn't see, if you haven't renewed yourself yet, it's because you've been practicing wrongly. You haven't been following the Teachings of the Buddha. The Buddha taught like this: "Ananda, practice a lot! Develop your practice constantly! Then all your doubts, all your uncertainties, will vanish." These doubts will never vanish through thinking, nor through theorizing, nor through speculation, nor through discussion. Nor will doubts disappear by not doing anything. All defilements will vanish through developing the heart, through right practice only. |
Trong giờ phút nầy, nếu ta c̣n ở trong t́nh trạng như vậy, hành thiền mà không biết, không thấy, không tự ḿnh thay đổi, là v́ cho đến nay ta thực hành theo một đường lối sai lầm. Ta không theo đúng pháp hành mà Đức Thế Tôn giáo truyền. Đức Phật dạy: "Nầy Ànanda, hăy hành thật nhiều! Luôn luôn chuyên cần phát triển pháp hành! Chừng đó tất cả mọi hoài nghi, tất cả những ǵ c̣n mơ hồ, sẽ tan biến". Những hoài nghi và mơ hồ ấy không bao giờ biến tan v́ chúng ta suy tư, v́ chúng ta lập luận, v́ chúng ta biện luận, hay v́ chúng ta tranh luận. Những hoài nghi ấy cũng không chấm dứt v́ ta không làm ǵ hết. Tất cả mọi ô nhiễm sẽ tan biến v́ ta phát triển tâm, v́ ta thực hành đúng theo Giáo Pháp. |
The way of developing the heart as taught by the Buddha is the exact opposite of the way of the world, because his Teachings come from a pure heart. A pure heart, unattached to defilements, is the Way of the Buddha and His Disciples. |
Đường lối phát triển tâm mà Đức Phật giáo truyền có chiều hướng nghịch hẳn với con đường của thế gian, bởi v́ giáo lư nầy phát nguyên từ một cái tâm hoàn toàn trong sạch. Tâm thanh tịnh không bám níu ô nhiễm là con đường của Đức Phật và chư Thánh đệ tử của Ngài. |
If you practice the Dhamma, you must bow your heart to the Dhamma. You must not make the Dhamma bow to you. When you practice this way. suffering arises. There isn't a single person who can escape this suffering. So when you commence your practice suffering is right there. |
Muốn thực hành Giáo Pháp ta phải uốn nắn, tự rèn luyện để cái tâm của ḿnh thích hợp với Giáo Pháp. Không nên bóp méo Giáo Pháp để Giáo Pháp thích hợp với ḿnh. Làm vậy ắt đau khổ phát sanh. Không ai tránh khỏi đau khổ. Vậy, khi ta bắt đầu hành thiền đau khổ đă có sẵn ngay tại đây rồi. |
The duties of meditators are mindfulness, collectedness and contentment. These things stop us. They stop the habits of the hearts of those who have never trained. And why should we bother to do this? If you don't bother to train your heart, then it remains wild, following the ways of nature. It's possible to train that nature so that it can be used to advantage. This is comparable to the example of trees. If we just left trees in their natural state, then we would never be able to build a house with them. We couldn't make planks or anything of use in building a house. However, if a carpenter came along wanting to build a house, he would go looking for trees such as these. He would take this raw material and use it to advantage. In a short time he could have a house built. |
Bổn phận người hành thiền là phải giữ chánh niệm, trụ tâm và an phận. Những pháp tu tập nầy giúp ta dừng lại. Tâm của người chưa từng bao giờ hành thiền có những thói quen buông lung. Công phu tu tập nầy chận đứng những thói quen ấy. Tại sao ta phải chịu khó như vậy? V́ nếu không chịu khó rèn luyện, ắt tâm măi c̣n ở trong t́nh trạng hoang dại, măi chạy theo những đường lối thiên nhiên. Ta có thể rèn luyện cái bản chất thiên nhiên ấy và xử dụng tâm một cách có lợi ích. Cũng như một cội cây. Nếu để ở trong trạng thái thiên nhiên với cành lá sum sê, ắt không bao giờ dựng lên được một ngôi nhà. Cây ở trong t́nh trạng ấy, ta không thể cưa ra thành ván để cất nhà. Tuy nhiên, nếu có người tiều phu rong lá, chặt cành, làm cho cây trở nên suôn sẻ, người thợ cưa sả cây ra, người thợ mộc gọt đẽo thành ván, thành cột, kèo, rui, mè v.v... không bao lâu ta có thể dùng đó mà dựng lên ngôi nhà. |
Meditation and developing the heart are similar to this. You must take this untrained heart, the same as you would take a tree in its natural state in the forest, and train this natural heart so that it is more refined, so that it's more aware of itself and is more sensitive. Everything is in its natural state. When we understand nature, then we can change it, we can detach from it, we can let go of it. Then we won't suffer anymore. |
Hành thiền và phát triển tâm cũng dường thế ấy. Ta bắt đầu với cái tâm chưa được rèn luyện -- giống như cội cây sum sê cành lá trong trạng thái thiên nhiên giữa rừng -- và rèn luyện cái tâm thiên nhiên ấy, làm cho nó ngày càng tế nhị, càng bén nhạy và sâu sắc hơn. Tất cả đều ở trong trạng thái thiên nhiên. Khi thấu hiểu trạng thái thiên nhiên như thế nào ta có thể đổi thay, có thể tự tách rời ra khỏi nó và buông bỏ, để nó đi qua. Chừng đó không c̣n đau khổ nữa. |
The nature of our heart is such that whenever it clings and grasps there is agitation and confusion. First it might wander over there, then it might wander over here. When we come to observe this agitation, we might think that it's impossible to train the heart and so we suffer accordingly. We don't understand that this is the way the heart is. There will be thought and feelings moving about like this even though we are practicing, trying to attain peace. That's the way it is. |
Bản chất của tâm là mỗi khi nó dính mắc và bám níu th́ có chao động và rối loạn. Nó có thể phóng đi đầu nầy rồi nhảy đi đầu kia. Trong khi quan sát ta nh́n thấy trạng thái chao động và có thể nghĩ rằng không làm sao rèn luyện được tâm. Nghĩ như vậy ta đâm ra chán nản, buồn phiền, đau khổ. Ta không thấu hiểu rằng tâm là vậy. Mặc dầu ta đang hành thiền, cố gắng t́m trạng thái an tĩnh, luôn luôn có những tư tưởng và những cảm thọ di chuyển, chao động lăng xăng. Nó là vậy. |
When we have contemplated many times the nature of the heart, then we will come to understand that this heart is just as it is and can't be otherwise. We will know that the heart's ways are just as they are. That's its nature. If we see this clearly, then we can detach from thoughts and feelings. And we don't have to add on anything more by constantly having to tell ourselves that "that's just the way it is." When the heart truly understands, it lets go of everything. Thinking and feeling will still be there, but that very thinking and feeling will be deprived of power. |
Khi quán tưởng nhiều về bản chất của tâm ta sẽ thấu hiểu rằng tâm là vậy, không thế nào khác. Ta sẽ thấu hiểu rằng sinh hoạt của tâm chỉ là vậy. Bản chất của nó là vậy. Nếu thấy được rơ ràng như vậy ta có thể tự tách rời ra khỏi những tư tưởng và thọ cảm. Trong khi luôn luôn tự nhủ rằng, "nó là vậy, nó chỉ là vậy" ta không cần phải thêm ǵ khác. Khi tâm thật sự hiểu biết nó sẽ để cho tất cả trôi qua mà không dính mắc. Tư tưởng và thọ cảm vẫn c̣n đó. Nhưng chính những tư tưởng và thọ cảm ấy không c̣n năng lực lôi kéo hay quyến rũ nữa. Nó là nó, tâm là tâm. |
This is similar to a child who likes to play and frolic in ways that annoy us, to the extent that we scold or spank him. We should understand that it's natural for a child to act that way. Then we could let go and leave him to play in his own way. So our troubles are over. How are they over? Because we accept the ways of children. Our outlook changes and we accept the true nature of things. We let go and our heart becomes more peaceful. We have "Right Understanding." |
Sự kiện nầy cũng giống như có em bé đùa nghịch làm cho ta khó chịu, la rầy, hay phát đít em. Ta nên hiểu rằng bẩm chất của trẻ con là đùa nghịch. Khi đă hiểu như vậy rồi ta có thể không quan tâm đến và để nó chơi đùa tự nhiên. Như vậy ta không c̣n khó chịu nữa. Trạng thái bực bội ắt chấm dứt. Tại sao trạng thái bực bội chấm dứt? Bởi v́ ta đă chấp nhận bản chất thật sự của sự vật. Ta buông bỏ, không bám níu, và tâm trở nên an tĩnh. Ta đă có "chánh kiến". |
If we have wrong understanding, then even living in a deep, dark cave would be chaos, or living high up in the air would be chaos. The heart can only be at peace when there is "Right Understanding." Then there are no more riddles to solve and no more problems to arise. |
Nếu quan kiến của ta sai lầm th́ dầu sống trong hang đá sâu thẩm tối đen cũng vẫn bị xáo trộn, mà tung bay lên tận không trung mênh mông cũng vẫn vị xáo trộn. Tâm chỉ được an lạc khi có chánh kiến. Chừng đó không c̣n ǵ khó khăn bí ẩn để giải quyết, không c̣n vấn đề phiền phức. |
This is the way it is. You detach. You let go. Whenever there is any feeling of clinging, we detach from it, because we know that that very feeling is just as it is. It didn't come along especially to annoy us. We might think that it did, but in truth it is just that way. If we start to think and consider it further, that too, is just as it is. If we let go, then form is merely form, sound is merely sound, odor is merely odor, taste is merely taste, touch is merely touch and the heart is merely the heart. It's similar to oil and water. If you put the two together in a bottle, they won't mix because of the difference in their nature |
Đó là đường lối chân chánh. Ta tự tách rời để cho tất cả trôi qua mà không dính mắc. Mỗi khi có cảm giác bám níu phát sanh ta tự tách rời ra khỏi nó bởi v́ đă thấu hiểu rằng chính cảm giác ấy cũng chỉ là vậy, đến rồi đi, sanh rồi diệt. Nó đến, không phải để quấy rầy ta. Ta có thể nghĩ như vậy, cho rằng nó đến để quấy rầy ta, nhưng trong thực tế đó chỉ là bản chất thiên nhiên của nó -- cũng như đùa nghịch là bản chất thiên nhiên của trẻ con. Dầu ta có quán xét và suy tư sâu xa hơn nữa th́ cũng vậy. Nó chỉ là vậy. Nếu ta để cho tất cả trôi qua th́ h́nh sắc chỉ là h́nh sắc, âm thanh chỉ là âm thanh, mùi chỉ là mùi, vị chỉ là vị, xúc chạm chỉ là xúc chạm, và tâm chỉ là tâm. Cũng như dầu với nước. Ta có thể để chung dầu và nước trong một cái lọ, hai thứ vẫn không ḥa lẩn nhau bởi v́ bản chất của hai thứ khác nhau. |
Oil and water are different in the same way that a wise man and an ignorant man are different. The Buddha lived with form, sound, odor, taste, touch and thought. He was an arahant (Enlightened One), so He turned away from rather than toward these things. He turned away and detached little by little since He understood that the heart is just the heart and thought is just thought. He didn't confuse and mix them together. |
Dầu và nước khác nhau cũng như người trí tuệ và người si mê khác nhau. Đức Phật sống giữa sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, nhưng đă là bậc A La Hán, Ngài xây lưng và tự tách rời ra dần dần. Ngài thấu triệt rằng tâm chỉ là tâm và tư tưởng chỉ là tư tưởng. Ngài không mơ hồ lầm lẩn và pha trộn lẩn nhau. |
The heart is just the heart; thoughts and feelings are just thoughts and feelings. Let things be just as they are! Let form be just form, let sound be just sound, let thought be just thought. Why should we bother to attach to them? If we think and feel in this way, then there is detachment and separateness. Our thoughts and feelings will be on one side and our heart will be on the other. Just like oil and water — they are in the same bottle but they are separate. |
Tâm chỉ là tâm. Tư tưởng và thọ cảm chỉ là tư tưởng và thọ cảm. Thật sự nó là vậy, hăy để cho nó là vậy. Sự vật như thế nào hăy để cho sự vật đúng là vậy! Hăy để cho cái ǵ là cái đó! Sắc chỉ là sắc, thinh chỉ là thinh, ư là ư. Tại sao ta phải bận tâm bám níu nó? Nếu suy tư và thọ cảm như vậy ta sẽ buông bỏ và tự tách rời ra. Tư tưởng và thọ cảm sẽ ở một bên, c̣n tâm th́ ở bên kia. Cũng như dầu và nước -- cả hai thể chất cùng ở trong một lọ nhưng riêng biệt, không ḥa tan lẩn nhau. |
The Buddha and His Enlightened Disciples lived with ordinary, unenlightened people. They not only lived with these people, but they taught these ordinary, unenlightened, ignorant ones how to be Noble, Enlightened, Wise Ones. They could do this because they knew how to practice. They knew that it's a matter of the heart, just as I have explained. |
Đức Phật và chư Thánh Tăng đệ tử của Ngài sống chung với những người thường, những người phàm. Chẳng những sống chung với các người ấy mà các Ngài c̣n giáo dục họ, những người phàm tục tầm thường và si mê ấy, dạy họ phải làm thế nào để trở nên cao siêu thánh thiện, giác ngộ và có trí tuệ. Các Ngài có thể làm điều ấy v́ các Ngài thông suốt pháp hành thiền. Các Ngài thấu hiểu rằng đây chỉ là vấn đề luyện tâm, như Sư vừa giải thích. |
So, as far as your practice of meditation goes, don't bother to doubt it. If we run away from home to ordain, it's not running away to get lost in delusion. Nor out of cowardice or fear. It's running away in order to train ourselves, in order to master ourselves. If we have understanding like this, then we can follow the Dhamma. The Dhamma will become clearer and clearer. The one who understands the Dhamma, understands himself; and the one who understands himself, understands the Dhamma. Nowadays, only the sterile remains of the Dhamma have become the accepted order. In reality, the Dhamma is everywhere. There is no need to escape to somewhere else. Instead escape through wisdom. Escape through intelligence. Escape through skill. don't escape through ignorance. If you want peace, then let it be the peace of wisdom. That's enough! |
Như vậy, chớ nên lo lắng và hoài nghi pháp hành thiền. Chúng ta ly gia cắt ái để trở thành tu sĩ chớ không phải rời bỏ cửa nhà để lạc lối trong đám mây mù si mê ảo kiến. Cũng không phải v́ hèn nhát hay sợ sệt. Chúng ta ra đi để tự rèn luyện, để làm chủ lấy ḿnh. Hiểu biết như vậy ta có thể noi theo con đường của Giáo Pháp. Giáo Pháp ngày càng tỏ rạng hơn. Người nào hiểu biết Giáo Pháp hiểu biết chính ḿnh, và người hiểu biết chính ḿnh cũng hiểu biết Giáo Pháp. Ngày nay chỉ có phần tinh khiết c̣n lại của Giáo Pháp là được chấp nhận. Thật ra th́ Giáo Pháp ở khắp cùng. Không cần phải lẩn đến nơi nào để t́m. Thay v́ đi đâu t́m, hăy lẩn đến bằng trí tuệ, lẩn đến bằng trí minh mẫn sáng suốt, lẩn đến bằng hạnh khôn khéo tinh xảo. Không nên lẩn đến Giáo Pháp bằng si mê. Nếu muốn thật sự an lạc, trạng thái an lạc ấy phải là an lạc của trí tuệ. Đủ rồi! Chỉ có bấy nhiêu! |
Whenever we see the Dhamma, then there is the right way, the right path. Defilements are just defilements, the heart is just the heart. Whenever we detach and separate so that there are just these things as they really are, then they are merely objects to us. When we are on the right path, then we are impeccable. When we are impeccable, there is openness and freedom all the time. |
Bất luận lúc nào thấy Giáo Pháp th́ đó là con đường chánh, đúng là chánh đạo. Ô nhiễm chỉ là ô nhiễm, tâm chỉ là tâm. Mỗi khi ta buông bỏ và tự tách rời để thấy sự vật chỉ là sự vật, như thật sự nó là vậy, chừng đó ta nhận thức rằng nó chỉ là trần cảnh, những đối tượng của ta. Khi đă đi đúng trên con đường chánh ta trở thành hoàn toàn trong sạch, không c̣n khuyết điểm, tức luôn luôn có trạng thái siêu thoát và tự tại. |
The Buddha said, "Listen to me, Monks. You must not cling to any dhammas." 13 What are these dhammas? They are everything; there isn't anything which is not dhamma. Love and hate are dhammas, happiness and suffering are dhammas, like and dislike are dhammas; all of these things, no matter how insignificant, are dhammas. When we practice the Dhamma, when we understand, then we can let go. And thus we can comply with the Buddha's Teaching of not clinging to any dhammas. |
Đức Phật dạy: "Hăy lắng tai nghe, nầy chư tỳ khưu, chớ nên bám níu vào các pháp". Nơi đây, "các pháp" có nghĩa là "các pháp hữu lậu" [*]. Các pháp hữu lậu ấy là ǵ? -- Nó là tất cả. Không có bất luận sự vật nào hay hiện tượng nào trên thế gian mà không phải là pháp hữu lậu. T́nh thương và thù hận là pháp hữu lậu, hạnh phúc và đau khổ là pháp hữu lậu, ưa thích và ghét bỏ là pháp hữu lậu. Tất cả những sự việc ấy, dầu là ít oi không đáng kể như thế nào, đều là pháp hữu lậu. Khi ta thực hành Giáo Pháp, khi thấu hiểu sâu xa, ta có thể buông bỏ và để cho nó trôi qua. Và như thế, ta có thể làm đúng theo lời của Đức Tôn Sư là "không bám níu vào các pháp hữu lậu". |
|
[*] Dhamma và dhamma: nên ghi nhận những ư nghĩa khác nhau của danh từ "dhamma" (định luật thiên nhiên về sự giải thoát mà Đức Phật đă t́m ra và truyền dạy) và "dhamma" (đối tượng của tâm), "các pháp hữu lậu" -- cũng được gọi là các pháp hữu vi, hay các hành, hoặc các sự vật được cấu tạo. |
All conditions that are born in our heart, all conditions of our mind, all conditions of our body, are always in a state of change. The Buddha taught not to cling to any of them. He taught His Disciples to practice in order to detach from all conditions and not to practice in order to attain to any more. |
Tất cả những hiện tượng phát sanh trong tư tưởng, tất cả những hiện tượng phát sanh trong tâm, tất cả những hiện tượng phát sanh đến thân của chúng ta đều ở trong trạng thái luôn luôn biến đổi. Đức Phật dạy không nên bám níu vào bất luận ǵ. Ngài dạy hàng đệ tử hành thiền nhằm tách rời ra khỏi những điều ấy chớ không phải hành để đạt đến điều ǵ. Hành để buông bỏ chớ không phải hành để có thêm được ǵ. |
If we follow the Teachings of the Buddha, then we are right. We are right but it is also troublesome. It's not that the Teachings are troublesome, but it's our defilements which are troublesome. The defilements wrongly comprehended obstruct us and cause us trouble. There isn't really anything troublesome with following the Buddha's Teaching. In fact we can say that clinging to the Path of the Buddha doesn't bring suffering, because the Path is simply "let go" of every single dhamma! |
Nếu hành đúng theo lời dạy của Đức Phật là chúng ta hành đúng. Hành đúng, nhưng cũng phiền phức. Không phải giáo huấn của Đức Phật là phiền phức mà chính những ô nhiễm của chúng ta là phiền phức. Những ô nhiễm được hiểu biết sai lầm gây phiền phức cho chúng ta. Thật ra, hành đúng theo giáo huấn mà Đức Phật truyền dạy th́ không có ǵ phiền phức. Ta có thể nói rằng bám sát vào con đường của Đức Phật không đem lại đau khổ v́ Con Đường chỉ giản dị là buông bỏ, "để trôi qua", tức không bám níu vào bất luận pháp nào! |
For the ultimate in the practice of Buddhist Meditation, the Buddha taught the practice of "letting go." don't carry anything around! Detach! If you see goodness, let it go. If you see rightness, let it go. These words, "let go," do not mean that we don't have to practice. It means that we have to practice following the method of "letting go" itself. The Buddha taught us to contemplate all dhammas, to develop the Path through contemplating our own body and heart. The Dhamma isn't anywhere else. It's right here! Not someplace far away. It's right here in this very body and heart of ours. |
Đến mức cùng tột, trong pháp hành thiền của Phật Giáo Đức Phật dạy thực hành nghệ thuật "để trôi qua", "buông bỏ", chớ nên mang theo bất luận ǵ! Hăy buông bỏ! Nếu thấy điều tốt đẹp, hăy để nó trôi qua. Nếu thấy điều chân chánh, hăy để nó trôi qua. Nói rằng "để nó trôi qua" không có nghĩa là không làm ǵ hết, mà thật sự có nghĩa là phải hành phương pháp "để trôi qua" ấy. Phương pháp ấy là: không dính mắc, không luyến ái, không bám níu, mà buông bỏ. Đức Phật dạy ta quán tưởng tất cả các pháp, phát triển Con Đường bằng cách quán niệm thân và tâm của chúng ta. Giáo Pháp không ở đâu khác. Nó ở ngay tại đây! Không phải ở nơi nào xa lạ mà trong chính cái thân và cái tâm nầy của ta. |
Therefore a meditator must practice with energy. Make the heart grander and brighter. Make it free and independent. Having done a good deed, don't carry it around in your heart, let it go. Having refrained from doing an evil deed, let it go. The Buddha taught us to live in the immediacy of the present, in the here and now. Don't lose yourself in the past or the future. |
Như vậy hành giả phải tinh tấn hành thiền. Phải làm cho tâm của ḿnh càng to lớn hơn và ngày càng sáng suốt, tỏ rạng hơn. Phải làm cho nó tự do và độc lập. Khi đă thực hiện một hành động thiện, không nên mang nó theo trong tâm mà để nó trôi qua. Khi đă tự chế, không làm một điều bất thiện, hăy để nó trôi qua. Đức Phật dạy ta sống trong hiện tại kế cận nhất, nơi đây, và trong khoảnh khắc nầy. Chớ nên dể duôi tự buông trôi, lạc lối trong quá khứ hay trong vị lai. |
The Teaching that people least understand and which conflicts the most with their own opinions, is this Teaching of "letting go" or "working with an empty mind." This way of talking is called "Dhamma language." When we conceive this in worldly terms, we become confused and think that we can do anything we want. It can be interpreted this way, but its real meaning is closer to this: It's as if we are carrying a heavy rock. After a while we begin to feel its weight but we don't know how to let it go. So we endure this heavy burden all the time. If someone tells us to throw it away, we say, "If I throw it away, I won't have anything left!" If told of all the benefits to be gained from throwing it away, we wouldn't believe them but would keep thinking, "If I throw it away, I will have nothing!" So we keep on carrying this heavy rock until we become so weak and exhausted that we can no longer endure, then we drop it. |
Giáo huấn mà người ta ít lănh hội nhất, mà cũng thường xung đột nhất với quan niệm của người đời là "hăy để trôi qua", hoặc "hành động với cái tâm rỗng không". Đây chỉ là một lối nói theo "ngôn ngữ của Giáo Pháp". Khi diễn đạt giáo huấn nầy qua ngôn ngữ thông thường của thế gian th́ chúng ta trở nên mơ hồ, bối rối, và nghĩ rằng ta có thể làm bất luận ǵ mà ta muốn. Có thể diễn dịch như vậy, nhưng ư nghĩa thật sự gần nhất của lời dạy nầy là: Cũng như ta khuân một tảng đá nặng. Đi một đổi, ta cảm nghe tảng đá càng nặng hơn, nhưng không biết phải làm thế nào để buông bỏ, tách rời nó ra. Và như vậy, ta cắn răng măi chịu đựng sức nặng của tảng đá. Nếu có ai thấy vậy bảo ta quẳng nó đi, ta sẽ nói, "nếu quẳng nó đi th́ tôi c̣n ǵ?" Nếu có ai giải thích cho ta về những lợi ích của sự buông bỏ tảng đá xuống, ắt ta không tin và nghĩ rằng, "nếu quẳng nó đi ta sẽ không c̣n lại ǵ." Và như vậy, ta tiếp tục khuân vát tảng đá cho đến khi quá mệt mỏi, yếu dần và kiệt sức, không c̣n chịu đựng được nữa. Chừng đó ta buông tảng đá xuống. |
Having dropped it, we suddenly experience the benefits of letting go. We immediately feel better and lighter and we know for ourselves how much of a burden carrying a rock can be. Before we let go of the rock, we couldn't possibly know the benefits of letting go. So if someone tells us to let go, an unenlightened man wouldn't see the purpose of it. He would just blindly clutch at the rock and refuse to let go until it became so unbearably heavy that he just had to let go. Then he can feel for himself the lightness and relief and thus know for himself the benefits of letting go. Later on we may start carrying burdens again, but now we know what the results will be, so we can now let go more easily. This understanding that it's useless to carry burdens around and that letting go brings ease and lightness is an example of knowing ourselves. |
Khi buông tảng đá xuống bỗng nhiên ta kinh nghiệm lợi ích của sự buông bỏ. Trong tức khắc ta cảm nghe thoải mái hơn, nhẹ nhàng hơn, và chính tự bản thân, ta nhận thức rằng khuân vác, mang kè kè theo ḿnh một tảng đá là nhọc nhằn như thế nào. Trước khi tự tách rời, buông nó ra, ta không thể hiểu biết lợi ích của sự buông xả. Do đó nếu có ai khuyên hăy buông bỏ, người chưa giác ngộ sẽ không thông hiểu tại sao phải buông bỏ. Người ấy sẽ bám níu tảng đá một cách mù quáng và từ chối, nhất định không buông ra, cho đến khi cảm nghe quá nặng, ḿnh không c̣n chịu nổi nữa mới chịu buông bỏ, quẳng xuống gánh nặng. Chừng ấy mới nghe nhẹ nhàng, thoải mái dễ chịu, và chính tự bản thân lănh hội đầy đủ những lợi ích của sự buông xả. Về sau, có thể ta c̣n bắt đầu khuân một tảng đá khác, nhưng lúc bấy giờ ta đă hiểu biết hậu quả của việc khuân vát một tảng đá là nặng nhọc như thế nào, và ta sẽ buông bỏ dễ dàng hơn. Sự hiểu biết rằng mang gánh nặng trên vai đi quanh quẩn là vô ích và đặt nó xuống, bỏ nó lại, sẽ tạo cho ḿnh trạng thái nhẹ nhàng thoải mái là một trường hợp cho thấy lợi ích của sự tự hiểu biết ḿnh. |
Our pride, our sense of self that we depend on, is the same as that heavy rock. Like that rock, if we think about letting go of self-conceit, we are afraid that without it, there would be nothing left. But when we can finally let it go, we realize for ourselves the ease and comfort of not clinging. |
Tính ngă mạn [*] của chúng ta và ư niệm về một tự ngă mà ta bị chi phối nặng nề cũng giống như tảng đá. Cũng dường như đối với tảng đá, nếu nghĩ đến việc buông bỏ, không chấp vào cái tự ngă của ḿnh th́ ta sợ rằng sẽ không c̣n ǵ hết. Nhưng cuối cùng, khi buông bỏ được rồi tự chính ta nhận thức rằng không bám níu là thoải mái dễ chịu. |
|
[*] Nơi đây danh từ "ngă mạn" được phiên dịch từ Phạn ngữ "Màna", không chỉ có nghĩa là tự cao tự đại như thường danh từ nầy được hiểu. "Màna", ngă mạn, là cố chấp vào cái "ngă" của ḿnh và so sánh. Tự cho ḿnh là hơn người, tự cho ḿnh là bằng người, và tự cho ḿnh là thua kém người, là ba h́nh thức khác nhau của tâm ngă mạn. Ngă mạn là một trong mười thằng thúc, tức mười dây trói buộc cột chúng sanh vào ṿng luân hồi. Đến khi chứng đắc Đạo Quả A La Hán mới tận diệt được thằng thúc "ngă mạn". (Lời người dịch) |
In the training of the heart, you mustn't cling to either praise or blame. To just want praise and not to want blame is the way of the world. The Way of the Buddha is to accept praise when it is appropriate and to accept blame when it is appropriate. For example, in raising a child it's very good not to just scold all the time. Some people scold too much. A wise person knows the proper time to scold and the proper time to praise. Our heart is the same. Use intelligence to know the heart. Use skill in taking care of your heart. Then you will be one who is clever in the training of the heart. And when the heart is skilled, it can rid us of our suffering. Suffering exists right here in our hearts. It's always complicating things, creating and making the heart heavy. It's born here. It also dies here. |
Trong pháp luyện tâm ta phải tập buông xả, không bám vào lời khen hay tiếng chê. Muốn được ngợi khen và không muốn bị khiển trách là con đường của thế gian. Con đường của Đức Phật là chấp nhận lời khen khi đáng được ngợi khen và chấp nhận lời khiển trách khi đáng bị khiển trách. Chẳng hạn như dạy dỗ trẻ con, nếu ta không rầy la suốt ngày th́ thật là rất tốt. Có người rầy la quá nhiều. Người sáng suốt biết la rầy đúng lúc và khen ngợi đúng lúc. Tâm ta cũng vậy. Hăy dùng trí để hiểu biết tâm. Hăy khôn khéo chăm sóc tâm. Chừng ấy ta sẽ trở thành người có tài luyện tâm. Và khi đă trở nên thuần thục, tâm có thể loại trừ đau khổ. Đau khổ ở ngay tại đây, trong tâm ta. Đau khổ luôn luôn làm cho sự vật trở nên phức tạp, luôn luôn biến chế, luôn luôn sáng tạo, làm cho tâm nặng nề. Nó phát sanh ngay tại đây và cũng hoại diệt tại nơi nầy. |
The way of the heart is like this. Sometimes there are good thoughts, sometimes there are bad thoughts. The heart is deceitful. Don't trust it! Instead look straight at the conditions of the heart itself. Accept them as they are. They're just as they are. Whether it's good or evil or whatever, that's the way it is. If you don't grab hold of these conditions, then they don't become anything more or less than what they already are. If we grab hold we'll get bitten and will then suffer. |
Bẩm chất của tâm là vậy. Đôi khi có những tư tưởng thiện, lắm lúc có những tư tưởng bất thiện. Tâm quả thật gian xảo. Không nên tin nó. Thay v́ tin, hăy nh́n thẳng vào sinh hoạt của nó. Nó như thế nào hăy chấp nhận nó là vậy. Nó chỉ là nó thôi. Dầu là thiện, bất thiện, hay thế nào đi nữa, nó là vậy. Không hơn, không kém. Nếu ta bám chặt vào ắt bị nó cắn và sẽ đau khổ. |
With "Right View" there's only peace. Samadhi is born and wisdom takes over. Wherever you may sit or lie down, there is peace. There is peace everywhere, no matter where you may go. |
Với "chánh kiến" chỉ có an tĩnh. Tâm định (samàdhi) phát sanh và nhường chỗ cho trí tuệ. Dầu trong tư thế nào, bất luận nơi nào mà ta ngồi hoặc nằm, chỉ có trạng thái an tĩnh. An tĩnh ở khắp nơi, dầu ta đi đâu cũng vậy. |
So today you have brought your disciples here to listen to the Dhamma. You may understand some of it, some of it you may not. In order for you to understand more easily, I've talked about the practice of meditation. Whether you think it is right or not, you should take and contemplate it. |
Hôm nay quư Sư Huynh mang đệ tử đến đây để nghe Giáo Pháp. Có lẽ quư vị lănh hội được một vài điểm của thời Pháp. Cũng có vài điểm quư vị không lănh hội. Nhằm giúp quư vị thấu hiểu dễ dàng Sư đă đề cập đến pháp hành thiền. Dầu quư vị nghĩ rằng lời của Sư đúng hay không đúng, hăy thọ lănh và suy niệm. |
As a Teacher myself, I've been in a similar predicament. I, too, have longed to listen to Dhamma talks because, wherever I went, I was giving talks to others but never had a chance to listen. So, at this time, you really appreciate listening to a talk from a Teacher. Time passes by so quickly when you're sitting and listening quietly. You're hungry for Dhamma so you really want to listen. At first, giving talks to others is a pleasure, but after awhile, the pleasure is gone. You feel bored and tired. Then you want to listen. So when you listen to a talk from a Teacher, you feel much inspiration and you understand easily. When you are getting old and there's hunger for Dhamma, its flavor is especially delicious. |
Chính Sư đây cũng là một thiền sư như quư Sư. Sư cũng đă có trải qua những trường hợp khó khăn tương tợ. Sư cũng vậy, rất thèm muốn được nghe Giáo Pháp bởi v́ đi đến đâu Sư cũng phải giảng cho người khác chớ không bao giờ được cơ hội để nghe. Như vậy, lần nầy quư Sư thật sự thưởng thức một thời Pháp do một thiền sư thuyết giảng. Thời gian trôi qua rất nhanh khi ta ngồi im lặng lắng nghe Giáo Pháp. Quư vị thèm khát được nghe Giáo Pháp nên hôm nay thật sự quư vị muốn nghe. Lúc ban đầu, thuyết giảng Giáo Pháp cho người khác là một thích thú, nhưng sau một thời gian cái thích thú ấy cũng tan dần. Ta cảm thấy nhàm chán và mệt mỏi, thế rồi ta muốn nghe. Do đó, khi lắng nghe một vị thiền sư thuyết giảng ta lấy làm hứng thú và lănh hội dễ dàng. Khi đă lớn tuổi và đang thèm khát Giáo Pháp th́ hương vị của Giáo Pháp quả thật đặc biệt thích thú. |
Being a Teacher of others you are an example to them, you're a model for other bhikkhus. You're an example to your disciples. You're an example to everybody, so don't forget yourself. But don't think about yourself either. If such thoughts do arise, get rid of them. If you do this then you will be one who knows himself. |
Là thầy của những người khác quư Sư là gương lành cho họ, là khuôn vàng thước ngọc cho những vị tỳ khưu đệ tử của quư Sư. Quư Sư là khuôn mẫu cho hàng đệ tử, là gương sáng cho tất cả mọi người. V́ lẽ ấy chớ nên quên ḿnh. Cũng chớ nên nghĩ đến ḿnh. Khi có những tư tưởng vị kỷ phát sanh, hăy loại trừ nó đi. Làm được vậy là tự hiểu biết ḿnh. |
There are a million ways to practice Dhamma. There's no end to the things that can be said about meditation. There are so many things that can make us doubt. Just keep sweeping them out, then there's no more doubt! When we have right understanding like this, no matter where we sit or walk, there is peace and ease. Wherever we may meditate, that's the place you bring your awareness. Don't hold that one only meditates while sitting or walking. Everything and everywhere is our practice. There's awareness all the time. There is mindfulness all the time. We can see birth and death of mind and body all the time and we don't let it clutter our hearts. Let it go constantly. If love comes, let it go back to its home. If greed comes, let it go home. If anger comes, let it go home. Follow them! Where do they live? Then escort them there. Don't keep anything. If you practice like this then you are like an empty house. Or, explained another way, this is an empty heart, a heart empty and free of all evil. We call it an "empty heart," but it isn't empty as if there was nothing, it's empty of evil but filled with wisdom. Then whatever you do, you'll do with wisdom. You'll think with wisdom. You'll eat with wisdom. There will only be wisdom. |
Có hằng triệu đường lối hành thiền. Nói về pháp hành thiền th́ không cùng. Có rất nhiều điều làm cho ta hoài nghi. Hăy dẹp sạch nó đi th́ không c̣n hoài nghi nữa! Khi có chánh kiến th́ dầu ngồi đâu, đi nơi nào, cũng được an tĩnh và thoải mái. Bất luận nơi nào mà ta ngồi xuống hành thiền th́ đó là nơi mà ta chú niệm và luôn luôn tỉnh thức. Chớ nên đinh ninh rằng chỉ có lúc ngồi và khi đi mới hành thiền. Tất cả mọi sự vật và bất luận nơi nào cũng có thể tỉnh thức. Lúc nào cũng có thể chú niệm. Bất luận nơi nào ta cũng có thể thấy thân và tâm luôn luôn sanh diệt. Chớ nên để nó động lại trong tâm. Hăy để cho nó trôi qua.. Nếu có t́nh thương đến, hăy để nó trôi qua và đi về nhà. Nếu có tham ái đến, hăy để cho nó đi luôn về nhà. Nếu có sân hận đến, hăy để cho nó đi luôn về nhà. Theo dơi nó! Xem coi nó ở đâu, rồi hộ tống nó đi. Không nên cất giữ bất cứ ǵ. Nếu thực hành như thế ta có thể giống như một ngôi nhà trống. Hoặc nữa, giải thích theo một lối khác, đó là cái tâm trống không. Một cái tâm rỗng không, không c̣n chứa đựng mảy may bất thiện pháp nào. Ta gọi nó là "tâm rỗng không", nhưng không phải rỗng không là không có ǵ trong đó. Rỗng không, không c̣n chứa chấp mảy may bất thiện pháp nào, nhưng nó đầy trí tuệ. Chừng đó, bất cứ điều ǵ mà ta làm, ta làm với trí tuệ. Ta sẽ suy tư với trí tuệ. Ta sẽ ăn uống với trí tuệ. Chỉ c̣n lại trí tuệ. |
This is the Teaching for today and I offer it to you. I've recorded it on tape. If listening to Dhamma makes your heart at peace, that's good enough. You don't need to remember anything. Some may not believe this. If we make our heart peaceful and just listen, letting it pass by but contemplating continuously like this, then we're like a tape recorder. After some time when we turn on, everything is there. Have no fear that there won't be anything. As soon as you turn on your tape recorder, everything is there. |
Bấy nhiêu đó là những lời dạy ngày hôm nay mà Sư lấy làm hoan hỷ hiến tặng quư Sư. Thời Pháp nầy đă được ghi âm. Nếu nghe Pháp mà tâm quư Sư được an tĩnh th́ bấy nhiêu đó cũng đủ rồi. Quư Sư không cần phải ghi nhớ điều ǵ. Nói vậy có thể vài người không tin. Nhưng nếu ta giữ tâm an tĩnh và chỉ nghe thôi, cứ để thời Pháp trôi qua và liên tục suy tưởng, tức nhiên ta cũng giống như cái máy ghi âm. Về sau, khi ta vặn nó lại để nghe th́ tất cả đều c̣n đó. Chớ nên sợ rằng sẽ không có ǵ. Mỗi khi mà quư Sư vặn lên cái máy ghi âm của quư Sư để nghe th́ tất cả đều c̣n đó. |
I wish to offer this to every bhikkhu and to everyone. Some of you probably know only a little Thai, but that doesn't matter. May you learn the language of the Dhamma. That's good enough! |
Sư muốn tặng thời Pháp nầy đến tất cả quư Sư và tất cả mọi người. Có thể vài người trong quư vị chỉ biết chút ít tiếng Thái, nhưng không hề ǵ. Ước mong quư vị có thể học ngôn ngữ của Giáo Pháp. Bấy nhiêu cũng tốt rồi! |
|
[1] Ngài Ajahn Mun có lẽ là vị Thiền Sư được quư trọng nhất và cũng có nhiều uy tín nhất tại Thái Lan trong thế kỷ nầy. Theo sự hướng dẫn của Ngài tập tục thực hành hạnh Đầu Đà (Dhutanga kammatthàna) của chư vị tỳ khưu sống trong rừng đă trở thành quan trọng. Phần lớn các Ngài Đại Thiền Sư hiện nay và những vị đă viên tịch trong thời gian gần đây đều, hoặc là đệ tử chánh thức hoặc đă chịu nhiều ảnh hưởng của Ngài. Ajahn Mun tịch diệt vào tháng 11 năm 1949. |
|
[2] Ajahn Sao là thầy của Ajahn Mun. |