Causality |
Vi Diệu Pháp dạy chúng ta rằng: |
||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
The Natural LawsThe Buddhist texts recognize five laws holding sway over the natural order. |
Các kinh điển Phật giáo công nhận năm qui luật khống chế trật tự tự nhiên. | ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
Dependent originationThe doctrine of dependent origination shows that the sentient being is nothing but a flow of mental and physical phenomena which arises and continues in dependence on conditions. The layout of these conditions brings to light the cause of suffering and shows how suffering can be ended. The doctrine is based on the following principle:
|
Học thuyết thệp nhị nhân duyên cho thấy rằng chúng sanh hữu t́nh không ǵ khác hơn là luồng các hiện tượng tâm sinh lư sanh ra và tiếp diễn tùy thuộc vào các duyên. Cách bố trí của những điều kiện (duyên)này cho thấy nguyên nhân của khổ và cách khổ có thể được chấm dứt. Học thuyết đặt nền tảng trên nguyên lư sau: Khi CÁI NÀY hiện diện, th́ có CÁI KIA, Khi CÁI NÀY không hiện diện, th́ không có CÁI KIA, | ||||||
Dependent origination is set forth in a series of relations:
|
Thập Nhị Nhân duyên đề ra một lọat các mối quam hệ: | ||||||
The sequence of events covered by the doctrine falls into three existences — the immediately past, the present, and the future one. The first two factors in the sequence refer to the past life, the last two to the future life, and the rest to this present existence. However, these events intersect, so the factors assigned to the past and future existences also can be found in the present. The doctrine indicates how and why we came into this present existence and where we came from, confuting two erroneous interpretations of our nature and destiny:
|
Chuỗi các sự kiện do học thuyết đề cập chia làm ba tồn tại — tồn tại ở qúa khứ mới qua tức th́, hiện tại, và tương lai. Hai yếu tố đầu trong chuỗi đề cập đến tiền kiếp, hai yếu tố cuối đề cập đến kiếp sau, và các yếu tố c̣n lại đề cập đến tồn tại hiện tại này . Tuy nhiên, những sự kiện này đan chéo nhau, do vậy mà các yếu tố qui định cho tồn tại quá khứ và tương lai cũng có thể t́m thấy ở hiện tại. Thuyết thập nhị nhân duyên cho thấy làm thế nào và v́ sao chúng ta có mặt trong kiếp hiện tại này và chúng ta đến từ đâu, bác bỏ hai cách hiểu sai lầm về bản chất và thân phận của chúng ta: | ||||||
Dependent on ignorance there are activities. From an inconceivable beginning we have performed activities of body, speech, and mind dominated by ignorance. Ignorance is lack of insight into the Four Noble Truths. Any volitional action performed through ignorance becomes kamma with a potential to react, to bring about rebirth, and other consequences in accordance with the kammic law. Only the arahant, who has ended ignorance, can perform volitional acts without forming kamma. |
Do vô minh mà có hành. Từ vô thỉ chúng ta đă thực hiện các hành động (tạo nghiệp) của thân, khẩu, và ư, bị vô minh khống chế. Vô minh là không có minh kiến đối với Tứ Thánh Đế. Một hành động có ư chí nào được thực hiện thông qua vô minh trở thành nghiệp có tiềm năng phản ứng, đem lại sự tái sanh, và những hệ quả khác phù hợp với qui luật về nghiệp. Chỉ có bậc a la hán, người đă chấm dứt vô minh, mới có thể thực hiện các hành động có ư chí mà không tạo nghiệp. | ||||||
Dependent on activities there is consciousness. After death the five aggregates disintegrate but kamma remains with its potential intact. This residual kamma helps form the embryo in the new existence. It is responsible for the rebirth consciousness, the first citta of the new life. The ovum and the sperm constitute the body of the embryo, kamma contributes the mind and mental functions. A kamma formation of the previous existence manifests itself as the passive consciousness which, from the very first moment of conception, receives all the potentialities resulting from past volitional actions. No consciousness passes over from one existence to the next but the stream of consciousness goes on, a flux, constantly becoming. |
Do các hành động mà có tâm. Sau khi chết ngũ uẩn tan rả nhưng nghiệp vẫn c̣n cùng với tiềm năng của chúng giữ nguyên. Nghiệp tồn đọng này giúp tạo ra phôi trong kiếp mới. Nó chịu trách nhiệm về tâm tái sanh, tâm đầu tiên của kiếp mới. Trứng và tinh trùng tạo nên thân của phôi, nghiệp làm nên tâm và các chức năng của tâm. Sự tạo nghiệp của kiếp trước tự biểu hiện thành tâm thụ động mà, chính từ sát na đầu tiên của việc thọ thai, nhận tất cả các tiềm năng có được từ những hành động có ư chí trong kiếp trước. Không có tâm nào được chuyển qua từ một kiếp cho kiếp kế tiếp nhưng ḍng tâm thức tiếp diễn , một ḍng biến động, trở thành miên tục. | ||||||
Dependent on consciousness there is mentality-materiality. The union of the ovum, sperm and rebirth consciousness brings the mental-material compound into being. Mentality (naama) signifies the mental factors conascent with passive consciousness — feeling (vedanaa), perception (saññaa), volition (cetanaa), contact (phassa), and attention (manasikaara). Materiality (ruupa) comprises the four primary elements of matter and their derivatives, described earlier. It must be noted that kamma plays a role in the arising of materiality too. At the moment of conception kamma generates three units of matter: the decads of sex, body, and the mind basis. In the course of life kamma causes and sustains the functioning of the senses and vitality. Rebirth consciousness is a conascent condition for the arising of materiality. Thereafter, consciousness conditions materiality via a number of relationships, to be given in the section on conditioning relationships below. Thus mentality and materiality are mutually dependent. |
Do tâm mà có danh - sắc. Sự kết hợp của trứng, tinh trùng và tâm tái sanh làm cho tổ hợp tâm-sắc xuất hiện. Danh (naama) có nghĩa là các yếu tố tinh thần đồng sanh với tâm thụ động — thọ (vedanaa), tưởng (saññaa), hành (cetanaa), xúc (phassa), và thức (manasikaara). Sắc (ruupa) gồm tứ đại chủng và những đại phái sinh (đại chủng sở tạo), được miêu tả bên trên. Cần lưu ư rằng nghiệp cũng có vai tṛ trong việc tạo ra sắc. Vào lúc thọ thai nghiệp tạo ra ba đơn vị vật chất (sắc): thập pháp giới tính, thân, và tâm cơ. Trong ḍng đời, nghiệp tạo và duy tŕ việc thực hiện các chức năng của các căn và sức sống. Tâm tái sanh là một duyên đồng sanh cho việc sanh ra sắc. Sau đó, tâm qui định sắc thông qua một số mối quan hệ được tŕnh bày trong phần các mối quan hệ duyên khởi bên dưới. Do đó tâm và sắc tùy thuộc lẫn nhau. | ||||||
Dependent on mentality-materiality there are the six bases. Once generated and nourished by the mother, the embryo starts to grow. As it grows it acquires four other physical sense bases — the eye, ear, nose, and tongue. The body base appeared at conception as did the sixth sense organ, the mind-base (a collective term for all forms of consciousness). |
Do tâm - sắc mà có lục nhập. Khi được mẹ tạo ra và nuôi dưỡng, phôi bắt đầu phát triển. Khi nó phát triển nó có được bốn căn hữu h́nh khác — mắt, tai, mũi và lưỡi. Thân căn xuất hiện lúc thọ thai cùng với cơ quan nhận thức, tâm - cơ (một thuật ngữ tập hợp chỉ cho tất cả các dạng tâm). | ||||||
Dependent on the six sense bases there is contact. Each physical sense base can be stimulated only by its appropriate sense object, i.e., eye-base by forms, ear-base by sounds, nose-base by smells, tongue base by tastes, and the tactile-base by touch. The mind-base can be stimulated by any thought or idea whether past, present, future, or timeless, whether real or imaginary, sensuous or abstract. When the sense base is stimulated, conditions are present for the appropriate consciousness to arise. The combination of the three — base, object, and consciousness — is called "contact." |
Do lục nhập mà có xúc. Mỗi căn hữu h́nh có thể bị kích thích bởi đối tượng căn phù hợp với nó mà thôi, ví dụ, nhăn căn bởi sắc, nhĩ căn bởi thanh, tỵ căn bởi mùi, thiệt căn bởi vị, thân căn bởi xúc. Tâm cơ có thể bị kích thích bởi bất cứ tư tưởng, ư tưởng, ư nghĩ nào hoặc là của quá khứ, hiện tại hay tương lai hoặc phi thời gian, hoặc là thật hay là tưởng tượng, cảm quan hay trừu tượng. Khi một giác quan bị kích thích, các điều kiện xuất hiện để cho tâm tương thích khởi sanh. Sự kết hợp bộ ba — căn, đối tượng, và tâm — được gọi là "xúc." | ||||||
Dependent on contact there is feeling. When contact is made with an object through the senses, feeling must also arise. Contact is a conascent condition feeling. The feeling may be agreeable, disagreeable, or neither. It is through feeling that we reap the results of previous kamma. Since kamma resultants differ from one person to another we each experience different feelings. |
Do xúc mà có thọ. Khi xúc được thực hiện với một đối tượng qua các căn, thọ cũng khởi sanh. Xúc là thọ duyên đồng sanh. Thọ có thể là lạc, có thể là khổ, hoặc không lạc, không khổ. Chính thông qua thọ mà ta gặt hái quả của tiền nghiệp. V́ quả của nghiệp khác nhau từ người này sang người khác, mỗi chúng ta thể nghiệm các thọ khác nhau. | ||||||
Dependent on feeling there is craving. Craving is of three kinds — craving for sense pleasures (kaamata.nhaa), craving for existence (bhavata.nhaa), and craving for non-existence (vibhavata.nhaa). We crave pleasant sensations experienced through the senses. When one pleasant object passes, as it must, we seek another, thirsting for a new pleasant sensation to replace the old. So the search goes on as craving knows no satiation. Besides pleasures, we also crave existence. In our ignorance we believe there is an abiding self within. Thence we strive and struggle to preserve this self and to provide it with the best conditions. But, at times, we also crave non-existence, as when in a mood of dejection we wish for annihilation, thinking death to be the end. Even if this craving does not become so drastic, it still springs up as the desire to destroy the causes of our distress. |
Do thọ mà có ái. Ai có ba lọai — ái dục lạc (kaamata.nhaa), ái hữu sanh (bhavata.nhaa), và ái vô sanh (vibhavata.nhaa). Chúng ta ái dục lạc do các căn thể nghiệm. Khi một đối tượng thích thú qua đi, mà đó là tất yếu, chúng ta t́m kiếm cái khác, khao khát cảm giác khóai lạc mới thay thế cái cũ. Do đó mà sự t́m kiếm tiếp tục v́ ái không bao giờ biết thỏa măn. Ng̣ai dục lạc, chúng ta cũng ái hữu sanh. Do vô minh, chúng ta tin rằng có một ngă thường tồn bên trong Thế là ta nỗ lực, phấn đấu ǵn giữ cái ngă này và tạo điều kiện tốt nhất cho nó. Nhưng, có lúc, ta lại ái vô-sinh như khi chúng ta buồn chán, chúng ta muốn hư vô, nghĩ đến cái chết là cứu cánh. Ngay cả nếu sự mong muốn này không trở nên qúa mănh liệt, nó vẫn bung lên như là sự mong muốn hủy diệt các nguyên nhân của buồn chán. | ||||||
Dependent on craving there is clinging. Clinging is an intensified form of craving. It has the nature of grasping and takes on four forms:
|
Do ái mà có thủ. Thủ là một dạng được tăng cường của ái. Bản chất của nó là nắm giữ và có bốn dạng: | ||||||
Dependent on clinging there is becoming. Clinging conditions volitional activities, unwholesome and wholesome, which set the stage for a new existence where they can ripen. |
Do thủ mà có hữu. Thủ qui định các hành động (nghiệp) có ư chí, bất thiện và thiện, nó tạo cơ sở cho kiếp mới nơi mà chúng có thể thuần thục. | ||||||
Dependent on becoming there is birth. The unexhausted kammic activities of this life bring about birth into a new existence, finding appropriate conditions to manifest themselves. |
Do có hữu mà có sanh. Các hành động tạo nghiệp chưa hết của kiếp này mang lại sự tái sanh vào kiếp mới, t́m các điều kiện thích hợp để tự biểu hiện. | ||||||
Dependent on birth there is old age and death. Once a person is born, decay and death inevitably follow, bringing in their trail sorrow, lamentation, pain, grief, and despair. |
Do sanh mà có già và chết. Một khi một người được sanh ra, già và chết theo sau là không tránh khỏi, mang trên đường của chúng là thống khổ, khóc thương, đau đớn, thương đau và tuyệt vọng. | ||||||
In order to cure any disease its cause must be known and removed. All other treatments are symptomatic. The Buddha taught dependent origination to point out the cause of suffering and to show how it can be uprooted. |
Để trị bất cứ một bịnh nào, nguyên nhân của nó phải được biết và lọai trừ. Tất cả các cách điều trị khác chỉ là trị triệu chứng (b́ phu). Đức Phật dạy duyên sanh để chỉ ra nguyên nhân của khổ và chỉ cách làm cho nó bị bứng tận gốc. | ||||||
Modes of ConditioningBuddhism teaches that all phenomena, mental and physical, arise through conditions. In the Abhidhamma the modes of conditionality are analyzed into twenty-four types of relationship, each representing a tie between a condition and the phenomena it conditions. A brief account of these is as follows:
|
Đạo Phật dạy rằng tất cả các hiện tượng (chư pháp), danh hay sắc, sanh ra thông qua các điều kiện. Trong Vi Diệu Pháp các phương thức nhân duyên được phân tích thành 24 lọai mối quan hệ, mỗi cái đại diện cho sự ràng buộc giữa một điều kiện và hiện tượng (pháp) mà nó qui định. Tŕnh bày tóm tắt các mối quan hệ này như sau: Root condition (căn duyên) (hetu paccaya). Ba căn bất thiện — tham, sân và si — là root conditions v́ các tâm sở bất thiện đi theo chúng và các sắc mà chúng duyên vào. Tương tự, các tâm sở thiện và không quyết định — vô tham, vô sân và vô si. Object condition (duyên đối tượng) (aaramma.na paccaya). Bất cứ trạng thái nào là điều kiện của tâm và tâm sở của nó là một object condition. Tâm có sáu lọai theo nhăn, nhỉ, tỷ, thiệt, thân và ư; mỗi lọai chỉ khởi sanh với một đối tượng thích hợp của nó. Predominance condition (duyên trội) (adhipati paccaya). Duyên này hỗ trợ theo cách dẫn đường, theo đó thực hiện một sự vươn lên khống chế các trạng thái tâm khác. Nó có thể là một trạng thái đồng sanh hoặc có thể là một đối tượng được tâm cho là có tầm quan trọng đặc biệt . & 5. Proximity and Contiguity - Các thường cận y duyên (anantara paccaya, samanantara paccaya). Trong phân tích của chúng ta về một quá tŕnh tâm chúng ta thấy rằng có 17 chặp tâm theo nhau trong một chuỗi nối tiếp tốc hành. Mỗi chặp tâm, với tâm sở của nó, theo kế chặp tâm và các tâm sở của nó liền sau trong mối quan hệ của duyên phụ cận và lân cận. Hai phương thức nhân duyên này chỉ khác nhau về tên gọi chứ không khác về thực chất. | ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
|
| ||||||
The doctrine of dependent origination (pa.ticca samuppaada) teaches us that our mental and physical components are effects resulting from causes. The conditions (paccayas) show that a variety of specific relationships obtain between these effects and their causes. A few examples will be given to illustrate how this knowledge helps us to understand the Buddha's teaching and to put it into practice. |
Thuyết duyên sinh (pa.ticca samuppaada) dạy chúng ta rằng các yếu tố thành phần tâm-sinh là quả của các nhân. Các duyên (paccayas) cho thấy sự đa dạng của các mối quan hệ đặc thù nhận được giữa những quả này và nhân của chúng. Một vài ví dụ sẽ được nêu ra để minh họa tri kiến này giúp chúng ta hiểu được Phật pháp như thế nào và đem ra thực hành tu tập nó. | ||||||
A. In relation to the teaching:
|
Nhân thứ nhất. Đạo Phật không chủ trương một nguyên nhân thứ nhất. Thế gian là vô thỉ, sự liên tục sanh diệt của các pháp tùy vào các duyên. Giả định cho rằng thế giới phải có chỗ khởi đầu la do sự hiểu biết có giới hạn của chúng ta. Đạo Phật dạy rằng thế giới bao gồm vô vàn những hệ thống thế giới sinh ra, tiến hóa và tan rả theo qui luật tự nhiên. Đối với tiến tŕnh vũ trụ này không có diểm khởi đầu hoặc bên ng̣ai nhân. Như đức Phật đă dạy: "Này các tỳ kheo, sa.msaara này không thể nhận thức được." Không có sự khởi đầu nào của chúng sanh được phát hiện, chúng sinh bị vô minh che khúât, bị tham ái cột buộc và trôi lăn trong ṿng sanh tử luân hồi này." Thật ra chính sự vô minh của chúng ta, làm cho ta cứ tái sanh đi, tái sanh lại. 'Không từ một nhân đơn lẻ khởi sanh | ||||||
The twenty-four conditions are so intricately related that nothing can stand by itself as a sufficient cause. Even ignorance arises and continues through conditions such as wrong companionship and wrong views. It is placed first, not because it is temporally first, but because it is the most fundamental condition for suffering. |
Hai mươi bốn duyên quan hệ phức tạp nhau cho đến mức không một pháp nào tự đứng một ḿnh đủ làm một nhân. Ngay cả vô minh khởi sanh và tiếp tục thông qua các duyên như là tà đồng hành, tà kiến. Nó được đặt đầu tiên, không phải v́ nó tạm thời đứng trước, nhưng v́ nó là duyên cơ bản nhất của khổ. | ||||||
Selflessness. In a doctrine that teaches all phenomena to be conditionally arisen there is no place for any form of abiding personality. Until, by insight meditation, one penetrates this truth, the delusion of a self will persist, obscuring the Four Noble Truths. Free Will. Someone might say: "If all phenomena are conditionally arisen, then Buddhism is a form of fatalism, for we have no free will to control our destiny." Such a statement would not be correct. Will is volition (cetanaa), a mental state, determined ethically by its root condition (hetu paccaya). If the root is unwholesome, we can either restrain or indulge the volition; if the root is wholesome, we can encourage it or neglect it. In this exercise of will lies our freedom to guide our destiny. |
Vô ngă. Trong một học thuyết dạy rằng tất cả các pháp là do duyên sanh không có chỗ cho bất cứ dạng cá tính thường tại nào. Cho đến khi bằng thiền minh sát, con người thâm nhập chân lư này, cái si về tự ngă sẽ c̣n dai dẳng, che mờ Tứ Thánh Đế. Ư chí Tự do. Ai đó có thể nói: "Nếu tất cả pháp đều do duyên sanh, th́ đạo Phật là một học thuyết định mệnh, bởi v́ chúng ta không có ư chí tự do kiểm sóat số mệnh của chúng ta." Câu nói đó không đúng. Ư chí là tác ư (cetanaa), một trạng thái tâm, được quyết định về mặt đạo đức do nhân duyên của nó (hetu paccaya). Nếu nhân bất thiện, chúng ta có thể hoặc là tự chế hoặc là buông thả tác ư; nếu nhân là thiện, chúng ta có thể khuyến khích nó hoặc lơ là nó. Trong việc thực hiện ư chí này, sự tự do của chúng ta hiện diện ở đó để định hướng cho số phận của chúng ta. | ||||||
B. Application in practice
|
Nhân duyên. Sụ tu tập của đạo Phật hướng về sự lọai trừ những ô nhiễm (kilesaa). Những ô nhiễm trước nhất là ba nhân bất thiện — tham, sân và si. Từ những cái này nảy sinh những cái khác: mạn (maana), tà kiến (di.t.thi), nghi (vicikicchaa), hôn trầm (thiina), trạo cử (uddhacca), vô tàm (ahirika), vô qúy (anottappa). Những ô nhiễm này thực hiện chức năng ở ba cấp bậc: | ||||||
|
| ||||||
Predominance condition. This is of two kinds, a mental state or an object.
|
Predominance condition (duyên thống ngự). Có hai lọai, một trạng thái tâm hay một đối tượng. | ||||||
Decisive-support condition. This acts by virtue of its cogency. It is of three kinds:
These three types of decisive support conditions have a bearing on our practice if we wish to fulfill the four preliminary conditions to stream entry (sotaapattiyanga). These are: (i) companionship with those of merit and good character (sappurisa sa.mseva); (ii) hearing the Dhamma (saddhamma savanna); (iii) wise reflection (yoniso manasikaara); and (iv) living in conformity with the Dhamma (dhammaanudhammapatipatti). |
Decisive-support condition (Duyên hỗ trợ quyết định). Duyên này họat động bằng bản chất thuyết phục của nó. Có ba lọai: Ba lọai duyên hỗ trợ quyết định này có quả trên sự tu tập của chúng ta nếu chúng ta muốn ḥan thành bốn điều kiện tiên quyết đề đạt quả dự lưu (sotaapattiyanga). Đó là: (i) kết bạn với người có công đức và đức hạnh(sappurisa sa.mseva); (ii) nghe Pháp (saddhamma savanna); (iii) minh sát (yoniso manasikaara); và (iv) sống phù hợp với giáo pháp (dhammaanudhammapatipatti). | ||||||
Nibbaana is the fourth ultimate reality (paramattha dhamma). Whereas the other three realities — consciousness (citta), mental formations (cetasikaa), and material phenomena (ruupa) — are conditioned, nibbaana is not. It is neither created nor formed. |
Niết bàn là chân lư tuyệt đối thứ tư (paramattha dhamma). Trong khi ba chân lư kia — tâm (citta), tâm sở (cetasikaa), và sắc pháp (ruupa) — là các pháp hữu vi, niết bàn không phải thế. Nó không được tạo ra hoặc h́nh thành. | ||||||
When the wanderer Jambukhaadaka asked his uncle, the Venerable Saariputta, what the word "nibbaana" means, the Venerable Saariputta replied that nibbaana is the extinction of greed, hate, and delusion. But nibbaana is not the mere extinction of these defilements. It is a state to be attained in this very existence by the extinction of greed, hate, and delusion. |
Khi hành cước tăng Jambukhaadaka hỏi bác của ông, Tôn giả Saariputta, từ "niết bàn" là ǵ, Tôn giả Saariputta trả lời rằng niết bàn là ǵ chấm dứt tham,sân, và si. Nhưng niết bàn không chỉ là sự chấm dứt các ô nhiễm này. Nó là trạng thái đạt được trong chính cơi tồn tại này bằng việc chấm dứt tham, sân, si. | ||||||
Nibbaana is the summum bonum of Buddhist practice, to be achieved only by following the Noble Eightfold Path. For most of us the journey along the Path will be long and arduous, but there are sign-posts on the way that will indicate we are going in the right direction. We will recognize these sign-posts when the fetters that bind us are broken in succession. When the first three fetters — personality view, doubt, and clinging to mere rules and rituals — are broken one becomes a "stream enterer" (sotaapanna), one who has entered the stream to nibbaana. The fetters, once broken, will never bind such a person again. This is the truth he knows without uncertainty. The stream-enterer will not be reborn in the four lower planes of existence. He will take rebirth seven times at the most, either in the human or heavenly planes. |
Niết bàn là summum bonum của việc tu tập theo đạo Phật, đạt được chỉ bằng đi theo con đường Bát Chánh Đạo. Đối với hầu hết chúng ta cuộc hành tŕnh theo đường Đạo sẽ dài và gian khổ, nhưng có những bảng chỉ đường sẽ chỉ rằng chúng ta đang đúng hướng. Chúng ta sẽ nhận ra những bảng chỉ đường này khi những triền phược trói buộc chúng ta từng cái một được tháo bỏ. Khi ba triền phược đầu tiên — ngă kiến, nghi và thủ vào các qui định và lễ nghi — bị phá bỏ người ta trở thành một "dự lưu" (sotaapanna), một người nhập vào ḍng đến niết bàn. Các triền phược, một khi được tháo bỏ, sẽ không bao giờ trói buộc lại người như vậy nữa. Đây là chân lư mà người đó biết chắc chắn. Bậc dự lưu sẽ không c̣n tái sanh trong bốn cảnh giới tồn tại thấp hơn. Người ấy sẽ tái sanh bảy lần là nhiều nhất, hoặc là cơi người hay cơi trời. | ||||||
When the next two fetters — sensuous craving and ill-will are attenuated, one becomes a "once-returner" (sakadaagaamii), due to return only once to the sense sphere world and then attain nibbaana. |
Khi hai triền phược tiếp theo — ái dục và sân hận bị làm yếu đi, người ta trở thành "nhất lai" (sakadaagaamii), do chỉ trở lại một lần cơi dục giới và rồi chứng đạt niết bàn. | ||||||
When all the lower five fetters are eradicated, the disciple becomes a "non-returner" (anaagaami), who will never return to the sense sphere world but, after death, will be reborn in a pure divine abode and attain nibbaana there. |
Khi tất cả năm triền phược thấp hơn bị quét sạch, đệ tử trở thành "bất lai"(anaagaami), người sẽ không bao giờ trở lại cơi dục giới nhưng, sau khi mạng chung, sẽ tái sanh cơi phạm thiên thanh tịnh và chứng đạt niết bàn ở đó. | ||||||
One who takes the next major step and eradicates the five higher fetters — desire for existence in fine material planes, desire for existence in the immaterial planes, conceit, restlessness, and ignorance — reaches the final goal. He is the arahant, free from all future becoming. |
Người tiến hành bước quan trọng tiếo theo và diệt trừ năm phiền trược cao hơn — muốn tốn tại trong các cơi sắc giới, muốn tồn tại trong các cảnh vô sắc giới, mạn, trạo cử, và vô minh — đạt đến đích cuối cùng. Người ấy là a la hán arahant, thóat khỏi hữu trong tương lai. | ||||||
Each of these four supramundane stages involves two phases. One is the "path" (magga) that eradicates the fetters, the other is the "fruit" (phala), moments of supramundane consciousness that result from the path, made possible by the path's work of eradication. The fruit is the enjoyment made available by the work of the path. The fruit can be entered and enjoyed many times after the appropriate path has been reached. The noble disciple determines to enter the fruit, then develops insight until he does so. The highest fruit is the fruit of arahantship. The arahant knows with certainty that his mind is devoid of defilements. He has penetrated the Four Noble Truths. He becomes neither despondent nor elated through contact with the eight worldly conditions — gain and loss, honor and dishonor, happiness and misery, praise and blame. He is free from sorrow, stainless, and safe. "Free from sorrow" because he no more weeps and laments; "stainless" because he has no more defilements; "safe" because there is no more birth for him. |
Mỗi trong bốn tầng siêu giới này có hai gian đọan. Một là "đạo" (magga) lọai trừ triền phược, cái kia là "quả" (phala), các chập tâm siêu giới kết quả từ đạo, có thể đạt được bằng công việc lọai trừ của đạo. Quả là sự hoan hỷ có được do công việc của đạo. Quả có thể được vào và thọ hưởng nhiều lần sau khi đạo tương thích đă đạt được. Các đệ tử bậc thánh quyết định bước vào đạo quả, rồi phát triển minh kiến cho đến khi làm được điều đó. Đạo quả cao nhất là quả a la hán. Bậc a la hán biết chắc rằng tâm của ḿnh không c̣n ô nhiễm. Người thâm nhập Tứ Thánh Đế. Người không c̣n buồn hay vui thông qua tiếp xúc với tám trần duyên — được mất, vinh nhục, sướng khổ, khen chê. Người thóat khỏi phiền năo, thanh tịnh, khinh an. "Thóat khỏi phiền năo" v́ người không c̣n than khóc; "thanh tịnh" v́ ngưởi không c̣n ô nhiễm; "khinh an" v́ không c̣n tái sanh. | ||||||
Though the mind of the arahant is free from defilements, his body is still subject to decay, disease and injury, to pain and discomfort. He can overcome these by inducing supramundane consciousness, which is always at his disposal, but it would be impracticable for him to do so for any length of time. Therefore, during life, the arahant can enjoy only an intermittent release from suffering. This is called sa-upaadi-sesa-nibbaana, nibbaana with the groups of existence still remaining, since he still exists as an individualized personality subject to the results of residual kamma. Thus, the Buddha met a foot injury when Devadatta hurled a rock at him, the Venerable Mahaa Moggallaana was battered to death by professional criminals, and the Venerable Angulimaala was hit by sticks and stones while on his alms round. |
Dù tâm của bậc a la hán không c̣n ô nhiễm, thân của người vẫn phải già, bệnh, bị thương, đau đớn, và khó chịu. Ngài có thể khắc phục điều này bằng phát ra tâm siêu thế, luôn luôn sẵn có nơi người, nhưng không thể được nếu người làm như vậy trong thời gian dài. Do đó, trong kiếp sống, bậc a la hán chỉ có thể hưởng được sự thanh thóat xen kẻ giữa cái khổ. Điều này gọi là sa-upaadi-sesa-nibbaana,(hữu dư niết bàn) niết bàn với các nhóm hữu lậu vẫn c̣n, bởi v́ người vẫn c̣n hiện hữu là một nhân cách cá thể hóa chịu quả của nghiệp c̣n sót lại. Do đó, đức Phật phải bị thương chân khi Đề bà đạt đa ném đá vào ngài, Tôn giả Mahaa Moggallaana bị đánh tơi tả đến chết do những tên tôi phạm chuyên nghiệp, và khi Tôn giả Angulimaala was bị đánh bằng gậy và đá khi đi khất thực. | ||||||
When the arahant dies he attains an-upaadi-sesa-nibbaana, nibbaana without the aggregates remaining. He will not be reborn anywhere. Earlier he severed the chain of dependent origination at the link where feeling is followed by craving. Now he severs it at the link where becoming leads to new birth. |
Khi a la hán viên tịch người đạt an-upaadi-sesa-nibbaana, vô dư niết bàn - niết bàn không c̣n sót ngũ uẩn. Người không c̣n tái sanh bất cứ đâu. Người đă sớm chặt đứt chuỗi nhân duyên ngay chỗ nối khi thọ được tiếp sau bởi ái. Bây giờ người lại chặt đứt nó tại chỗ nối nơi mà hữ dẫn tới sanh. | ||||||
There has been much speculation as to what happens to the arahant after death — whether he exists, or does not exist, or both, or neither. This confusion arises from thinking in terms of an abiding entity that passes from life to life. The Buddha taught that such an abiding entity does not exist. It is an illusion. Life is a process of becoming, perishing at every moment, generated by kamma. Since there is no ego-entity, there is nothing to be annihilated and nothing to enter a state of eternal existence. When the arahant dies, the physio-mental process comes to an end for lack of the "fuel" needed to keep it going. This fuel is craving (ta.nhaa), which leads to grasping, which in turn leads to further becoming. If craving is totally extinguished, there can be no further becoming. When the body dies at the expiration of the life span, no new rebirth takes place. If there is no rebirth in any plane, then there is no decay, disease, and death; there is no sorrow, lamentation, pain, grief, or despair. This is the end of suffering. |
Có nhiều đồn đóan về điều ǵ xảy đến cho bậc a la hán sau khi mệnh chung — hoặc là người vẫn tồn tại, hoặc là người không tồn tại, hoặc cả hai hoặc không cả hai. Sự lầm lẫn này phát sinh từ cách suy nghĩ là có một thực thể tồn tại chuyển từ kiếp này sang kiếp khác. Đức Phật dạy rằng một thực thể tồn tại như thế đó không tồn tại. Nó là ảo tưởng. Đời sống là một tiến tŕnh sinh diệt ở mỗi sát na, do nghiệp tạo ra. Bởi v́ không có thực thể tôi (ngă), cho nên không có ǵ để làm cho hư vô và cũng không có ǵ đi vào cơi vĩnh hằng. Khi bậc a la hán chết, tiến tŕnh tâm-sinh chấm dứt v́ thiếu "nhiên liệu" cần thiết làm cho nó tiếp diễn. Nhiên liệu này là ái (ta.nhaa), dẫn đến thủ, và đến phiên ḿnh nó dẫn đến hữu thêm nữa. Nếu ái ḥan ḥan biến mất, th́ không có hữu thêm nữa. Khi thân chết vào lúc măn tuổi thọ, không c̣n tái sanh mới xảy ra. Nếu không có tái sanh ở bất cứ cảnh giới nào, th́ không có già, bệnh và chết; không có sầu khổ, khóc than, đau đớn, khổ sở hay tuyệt vọng. Đây là chấm dứt khổ. | ||||||
To conclude we shall recall those four existential aspects mentioned at the outset:
|
Để kết luận chúng ta sẽ nhớ lại bốn khía cạnh tồn tại đề cập lúc đầu: Chúng ta là ǵ? Mỗi chúng ta là một kết hợp thân-tâm mà các yếu tố thành phần sinh diệt từ sát na này đến sát na khác, tùy vào các duyên. Không có một thực thể thường tồn trong tiến tŕnh sinh thành này. Tâm và thân là tương hỗ. Với cái chết, thân tan rả thành tứ đại nhưng ḍng tâm thức tiếp tục t́m cơ sở vât chất mới (sắc) trong kiếp khác phù hợp với nghiệp. Chúng ta là chủ sở hữu của nghiệp của chúng ta, người thừa kế của nghiệp của chúng ta, nghiệp là tử cung mà từ đó chúng ta được sanh ra, nghiệp là bạn, là nguồn trợ lực của chúng ta. Kết hợp thân-tâm hiện tại sẽ tồn tại cho đến khi nào nghiệp tái sản sinh c̣n nâng đỡ nó, nhưng điều này có thể bị cắt ngang bất cứ lúc nào bởi một nghiệp đối lập mạnh. Dù những hoan lạc phù du mà chúng ta được hưởng, không có cách ǵ để chúng ta tránh được già, bịnh, đi cùng với khổ đau, tách rời khỏi vui thú, và không có được điều ta mong muốn. Chúng ta thấy quanh ta những ǵ? Chung quanh ta là những đối tưởng hữu t́nh và vô t́nh đem lại những kích thích cho giác quan và các tâm của chúng ta. Bản chất vật chất của thân của chúng ta cũng giống như bản chất của các đối tượng quanh ta, tất cả đều làm bằng tứ đại chủng và các đại phái sanh của chúng. Bằng cách nào và tại sao chúng ta phản ứng lại với những ǵ trong và chung quanh ta? Chúng ta phản ứng đáp lại sáu kích thích mà chúng ta tiếp xúc qua mắt, tai, mũi, lưỡi, thân và ư. Bản chất của phản ứng của chúng ta tùy thuộc vào những ô nhiễm biểu lộ thành ái và thủ. Chúng ta mong đạt được ǵ để làm mục tiêu tinh thần? Chúng ta nên mong muốn lọai bỏ ái và theo đó chấn dứt tiến tŕnh sinh thành lập đi lập lại này, luôn đầy những khổ. Đó là chứng đạt nibbaana niết bàn. Con đường là Bát Chánh Đạo. | ||||||
The arahant Ra.t.thapaala told King Koravya why he went forth from the home life into homelessness. He said that life in any world:
Facts are stubborn, often unpalatable. No purpose is served by behaving like the proverbial ostrich or by sweetening the true taste of existence with a sprinkling of ambrosia. But there is no need to be despondent. Peace and happiness are possible, always available to us, if we make the effort to find them. To find them we have to get to know "things as they really are." "Things as they really are" is the subject dealt with in the Abhidhamma. By studying the Abhidhamma and turning these studies into personal experience by meditation, we can reach the liberating knowledge that gives peace. |
A la hán Ra.t.thapaala nói với vua Koravya lư do ông rời bỏ nhà cửa để sống cuộc sống không nhà. Ông nói cuộc sống trong bất cứ thế giới nào đều: Các dữ kiện rất phi lư,lợm giọng. Chẳng đi đến đâu dù là ta ứng xử như con đà điểu trong chuyện ngụ ngôn hoặc làm ngọt ngào cho hương vị chân thật của cuộc sống bằng rưới lên thực phẩm trường sinh. Nhưng cũng không cần phải chán ngán. An lạc là có thể, luôn sẵn sàng đối với chúng ta, nếu chúng ta nỗ lực t́m chúng. Muốn t́m thấy chúng, chúng ta phải biết "vạn pháp y như chúng là. "Vạn pháp y như chúng là" là chủ đề mà Vi Diệu Pháp bàn đến. Bằng cách nghiên cứu Vi Diệu Pháp và biến những nghiên cứu này thành kinh nghiệm cá nhân bằng thiền định, chúng ta có thể đạt được tri kiến giải thóat đem lại an vui. | ||||||
|
Chú thích 1. Ẩn dụ Dấu chân voi, Trường Bộ Kinh (MN 28). Translated in "The Wheel" No. 101. 2. Coi thêm E.H. Shatock, Thực hành Chánh Niệm, Chương 8. Dr. N.K.G. Mendis graduated from the Medical Faculty of the University of Sri Lanka in 1946 and did his post-graduate training in India and the U.K. He is a Fellow of the Royal College of Surgeons of Edinburgh and of the Royal College of Surgeons of England. He specialized in thoracic surgery and practiced in Sri Lanka, England and Ghana. Since 1972 he has been in general practice in Nova Scotia, Canada. He acknowledges that, though born to devout Buddhist parents, he has been devoted to Dhamma practice only since 1975, when the circumstances of his life led him to seek refuge in the Triple Gem. He is a supporter of the Buddhist Vihaaras in Washington D.C. and Toronto, and is the author of Wheel Nos. 268 and 279. For further reading on the Abhidhamma:
Dr. N.K.G. Mendis tốt nghiệp Khoa y Trường Đại học Sri Lanka vào năm 1946 và theo học sau đại học tại India và U.K. Ông là thành viên của Trường Đại học Phẫu thuật Ḥang gia Edinburgh và của the Đại học Phẫu thuật Ḥang gia England. Ông chuyên về giải phẫu lồng ngực và hành nghề ở Sri Lanka, England và Ghana. Từ 1972 ông thường hành nghề ở Nova Scotia, Canada. Ông xác nhận rằng, dù sanh ra với cha mẹ là Phật tử thuần thành, chỉ từ 1975 ông mới chuyên tâm tu tập Phật Pháp khi ḥan cảnh cuộc đời ông đưa ông đến quy y Tam Bảo. Ông là người tài trợ cho Buddhist Vihaaras ở Washington D.C. và Toronto, và là tác giả của Bánh Xe Pháp Luân các số. 268 và 279. Để đọc thêm về Vi Diệu Pháp: |