I have heard that
On one occasion the Blessed One, on a wandering tour among the Kurus with a large community of monks, arrived at Thullakotthita, a town of the Kurus. The brahmans & householders of Thullakotthita heard it said, "Gotama the contemplative — the son of the Sakyans, having gone forth from the Sakyan clan — has arrived at Kesaputta. And of that Master Gotama this fine reputation has spread: 'He is indeed a Blessed One, worthy, & rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, a knower of the cosmos, an unexcelled trainer of those persons ready to be tamed, teacher of human & divine beings, awakened, blessed. He has made known — having realized it through direct knowledge — this world with its devas, maras, & brahmas, its generations with their contemplatives & priests, their rulers & common people. He has explained the Dhamma admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end; has expounded the holy life both in its particulars & in its essence, entirely perfect, surpassingly pure. It's good to see such a worthy one.'"




Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành ở giữa dân chúng Kuru, cùng với đại chúng Tỷ-kheo, và đi đến một thị trấn của dân chúng Kuru tên là Thullakotthita. Các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita được nghe như sau: "Sa-môn Gotama là Thích tử, Tôn giả xuất gia từ ḍng họ Sakya, du hành giữa dân chúng Kuru nay đă đến Thullakotthita với đại chúng Tỷ-kheo. Tiếng đồn tốt đẹp sau đây được nói lên về Tôn giả Gotama: "Đây là đức Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài với thắng trí tự thân chứng ngộ thế giới này cùng với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, cùng với chúng Sa-môn, Bà-la-môn, các loài Trời và Người. Khi đă chứng ngộ, Ngài c̣n tuyên bố sự chứng ngộ ấy cho người khác. Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ, và giới thiệu đời sống Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ trong sạch". Tốt đẹp thay, sự chiêm ngưỡng một vị A-la-hán như vậy".

 

So the brahmans & householders of Thullakotthita went to the Blessed One. On arrival, some of them bowed down to the Blessed One and sat to one side. Some of them exchanged courteous greetings with him and, after an exchange of friendly greetings & courtesies, sat to one side. Some of them sat to one side having saluted him with their hands palm-to-palm over their hearts. Some of them sat to one side having announced their name & clan. Some of them sat to one side in silence. As they were sitting there, the Blessed One instructed, urged, roused, and encouraged them with a talk on Dhamma.


Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, một số người đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Thế Tôn, và sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Một số người chấp tay vái chào Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Một số người xưng tên và ḍng họ rồi ngồi xuống một bên. Một số người yên lặng ngồi xuống một bên.
Rồi Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita đang ngồi một bên.

 

Now at that time a clansman named Ratthapala, the son of the leading clan in that same Thullakotthita, was sitting in that assembly. The thought occurred to him, "As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it's not easy, living at home, to practice the holy life totally perfect, totally pure, a polished shell. What if I, having shaved off my hair & beard and putting on the ochre robe, were to go forth from the household life into homelessness?"



Lúc bấy giờ, một Thiện nam tử tên là Ratthapala, con trai một gia đ́nh thượng tộc ở chính tại Thullakotthita ấy, đang ngồi trong hội chúng này. Rồi Thiện nam tử Ratthapala suy nghĩ như sau: "Như ta được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đ́nh thật không dễ ǵ thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên măn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hăy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh".

 

Then the brahmans & householders of Thullakotthita, having been instructed, urged, roused, & encouraged by the Blessed One's talk on Dhamma, delighted & rejoiced in his words. Rising from their seats, bowing down to him, they left, keeping him on their right.



Rồi các Bà-la-môn, gia chủ ở Thullakotthita, sau khi được Thế Tôn với pháp thoại khích lệ, làm cho thích thú, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, sau khi hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài rồi ra đi.

 

Then Ratthapala, not long after the brahmans & householders of Thullakotthita had left, approached the Blessed One and, on arrival, said to him, "As I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it's not easy, living at home, to practice the holy life totally perfect, totally pure, a polished shell. Lord, I want — having shaved off my hair & beard and putting on the ochre robe — to go forth from the household life into homelessness. May I receive the going-forth in the Blessed One's presence? May I receive admission?"



Thiện nam tử Ratthapala sau khi các Bà-la-môn, gia chủ ra đi không bao lâu, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Thiện nam tử Ratthapala bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đ́nh thật không dễ ǵ thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên măn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn, bạch Thế Tôn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Bạch Thế Tôn, mong Thế Tôn cho con xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn, cho con thọ đại giới.

 

"Do you have your parents' permission, Ratthapala, to go forth from the household life into homelessness?"



– Nhưng này Ratthapala, Ông có được cha mẹ bằng ḷng cho Ông xuất gia chưa ?

 

"No, lord, I haven't."



– Bạch Thế Tôn, con chưa được cha mẹ bằng ḷng cho con xuất gia.

 

"Ratthapala, Tathagatas do not give the going-forth to anyone who doesn't have his parents' permission."



– Này Ratthapala, Như Lai không có cho ai xuất gia nếu không được cha mẹ người ấy bằng ḷng.

 

"Lord, I will do what needs to be done so that my parents will give their permission for me to go forth from the household life into homelessness."



– Như vậy, bạch Thế Tôn, con sẽ làm những ǵ cần thiết để cha mẹ bằng ḷng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

Then Ratthapala, rising from his seat, bowing down to the Blessed One and keeping him on his right, went to his parents and said, "Mom, Dad, as I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it's not easy, living at home, to practice the holy life totally perfect, totally pure, a polished shell. I want — having shaved off my hair & beard and putting on the ochre robe — to go forth from the household life into homelessness. Please give me your permission to go forth from the household life into homelessness."



Rồi Thiện nam tử Ratthapala từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, rồi ra đi, đi đến cha mẹ, sau khi đến liền thưa với cha mẹ:
– Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia đ́nh thật không dễ ǵ thực hành Phạm hạnh hoàn toàn viên măn, hoàn toàn trong sạch, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Hăy bằng ḷng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

When this was said, Ratthapala's parents said to him, "Ratthapala, dear, you are our only son, dear & appealing, raised in comfort, brought up in comfort. You know nothing of suffering. Eat, drink, & enjoy yourself. While eating, drinking, & looking after yourself, you may enjoy yourself by indulging in sensual pleasures & making merit. We don't give our permission for you to go forth from the household life into homelessness.1 Even with your death we would not want to be separated from you, so how could we — while you're alive — give our permission for you to go forth from the household life into homelessness?"



Khi được nghe nói vậy, cha mẹ Thiên nam tử Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, Con không biết ǵ về đau khổ. Này con thân yêu Ratthapala hăy đến ăn, hăy uống và hăy ăn chơi. Ăn, uống, ăn chơi, Con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không muốn không có mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng ta lại bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !

 

A second time...
A third time, Ratthapala said to his parents, "Mom, Dad, as I understand the Dhamma taught by the Blessed One, it's not easy, living at home, to practice the holy life totally perfect, totally pure, a polished shell. I want — having shaved off my hair & beard and putting on the ochre robe — to go forth from the household life into homelessness. Please give me your permission to go forth from the household life into homelessness."



Lần thứ hai... (như trên)...
Lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapala thưa với mẹ cha:
– Thưa Mẹ và Cha, như con được hiểu lời Thế Tôn thuyết pháp, thời sống tại gia thật không dễ ǵ thực hành Phạm hạnh, hoàn toàn viên măn, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Con muốn cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Hăy bằng ḷng cho con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

A third time, Ratthapala's parents said to him, "Ratthapala, dear, you are our only son, dear & appealing, raised in comfort, brought up in comfort. You know nothing of suffering. Eat, drink, & enjoy yourself. While eating, drinking, & looking after yourself, you may enjoy yourself by indulging in sensual pleasures & making merit. We don't give our permission for you to go forth from the household life into homelessness.2 Even with your death we would not want to be separated from you, so how could we — while you're alive — give our permission for you to go forth from the household life into homelessness?"



Lần thứ ba, cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con độc nhất của mẹ cha, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, Con không biết ǵ về đau khổ. Này con thân yêu Ratthapala, hăy đến ăn, hăy sống và hăy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không muốn không có mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng ta lại bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !

 

Then Ratthapala, not getting his parents' permission to go forth from the household life into homelessness, lay down right there on the bare floor, [saying,] "Here will be my death or my going-forth."



Rồi Thiện nam tử Ratthapala không được cha mẹ cho xuất gia, liền ngay tại chỗ ấy nằm xuống trên đất trần và nói:
– Ta sẽ chết ở đây, hay được xuất gia.

 

And he went without food for one day... two days... three days, four... five... six days. He went without food for seven days.3



Đoạn này không được dịch

 

His parents said to him, "Ratthapala, dear, you are our only son, dear & appealing, raised in comfort, brought up in comfort. You know nothing of suffering. Get up, dear. Eat, drink, & enjoy yourself. While eating, drinking, & looking after yourself, you may enjoy yourself by indulging in sensual pleasures & making merit. We don't give our permission for you to go forth from the household life into homelessness. Even with your death we would not want to be separated from you, so how could we — while you're alive — give our permission for you to go forth from the household life into homelessness?"



Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, Con không biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy, này con thân yêu Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Con có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con được xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không muốn không có mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng ta lại bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !

 

When this was said, Ratthapala remained silent.



Khi được nghe nói vậy, Thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng.

 

A second time...
A third time, Ratthapala's parents said to him, "Ratthapala, dear, you are our only son, dear & appealing, raised in comfort, brought up in comfort. You know nothing of suffering. Get up, dear. Eat, drink, & enjoy yourself. While eating, drinking, & looking after yourself, you may enjoy yourself by indulging in sensual pleasures & making merit. We don't give our permission for you to go forth from the household life into homelessness. Even with your death we would not want to be separated from you, so how could we — while you're alive — give our permission for you to go forth from the household life into homelessness?"



Lần thứ hai... (như trên)...
Lần thứ ba, cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala nói với Thiện nam tử Ratthapala: – Này con thân yêu Ratthapala, Con là đứa con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này con thân yêu Ratthapala, Con không biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy, này con thân yêu Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Con có thể thụ hưởng cái ái dục và sung sướng làm các phước đức. Chúng ta không bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Con có chết, chúng ta c̣n không muốn không có mặt Con, huống nay Con c̣n sống, chúng Ta lại bằng ḷng cho Con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !

 

A third time, Ratthapala remained silent.



Lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng.

 

Then Ratthapala's parents went to his friends and said to them, "My dears, Ratthapala has lain down on the bare floor, [saying,] 'Here will be my death or my going-forth.' Please, dears, go to Ratthapala and say to him, 'Friend Ratthapala, you are your parents' only son... Get up, friend Ratthapala. Eat, drink, & enjoy yourself... How could your parents — while you're alive — give their permission for you to go forth from the household life into homelessness?'"4



Rồi cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala liền đi đến các thân hữu của Thiện nam tử Ratthapala, và nói:
– Này các Thân hữu, Thiện nam tử Ratthapala nằm trên đất trần và nói: "Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia". Này các Con thân mến, hăy đi đến Thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến hăy nói với Thiện nam tử Ratthapala: "Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy bạn Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm phước đức, cha mẹ không bằng ḷng cho Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Bạn có chết đi, cha mẹ c̣n không muốn không có mặt Bạn, huống nay Bạn c̣n sống, cha mẹ Bạn lại bằng ḷng cho Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ! "

 

So Ratthapala's friends went to Ratthapala and, on arrival, said to him, "Friend Ratthapala, you are your parents' only son... Get up, friend Ratthapala. Eat, drink, & enjoy yourself... How could your parents — while you're alive — give their permission for you to go forth from the household life into homelessness?"



Rồi những người bạn của Thiện nam tử Ratthapala vâng theo lời cha mẹ của Thiện nam tử Ratthapala, đi đến chỗ Thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến liền nói:
– Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy, bạn Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng các ái dục và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ không bằng ḷng cho phép Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Bạn có chết đi, cha mẹ c̣n không muốn không có mặt Bạn, huống nay Bạn c̣n sống, cha mẹ Bạn lại bằng ḷng cho Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !

 

When this was said, Ratthapala remained silent.



Khi được nghe nói vậy, Thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng.

 

A second time... A third time, his friends said to him, "Friend Ratthapala, you are your parents' only son... Get up, friend Ratthapala. Eat, drink, & enjoy yourself... How could your parents — while you're alive — give their permission for you to go forth from the household life into homelessness?"



Lần thứ hai... (như trên)...
Lần thứ ba, những người bạn của Thiện nam tử Ratthapala, nói với Thiện nam tử Ratthapala:
– Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, được sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy, bạn Ratthapala, hăy ăn, hăy uống, hăy vui chơi. Ăn uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng các ái dục, và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ không bằng ḷng cho phép Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Nếu Bạn chết đi, cha mẹ c̣n không muốn không có mặt Bạn, huống nay Bạn c̣n sống, cha mẹ Bạn lại bằng ḷng cho phép Bạn được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh !

 

A third time, Ratthapala remained silent.



Lần thứ ba, Thiện nam tử Ratthapala giữ im lặng.

 

So Ratthapala's friends went to his parents and, on arrival, said to them,
"Mom, Dad, Ratthapala is lying there on the bare floor, [having said,] 'Here will be my death or my going-forth. If you don't give him your permission to go forth from the household life into homelessness, right there will be his death. But if you do give him your permission... then even when he has gone forth, you will see him. And if he does not enjoy going forth from the household life into homelessness, where else will he go? He'll return right here. So please give him permission to go forth from the household life into homelessness."



Rồi các thân hữu của Thiện nam tử Ratthapala đi đến cha mẹ Thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến liền thưa: – Thưa Mẹ và Cha, Thiện nam tử Ratthapala đang nằm xuống trên đất trần kia và nói: "Ở đây, ta sẽ chết, hay được xuất gia". Nếu Cha Mẹ không bằng ḷng cho Thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, thời Ratthapala sẽ chết ở tại chỗ ấy. C̣n nếu Cha Mẹ bằng ḷng cho Thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, thời Cha Mẹ có thể thấy Ratthapala sau khi xuất gia. Nếu Thiện nam tử Ratthapala không cảm thấy hoan hỷ trong khi xuất gia tử bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, thời Ratthapala không c̣n con đường nào đi khác hơn. Ratthapala sẽ trở lại ở đây. Hăy bằng ḷng cho phép Thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"Then, dears, we give our permission for Ratthapala to go forth from the household life into homelessness. But when he has gone forth, he must visit his parents."



– Này các con thân mến, chúng ta bằng ḷng cho phép Thiện nam tử Ratthapala xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, nhưng sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ.

 

Then Ratthapala's friends went to him and said, "Get up, Ratthapala.5 Your parents give their permission for you to go forth from the household life into homelessness. But when you have gone forth, you must visit your parents."



Rồi những thân hữu của Thiện nam tử Ratthapala, đi đến Thiện nam tử Ratthapala, sau khi đến, liền nói:
– Này bạn Ratthapala, Bạn là con độc nhất của cha mẹ, khả ái, dễ thương, sống trong an lạc, được nuôi dưỡng trong an lạc. Này bạn Ratthapala, Bạn không biết ǵ về đau khổ. Hăy đứng dậy, ăn, uống, và vui chơi. Ăn, uống, vui chơi, Bạn có thể thụ hưởng các ái dục, và sung sướng làm các phước đức. Cha mẹ Bạn đă bằng ḷng cho phép được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, và sau khi xuất gia, cần phải về thăm cha mẹ.

 

Then Ratthapala got up and, on regaining strength, went to the Blessed One. On arrival, having bowed down to him, he sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One, "I have received my parents' permission, lord, to go forth from the household life into homelessness. May the Blessed One give me the going-forth!"



Rồi thiện nam tử Ratthapala, sau khi đứng dậy, sau khi lấy lại sức lực, liền đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Thiện nam tử Ratthapala bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con đă được mẹ cha bằng ḷng cho phép con được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Thế Tôn hăy xuất gia cho con.

 

Then Ratthapala the clansman obtained the going-forth in the Blessed One's presence, he obtained admission. And not long after his admission, one half month after his admission, the Blessed One–having stayed at Thullakotthita as long as he liked — set out wandering to Savatthi. Wandering by stages, he eventually arrived at Savatthi. There he lived at Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery.



Và Thiện nam tử Ratthapala được xuất gia dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn và được thọ đại giới.
Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Ratthapala thọ đại giới không bao lâu, nửa tháng sau khi thọ đại giới, sau khi ở tại Thullakotthita cho đến khi thỏa măn, liền khởi hành đi đến Savatthi, tuần tự du hành và đến Savatthi. Ở đấy, Thế Tôn trú tại Savatthi, Jetavana, tu viện của Anathapindika.

 

As for Ven. Ratthapala — dwelling alone, secluded, heedful, ardent, & resolute — he in no long time reached & remained in the supreme goal of the holy life, for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now. He knew: "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world." And thus Ven. Ratthapala became another one of the arahants.



Rồi Tôn giả Ratthapala sống một ḿnh, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh tấn, không bao lâu đạt được mục đích mà các Thiện nam tử chơn chánh xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến, tức là tự chứng ngộ với thắng trí, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô thượng cứu cánh Phạm hạnh. Vị ấy biết:
"Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, những việc nên làm đă làm, không c̣n phải trở lui ở đời này nữa". Tôn giả Ratthapala trở thành một vị A-la-hán nữa.

 

Then Ven. Ratthapala went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to the Blessed One:
-"Lord, I want to visit my parents, if you give me permission."
Then the Blessed One, encompassing Ven. Ratthapala's awareness with his awareness, considered & understood:
-"Ven. Ratthapala is incapable of leaving the training and reverting to the lower life." So he said to him, "Now is the time, Ratthapala, for you to do as you see fit."



Rồi Tôn giả Ratthapala đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Ratthapala bạch Thế Tôn:
– Bạch Thế Tôn, con muốn đi thăm cha mẹ, nếu Thế Tôn cho phép con.
Thế Tôn với tâm của ḿnh t́m hiểu tâm tư Tôn giả Ratthapala. Khi Thế Tôn được biết Thiện nam tử Ratthapala không thể từ bỏ tu học, trở lại hoàn tục, liền nói với Tôn giả Ratthapala:
– Này Ratthapala, nay Ông hăy làm những ǵ Ông nghĩ là hợp thời.

 

Then Ven. Ratthapala, rising from his seat, bowing down to the Blessed One and keeping him on his right, [departed]. Putting his lodgings in order and, carrying his bowl & robes, set out wandering toward Thullakotthita. Wandering by stages, he eventually arrived at Thullakotthita. There he stayed in Thullakotthita in King Koravya's Migacira [garden]. Then, early in the morning — putting on his under robe and carrying his bowl & robes — he went into Thullakotthita for alms. As he went for alms from house to house in Thullakotthita, he came to his own father's house.



Rồi Tôn giả Ratthapala từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân hữu hướng về Thế Tôn, sau khi thâu xếp chỗ ở, cầm y bát và khởi hành đi đến Thullakotthita, tuần tự du hành và đến Thullakotthita. Ở đấy, Tôn giả Ratthapala trú tại vườn Lộc Uyển của vua Koravya. Rồi tôn giả Ratthapala vào buổi sáng đắp y, cầm bát, đi vào Thullakotthita để khất thực. Tôn giả đi khất thực từng nhà một ở Thullakotthita và đến tại nhà người cha ḿnh.

 

Now at that time Ven. Ratthapala's father was in the middle door-porch having his hair combed. He saw Ven. Ratthapala coming from afar and, on seeing him, said, "It was by these shaven-headed contemplatives that our only son, dear & appealing, was made to go forth!" So Ven. Ratthapala — instead of receiving a gift or a polite refusal at his own father's house — got nothing but abuse.



Lúc bấy giờ người cha của Tôn giả Ratthapala đang chải tóc ở giữa gian pḥng có cửa. Người cha của Tôn giả Ratthapala thấy Tôn giả Ratthapala từ xa đi đến, và nói.
– Chính v́ những Sa-môn đầu trọc này mà đứa con độc nhất của chúng ta, khả ái, dễ thương đă xuất gia.
Và Tôn giả Ratthapala từ ngôi nhà của cha ḿnh, không được bố thí, không nhận được lời từ chối chỉ nhận được lời sĩ nhục.

 

Just then a slavewoman belonging to one of his relatives was about to throw away some day-old porridge. So Ven. Ratthapala said to her:
-"Sister, if that is to be thrown away, pour it here into my bowl." While she was pouring the day-old porridge into this bowl, she recognized his hands, feet, & voice. So she went to his mother and said:
-"May it please you to know, my lady, that master-son Ratthapala has arrived."



Lúc bấy giờ, người nữ tỳ thân gia của Tôn giả Ratthapala muốn quăng đổ cháo ngày hôm qua. Tôn giả Ratthapala nói với người nữ tỳ ấy:
– Này Chị, nếu cần phải quăng đổ cháo này, hăy đổ vào bát của tôi ở đây.
Rồi người nữ tỳ, trong khi đổ cháo ngày hôm qua ấy vào bát của Tôn giả Ratthapala, nhận diện được tướng tay, chân và giọng nói của Tôn giả. Người nữ tỳ liền đi đến người mẹ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến nói với người mẹ của Tôn giả Ratthapala:
– Thưa tôn mẫu, tôn mẫu có biết chăng, cậu ấm (ayyaputta) Ratthapala đă trở về.

 

"Hey, if what you say is true, I give you your freedom!"



– Nếu Ngươi nói đúng sự thật, Ngươi sẽ được thoát khỏi phận nô tỳ.

 

Then Ven. Ratthapala's mother went to his father and said, "May it please you to know, householder, that they say the clansman Ratthapala has arrived."



Rồi mẹ Tôn giả Ratthapala đi đến cha Tôn giả Ratthapala và nói:
– Thưa Gia chủ, Gia chủ có biết chăng, Thiện nam tử Ratthapala đă trở về.

 

Now at that time Ven. Ratthapala was sitting by a wall, eating the day-old porridge. His father went to him and said:
-"Ratthapala, my dear, isn't there — What? You're eating day-old porridge? Don't you have your own home to go to?"



Lúc bấy giờ, Tôn giả Ratthapala đang ăn cháo ngày hôm qua ấy, ngồi dựa vào một bức tường. Rồi người cha đến tại chỗ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến liền nói với Tôn giả Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, có phải Con đang ăn cháo ngày hôm qua ? Này con thân yêu Ratthapala, Con phải vào nhà của Con.

 

"How could we have a home, householder? We have gone forth from the household life into homelessness. We are homeless, householder. We went to your house, but — instead of receiving a gift or a polite refusal — we got nothing but abuse."



– Thưa Gia chủ, chỗ nào là nhà của chúng tôi, những người xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ? Chúng tôi là những người không gia đ́nh, thưa Gia chủ ! Chúng tôi có đến nhà của Gia chủ, thưa Gia chủ, nhưng tại đấy, chúng tôi không nhận được bố thí, không nhận được lời từ chối, chỉ nhận được lời sỉ nhục.

 

"Come, dear Ratthapala. Let's go home."



– Hăy đi vào nhà, này con thân yêu Ratthapala.

 

"Enough, householder. My meal for today is finished."



– Thưa Gia chủ, thôi vừa rồi ! Hôm nay tôi đă ăn xong.

 

"In that case, dear Ratthapala, acquiesce to the meal for tomorrow."



– Vậy này con thân yêu Ratthapala, hăy nhận lời mời ngày mai đến dùng cơm.

 

So Ven. Ratthapala acquiesced in silence.



Tôn giả Ratthapala im lặng nhận lời.

 

Understanding Ven. Ratthapala's acquiesence, his father went to his house and, having the floor coated with fresh cow dung, had a great heap of gold & silver made, two great heaps made — one of gold, one of silver — so large that a man standing on the near side could not see a man standing on the far side, just as a man standing on the far side could not see a man standing on the near. Hiding them behind screens, he set out a seat between them, surrounded by a curtain.6 Addressing Ven. Ratthapala's former wives, he said to them, "Come, daughters-in-law. Adorn yourself in the ornaments that our son, Ratthapala, used to find dear & appealing."



Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala, sau khi được biết Tôn giả Ratthapala đă nhận lời liền về đến nhà của ḿnh, cho chất vàng nén và tiền vàng thành một đống lớn, lấy màn che lại, và cho gọi các người vợ cũ của Tôn giả Ratthapala:
– Này các Con dâu, hăy tự trang điểm với những trang điểm mà xưa kia các Con được Thiện nam tử Ratthapala ái lạc và ưa thích.

 

Then, as the night was ending, Ven. Ratthapala's father had exquisite staple & non-staple foods prepared in his own house and had the time announced to Ven. Ratthapala: "It's time, dear Ratthapala. The meal is ready."



Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala, sau khi đêm ấy đă măn, sau khi cho sửa soạn trong nhà của ḿnh, các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm, liền báo giờ cho Tôn giả Ratthapala:
– Đă đến giờ, này con thân yêu Ratthapala, cơm đă sẵn sàng.

 

Then, early in the morning — putting on his under robe and carrying his bowl & robes — Ven. Ratthapala went to his father's house and, on arrival, sat down on the seat made ready. Then his father, revealing the heap of gold & silver, said to him, "This, my dear Ratthapala, is your mother's inheritance. The other is your fathers; the other, your grandfather's — [enough that] you can enjoy wealth and make merit. Come, my dear Ratthapala. Leave the training and revert to the lower life. Enjoy wealth and make merit!"



Rồi Tôn giả Ratthapala vào buổi sáng đắp y, cầm bát đi đến ngồi nhà của người cha ḿnh, sau khi đến ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn. Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala cho tŕnh bày ra đống vàng nén và tiền vàng và nói với Tôn giả Ratthapala:
– Này con thân yêu Ratthapala, đây là tiền tài của mẹ, kia là tiền tài của cha, kia là tiền tài của tổ tiên. Này con thân yêu Ratthapala, Con có thể thụ hưởng tài vật và làm các phước đức. Này con thân yêu Ratthapala, hăy từ bỏ tu học, hoàn tục thụ hưởng các tài vật và làm các phước đức.

 

"Householder, if you'd do as I say, you would have this heap of gold & silver loaded on carts and hauled away to be dumped midstream in the river Ganges. Why is that? This [wealth] will be the cause of your sorrow, lamentation, pain, distress, & despair."



– Thưa Gia chủ, nếu Gia chủ làm theo lời nói của tôi, sau khi chồng chất đống vàng nén và tiền vàng này vào trong các xe, sau khi cho chở và hạ xuống giữa sông Hằng, hăy đổ đống vàng này vào giữa ḍng sông. V́ sao vậy ? Này Gia chủ, v́ do nhân duyên này, mà sầu, bi, khổ, ưu, năo sẽ khởi lên cho Gia chủ.

 

Then, clasping each of his feet, Ven. Ratthapala's former wives said to him, "What are they like, dear master-son: those nymphs for whose sake you lead the holy life?"



Rồi những người vợ cũ của Tôn giả Ratthapala ôm mỗi chân (Tôn Giả) và nói:
– Thưa Phu quân (ayyaputtaka) v́ Thiên nữ nào mà Phu quân sống Phạm hạnh ?

 

"Sisters, we don't lead the holy life for the sake of nymphs."



– Các Bà chị, không phải v́ Thiên nữ nào mà chúng tôi sống Phạm hạnh.

 

"'Sisters' he calls us!" And they fell down right there in a faint.



– Phu quân Ratthapala đối với chúng ta gọi chúng ta là bà chị.
Nói lên như vậy, (các người vợ cũ) liền ngă xuống đất, bất tỉnh.

 

Then Ven. Ratthapala said to his father, "Householder, if there's food to be given, then give it. Don't harass us."



Rồi Tôn giả Ratthapala nói với phụ thân:
– Thưa Gia chủ, nếu Gia chủ muốn bố thí đồ ăn thời hăy bố thí đi, chớ có phiền nhiễu chúng tôi

 

"Eat, then, my dear Ratthapala. The meal is ready."



– Hăy ăn, này con thân yêu Ratthapala, cơm đă sẵn sàng.

 

So, with his own hands, Ven. Ratthapala's father served and satisfied him with exquisite staple and non-staple foods. When he had finished his meal and withdrawn his hand from the bowl, Ven. Ratthapala stood up and recited these verses:



Rồi người cha của Tôn giả Ratthapala tự tay thân mời và làm cho thỏa măn Tôn giả Ratthapala với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.
Rồi Tôn giả Ratthapala sau khi ăn xong, tay đă rời khỏi bát, đứng dậy và nói bài kệ sau đây:

 

Look at the image beautified,
a heap of festering wounds, shored up:
ill, but the object
	of many resolves,
where there is nothing
	lasting or sure.7
	
Look at the form beautified
with earrings & gems:
	a skeleton wrapped in skin,
	made attractive with clothes.

Feet reddened with henna,
a face smeared with powder:
	enough to deceive a fool,
	but not a seeker for the further shore.

Hair plaited in eight pleats,
eyes smeared with unguent:
	enough to deceive a fool,
	but not a seeker for the further shore.
	
Like a newly painted unguent pot —
a putrid body adorned:
	enough to deceive a fool,
	but not a seeker for the further shore.

The hunter set out the snares,
but the deer didn't go near the trap.
Having eaten the bait,
		we go,
	leaving the hunters
		to weep.




Hăy nh́n h́nh bóng trang sức này, 
Một nhóm vết thương được tích tụ, 
Bệnh nhiều, tham tưởng cũng khá nhiều, 
Nhưng không ǵ kiên cố, thường trú. 

Hăy nh́n dung mạo trang sức này, 
Với các châu báu, với ṿng tai, 
Một bộ xương được da bao phủ, 
Được y phục làm cho sáng chói. 

Chân được sơn với son với sáp, 
Mặt được thoa với phấn, với bột, 
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu, 
Nhưng vô phương kẻ cầu bờ giác. 

Tóc được uốn bảy ṿng, bảy lớp, 
Mắt được xoa với thuốc, với son, 
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu, 
Nhưng vô phương kẻ cầu bờ giác. 

Như hộp thuốc trang hoàng mới mẻ, 
Là uế thân được điểm thời trang, 
Vừa đủ làm mê hoặc kẻ ngu, 
Nhưng vô phương kẻ cầu bờ giác. 

Người thợ săn đặt bày lưới sập, 
Loài nai (khôn) chẳng chạm bén chân, 
Ăn lúa xong, chúng ta lên đường, 
Mặc cho kẻ bắt nai than khóc. 

 

After reciting these verses while standing, Ven. Ratthapala went to King Koravya's Migacira. On arrival, he sat down in the shade of a tree for the day's abiding.

Tôn giả Ratthapala đọc bài kệ xong đứng dậy, liền đi đến vườn Lộc Uyển của vua Koravya, sau khi đến liền ngồi xuống nghỉ trưa dưới một gốc cây.

 

Then King Koravya said to his gamekeeper: "Clean up the Migacira pleasure garden. I am going there to see the beautiful grounds."


Rồi vua Koravya nói với người thợ săn:
– Này Thợ Săn, hăy dọn dẹp đất vườn ở Lộc Uyển, ta muốn đi thăm viếng cảnh đẹp.

 

"As you say, your majesty," the gamekeeper responded to the king. As he was cleaning up Migacira he saw Ven. Ratthapala sitting in the shade of a tree for the day's abiding. On seeing him, he went to the king and said, "Migacira has been cleaned up for you, your majesty. And the clansman Ratthapala — the son of the leading clan in this Thullakotthita, of whom you have often spoken highly — is there, sitting in the shade of a tree for the day's abiding."


– Thưa vâng, Đại vương.
Người thợ săn vâng đáp vua Koravya, trong khi dọn dẹp vườn Nai, thấy Tôn giả Ratthapala đang ngồi dưới gốc cây để nghỉ trưa. Sau khi thấy vậy, người ấy liền đến vua Koravya, sau khi đến liền tâu vua Koravya:
– Tâu Đại vương, vườn Nai đă được dọn dẹp. Và ở đấy có Thiện nam tử tên là Ratthapala là con một thế gia ở Thullakotthita mà Đại vương thường hay tán thán, vị ấy đang ngồi dưới một gốc cây để nghỉ trưa.

 

"In that case, my dear gamekeeper, never mind about the pleasure garden for today. I am now going to pay my respects to that Master Ratthapala."



– Này Thợ săn, hôm nay thế là vừa đủ về vườn cảnh. Nay chúng ta muốn cung kính cúng dường Tôn giả Ratthapala.

 

Then, saying, "Give away all the staple and non-staple foods that have been prepared," King Koravya had auspicious vehicles harnessed. Mounting an auspicious vehicle he set out from Thullakotthita accompanied by other auspicious vehicles in full royal pomp to see Ven. Ratthapala. Going as far by vehicle as the ground would permit, he dismounted and went to Ven. Ratthapala, accompanied by many eminent members of his court. On arrival, he exchanged courteous greetings with Ven. Ratthapala. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he stood to one side. As he was standing there, he said to Ven. Ratthapala, "May Master Ratthapala sit here on the elephant rug."



Rồi vua Koravya, sau khi nói: "Ở đây, hăy đem bố thí tất cả món ăn đă soạn sẵn, loại cứng và loại mềm", ra lệnh cho thắng nhiều cỗ xe thù thắng, leo lên một cỗ xe thù thắng, liền cùng với các cỗ xe đi ra khỏi Thullakotthita để yết kiến Tôn giả Ratthapala với đại uy phong của bậc đế vương. Sau khi cỡi xe cho đến chỗ đất c̣n có thể cỡi xe được, Ngài xuống xe, đi bộ, cùng với hàng tùy tùng vương hầu, đến chỗ của Tôn giả Ratthapala, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm với Tôn giả Ratthapala, sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu, liền đứng một bên. Đứng một bên, vua Koravya bạch Tôn giả Ratthapala:
– Ở đây xin mời Tôn giả Ratthapala ngồi xuống trên nệm voi.

 

"Never mind, great king. You sit there. I am sitting on my own seat."



– Thôi vừa rồi, Đại vương ! Đại vương hăy ngồi. Tôi đă ngồi trên chỗ ngồi của tôi.

 

So King Koravya sat down on the seat prepared. As he was sitting there, he said to Ven. Ratthapala, "There are cases where, having suffered these four kinds of loss, men shave off their hair & beard, put on the ochre robe, and go forth from the home life into homelessness. Which four?
Loss through aging,
loss through illness,
loss of wealth,
loss of relatives... But Master Ratthapala has suffered none of these. What did he know or see or hear that Master Ratthapala went forth from the home life into homelessness?"



Rồi vua Koravya ngồi trên chỗ ngồi đă soạn sẵn. Sau khi ngồi, vua Koravya bạch Tôn giả Ratthapala: – Bạch Tôn giả Ratthapala, có bốn sự suy vong này. Chính do thành tựu bốn sự suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Thế nào là bốn ?
Lăo suy vong,
Bệnh suy vong,
Tài sản suy vong,
Thân tộc suy vong.
Tôn giả Ratthapala đâu có những loại ấy ? Vậy Tôn giả đă biết ǵ, đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?

 

Đoạn này không có phần Anh ngữ

Này Tôn giả Ratthapala, thế nào là lăo suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có người niên cao, lạp lớn, đă đến tuổi trưởng thượng, đă sống măn kỳ, đă gần mệnh chung. Vị ấy suy tư như sau: "Nay ta đă già, niên cao lạp lớn, đă đến tuổi trưởng thượng, đă sống măn kỳ, đă gần mệnh chung. Thật không dễ ǵ cho ta thâu được các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đă thâu hoạch. Vậy ta hăy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này, do thành tựu lăo suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala được gọi là lăo suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala nay c̣n trẻ, niên thiếu, c̣n thanh niên, tóc đen nhánh, trong tuổi thanh xuân, trong sơ kỳ tuổi đời; Tôn giả Ratthapala đâu có lăo suy vong ? Vậy Tôn giả Ratthapala đă biết ǵ, đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?

 

Đoạn này không có phần Anh ngữ

Và thưa Tôn giả Ratthapala, thế nào là bệnh suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala, có người bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta bị bệnh, khổ đau, mang trọng bệnh, thật không dễ ǵ cho ta thâu được các tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm tăng trưởng các tài vật đă thâu hoạch được. Vậy ta hăy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này do thành tựu bệnh suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, được gọi là bệnh suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala nay ít bệnh, ít năo, tiêu hóa được điều ḥa, không quá lạnh, không quá nóng; Tôn giả Ratthapala đâu có bệnh suy vong ? Tôn giả Ratthapala đă biết ǵ, đă thấy ǵ hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?

 

Đoạn này không có phần Anh ngữ

Và thưa Tôn giả Ratthapala, thế nào là tài sản suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có người giàu sang, tiền của nhiều, tài vật nhiều, và những tài vật của vị ấy dần dần đi đến chỗ suy vong. Vị ấy suy nghĩ như sau: "Ta trước đây giàu sang, tiền của nhiều, tài sản nhiều. Những tài vật ấy của ta dần dần đă đi đến suy vong. Thật không dễ ǵ cho ta thâu được những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đă thâu hoạch được. Vậy ta hăy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này do thành tựu tài suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala được gọi là tài suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala chính tại Thullakotthita này, là con của một lương gia đệ nhất; Tôn giả Ratthapala đâu có tài sản suy vong ? Tôn giả Ratthapala đă biết ǵ, đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?

 

Đoạn này không có phần Anh ngữ

Và này Tôn giả Ratthapala, thế nào là thân tộc suy vong ? Ở đây, thưa Tôn giả Ratthapala có người có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống, những thân hữu quyến thuộc của người ấy dần dần đi đến chỗ suy vong. Người ấy suy tư như sau: "Trước kia, ta có nhiều người thân hữu quen biết, bà con huyết thống. Những thân hữu quyến thuộc ấy của ta dần dần đi đến chỗ suy vong. Thật không dễ ǵ cho ta thâu được những tài vật chưa thâu hoạch được, hay làm cho tăng trưởng những tài vật đă thâu hoạch được. Vậy ta hăy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh". Vị này do thành tựu thân tộc suy vong nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, được gọi là thân tộc suy vong. Nhưng Tôn giả Ratthapala ở chính tại Thullakotthita này, có nhiều thân hữu quen biết, bà con huyết thống, Tôn giả Ratthapala đâu có thân tộc suy vong ? Vậy Tôn giả Ratthapala đă biết ǵ, đă thấy ǵ hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?

 

There are cases where, having suffered these four kinds of loss, men shave off their hair & beard, put on the ochre robe, and go forth from the home life into homelessness. Which four? Loss through aging, loss through illness, loss of wealth, & loss of relatives... But Master Ratthapala has suffered none of these. What did he know or see or hear that Master Ratthapala went forth from the home life into homelessness?"

– Thưa Tôn giả Ratthapala, đây là bốn loại suy vong, do thành tựu bốn loại suy vong này mà ở đây, có người cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh; Tôn giả Ratthapala đâu có những loại ấy ? Vậy Tôn giả đă biết ǵ, đă thấy ǵ, hay đă nghe ǵ mà xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh ?

 

"Great king, there are four Dhamma summaries stated by the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened. Having known & seen & heard them, I went forth from the home life into homelessness. Which four?



- Thưa Đại vương, có bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Thế nào là bốn ?

 

"'The world8 is swept away. It does not endure': This is the first Dhamma summary stated by the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened. Having known & seen & heard it, I went forth from the home life into homelessness.



Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt", thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ nhất, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"'The world is without shelter, without protector': This is the second Dhamma summary...



"Thế giới là vô hộ, vô chủ", thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ hai, do Thế Tôn, bậc Tri Giả. Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"'The world is without ownership. One has to pass on, leaving everything behind': This is the third Dhamma summary...



Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả", thưa Đại vương đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ ba, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"'The world is insufficient, insatiable, a slave to craving': This is the fourth Dhamma summary...



Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái", thưa Đại vương, đó là thuyết giáo Chánh pháp thứ tư, do Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác thuyết giảng. Do tôi biết, tôi thấy, tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"These, great king, are the four Dhamma summaries stated by the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened. Having known & seen & heard them, I went forth from the home life into homelessness."



Thưa Đại vương, đây là bốn sự thuyết giáo Chánh pháp, được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác giảng dạy. Do tôi biết, tôi thấy và tôi nghe thuyết giáo ấy, mà tôi xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"Master Ratthapala, you say, 'The world is swept away. It does not endure.' Now how is the meaning of this statement to be understood?"



– Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là vô thường đi đến hủy diệt, " ư nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala ?

 

"What do you think, great king: When you were twenty or twenty-five years old — an expert elephant rider, an expert horseman, an expert charioteer, an expert archer, an expert swordsman — were you strong in arm & strong in thigh, fit, & seasoned in warfare?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Khi Ngài 20 tuổi, hay 25 tuổi, Ngài có thiện nghệ về voi, thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc?

 

"Yes, Master Ratthapala, when I was twenty or twenty-five years old... I was strong in arm & strong in thigh, fit, & seasoned in warfare. It was as if I had supernormal power. I do not see anyone who was my equal in strength."



– Thưa Tôn giả Ratthapala, khi tôi được 20 hay 25 tuổi, tôi thiện nghệ về voi, tôi thiện nghệ về ngựa, thiện nghệ về xe, thiện nghệ về cung, thiện nghệ về kiếm, bắp vế mạnh, và cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ trong nghề đánh giặc. Có đôi lúc, thưa Tôn giả Ratthapala, tôi cảm thấy có thần lực và xem không ai có thể bằng tôi về sức mạnh.

 

"And what do you think, great king: Are you even now as strong in arm & strong in thigh, as fit, & as seasoned in warfare?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Nay Đại vương vẫn c̣n bắp vế mạnh, cánh tay mạnh, có khả năng và thiện nghệ đánh giặc như vậy không ?

 

"Not at all, Master Ratthapala. I'm now a feeble old man, aged, advanced in years, having come to the last stage of life, 80 years old. Sometimes, thinking, 'I will place my foot here,' I place it somewhere else."



– Không như vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, nay tôi đă già, niên cao, lạp lớn, đă đến tuổi trưởng thượng, đă sống măn kỳ, đă gần mệnh chung, gần 80 tuổi thọ. Có đôi lúc, thưa Tôn giả Ratthapala, tôi nghĩ: "Ở đây, ta sẽ bước chân", nhưng tôi lại bước chân tại chỗ khác.

 

"It was in reference to this, great king, that the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened, said: 'The world is swept away. It does not endure.' Having known & seen & heard this, I went forth from the home life into homelessness."



Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói: "Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt", và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"It's amazing, Master Ratthapala. It's astounding, how well that has been said by the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened: 'The world is swept away. It does not endure.' For the world really is swept away, Master Ratthapala. It does not endure.



– Thật vi diệu thay, Tôn Giả Ratthapala ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, Bậc A la hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói: "Thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt". Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là vô thường, đi đến hủy diệt.

 

"Now, in this royal court there are elephant troops & cavalry & chariot troops & infantry that will serve to defend us from dangers. And yet you say, 'The world is without shelter, without protector.' How is the meaning of this statement to be understood?"



Nhưng thưa Tôn giả Ratthapala, ở vương quốc này, có đội quân voi, cũng có đội quân ngựa, cũng có đội quân xa, cũng có đội quân bộ, nếu chúng tôi gặp nguy khốn thời các đội quân bảo vệ chúng tôi. Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là vô hộ, vô chủ", ư nghĩa của lời nói này, cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala ?

 

"What do you think, great king: Do you have any recurring illness?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Đại vương có mắc chứng bệnh kinh niên nào không ?

 

"Yes, Master Ratthapala, I have a recurring wind-illness.9 Sometimes my friends & advisors, relatives & blood-kinsmen, stand around me saying, 'This time King Koravya will die. This time King Koravya will die.'"



– Thưa Tôn giả Ratthapala, tôi có bệnh phong kinh niên. Nhiều khi, thân hữu quen biết, bà con huyết thống đứng xung quanh tôi và nói: "Nay vua Koravya sẽ mệnh chung, nay vua Koravya sẽ mệnh chung".

 

"And what do you think, great king: Can you say to your friends & advisors, relatives & blood-kinsmen, 'My friends & advisors, relatives & blood-kinsmen are commanded: all of you who are present, share out this pain so that I may feel less pain'? Or do you have to feel that pain all alone?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Đại vương có thể nói chăng, với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của Đại vương: "Mong rằng Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi ! Mong tất cả hăy san sẻ cảm thọ này, để tôi có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn"; hay là Đại vương chỉ có thể thọ lănh cảm thọ ấy một ḿnh ?

 

"Oh, no, Master Ratthapala, I can't say to my friends & advisors, relatives & blood-kinsmen, 'All of you who are present, share out this pain so that I may feel less pain.' I have to feel that pain all alone."



Thưa Tôn giả Ratthapala, tôi không có thể nói với các thân hữu quen biết, bà con huyết thống của tôi: "Mong rằng các Tôn giả thân hữu quen biết, bà con huyết thống làm vơi nhẹ sự đau khổ của tôi. Mong tất cả hăy san sẻ cảm thọ này để có thể có một cảm thọ nhẹ nhàng hơn"; và tôi chỉ có thể thọ lănh cảm thọ ấy một ḿnh".

 

"It was in reference to this, great king, that the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened, said: 'The world is without shelter, without protector.' Having known & seen & heard this, I went forth from the home life into homelessness."



– Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói: "Thế giới là vô hộ, vô chủ", và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"Now, in this royal court there is a great deal of gold & silver stashed away underground & in attic vaults. And yet you say, 'The world is without ownership. One has to pass on, leaving everything behind.' How is the meaning of this statement to be understood?"



– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói: "Thế giới là vô hộ, vô chủ". Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là vô hộ, vô chủ. Nhưng thưa Tôn giả Ratthapala, ở vương quốc này có rất nhiều vàng nén và tiền vàng dưới đất và trên mặt đất". Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là vô sở hữu, ra đi cần phải từ bỏ tất cả". Ư nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala ?

 

"What do you think, great king? As you now enjoy yourself endowed & replete with the pleasures of the five senses, can you say, 'Even in the afterlife I will enjoy myself in the same way, endowed & replete with the very same pleasures of the five senses'? Or will this wealth fall to others, while you pass on in accordance with your kamma?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Dầu cho nay Đại vương sống thụ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng, Đại vương có thể nói được như sau: "Chính như vậy, tôi thọ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng này"; hay là người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, c̣n Đại vương sẽ phải đi theo nghiệp của ḿnh ?

 

"Oh, no, Master Ratthapala, I can't say, 'Even in the afterlife I will enjoy myself in the same way, endowed & replete with the very same pleasures of the five senses.' This wealth will fall to others, while I pass on in accordance with my kamma."



– Thưa Tôn giả Ratthapala, dầu cho nay tôi sống thụ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng dưỡng. Tôi không có thể nói được như sau: "Chính như vậy tôi thọ hưởng măn túc, cụ túc năm món dục trưởng này". Chính người khác sẽ thọ hưởng tài sản này, c̣n tôi phải đi theo nghiệp của tôi.

 

"It was in reference to this, great king, that the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened, said: 'The world is without ownership. One has to pass on, leaving everything behind.' Having known & seen & heard this, I went forth from the home life into homelessness."



Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương, mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói: "Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả". Và tôi sau khi biết, sau khi thấy và sau khi nghe như vậy, đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"It's amazing, Master Ratthapala. It's astounding, how well that has been said by the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened: 'The world is without ownership. One has to pass on, leaving everything behind.' For the world really is without ownership, Master Ratthapala. One has to pass on, leaving everything behind.



– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói: "Thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả". Thật vậy thưa Tôn giả Ratthapala thế giới là vô sở hữu, cần phải ra đi, từ bỏ tất cả. ?

 

"Now, Master Ratthapala, you say, 'The world is insufficient, insatiable, a slave to craving.' How is the meaning of this statement to be understood?"



Tôn giả Ratthapala đă nói: "Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái". Ư nghĩa của lời nói này cần phải được hiểu như thế nào, thưa Tôn giả Ratthapala ?

 

"What do you think, great king: Do you now rule over the prosperous country of Kuru?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Có phải Đại vương trị v́ ở Kuru, một nước phồn thịnh ?

 

"That is so, Master Ratthapala. I rule over the prosperous country of Kuru."



– Thưa vâng, Tôn giả Ratthapala. Tôi trị v́ ở Kuru, một nước phồn thịnh.

 

"What do you think, great king: Suppose a trustworthy, reliable man of yours were to come to you from the east. On arrival he would say to you, 'May it please your majesty to know, I have come from the east. There I saw a great country, powerful & prosperous, populous & crowded with people. Plenty are the elephant troops there, plenty the cavalry troops, chariot troops, & infantry troops. Plenty is the ivory-work there, plenty the gold & silver, both worked & unworked. Plenty are the women for the taking. It is possible, with the forces you now have, to conquer it. Conquer it, great king!' What would you do?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào ? Nếu có người đáng tin cậy, chánh trực đến với Đại vương từ phương Đông, và sau khi đến tâu với Đại Vương: "Tâu Đại vương, Đại vương có biết chăng ? Tôi từ phương Đông lại. Ở đấy, tôi có thấy một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội. Tại đấy có nhiều ngà voi, tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đă làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Đại vương, hăy đi chinh phục !" Đại vương sẽ hành động như thế nào ?

 

"Having conquered it, Master Ratthapala, I would rule over it."



– Thưa Tôn giả Ratthapala, sau khi chinh phục, quốc độ ấy tôi sẽ trị v́.

 

"Now what do you think, great king? Suppose a trustworthy, reliable man of yours were to come to you from the west... the north... the south... the other side of the ocean. On arrival he would say to you, 'May it please your majesty to know, I have come from the other side of the ocean. There I saw a great country, powerful & prosperous, populous & crowded with people. Plenty are the elephant troops there, plenty the cavalry troops, chariot troops, & infantry troops. Plenty is the ivory-work there, plenty the gold & silver, both worked & unworked. Plenty are the women for the taking. It is possible, with the forces you now have, to conquer it. Conquer it, great king!' What would you do?"



– Thưa Đại vương, Đại vương nghĩ thế nào? Ở đây có người đến với Đại vương từ phương Tây ... (như trên) ... từ phương Bắc ... (như trên) ... từ phương Nam ... (như trên) ... từ bờ biển bên kia, người ấy đáng tin cậy, chánh trực, tâu với Đại vương: "Tâu Đại vương, Đại vương có biết chăng? Tôi từ bờ biển bên kia lại. Ở đây, tôi thấy có một quốc độ lớn, phú cường, phồn thịnh, dân cư trù mật. Tại đấy có nhiều đội voi, đội ngựa, đội xe, bộ đội. Tại đấy có nhiều ngà voi. Tại đấy có nhiều vàng nén, tiền vàng chưa làm và đă làm, có nhiều phụ nữ. Và có thể chinh phục quốc độ ấy với vũ lực như thế ấy. Tâu Đại vương , hăy đi chinh phục". Đại vương sẽ hành động như thế nào?

 

"Having conquered it, Master Ratthapala, I would rule over it, too."



– Thưa Tôn giả Ratthapala, sau khi chinh phục, tôi sẽ trị v́.

 

"It was in reference to this, great king, that the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened, said: 'The world is insufficient, insatiable, a slave to craving.' Having known & seen & heard this, I went forth from the home life into homelessness."



Chính liên hệ với nghĩa này, này Đại vương mà Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă nói: "Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái, " và tôi sau khi biết, sau khi thấy, sau khi nghe như vậy, đă xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"It's amazing, Master Ratthapala. It's astounding, how well that has been said by the Blessed One who knows & sees, worthy & rightly self-awakened: 'The world is insufficient, insatiable, a slave to craving.' For the world really is insufficient, Master Ratthapala. It's insatiable, a slave to craving."



– Thật vi diệu thay, Tôn giả Ratthapala ! Thật hy hữu thay, Tôn giả Ratthapala ! Ư nghĩa này được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă khéo nói: "Thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái". Thật vậy, thưa Tôn giả Ratthapala, thế giới là thiếu thốn, khao khát, nô lệ cho tham ái.

 

That is what Ven. Ratthapala said. Having said that, he further said this:



Tôn giả Ratthapala đă giảng như vậy, sau khi giảng như vậy xong, lại nói thêm như sau:

 

I see in the world
	people with wealth
who, from delusion,
	don't make a gift
	of the treasure they've gained.
Greedy, they stash it away,
hoping for even more
sensual pleasures.

A king who, by force,
has conquered the world
and rules over the earth
to the edge of the sea,
dissatisfied with the ocean's near shore,
	longs for the ocean's
	far shore as well.

Kings & others
	 — plenty of people —
go to death with craving
	unabated. Unsated,
they leave the body behind,
having not had enough
of the world's sensual pleasures.

One's relatives weep
& pull out their hair.
'Oh woe, our loved one is dead,' they cry.
Carrying him off,
wrapped in a piece of cloth,
they place him
	on a pyre,
	then set him on fire.

So he burns, poked with sticks,
in just one piece of cloth,
leaving all his possessions behind.
They are not shelters for one who has died —
	not relatives,
	friends,
	or companions.

His heirs take over his wealth,
while the being goes on,
in line with his kamma.
No wealth at all
follows the dead one —
	not children, wives,
	dominion, or riches.

Long life
can't be gotten with wealth,
nor aging
warded off with treasure.
The wise say this life
is next to nothing —
	impermanent,
	subject to change.

The rich & the poor
touch the touch of Death.
The foolish & wise
are touched by it, too.
But while fools lie as if slain by their folly,
the wise don't tremble
when touched by the touch.

Thus the discernment by which
one attains to mastery,
is better than wealth —
for those who haven't reached mastery
go from existence to existence,
	out of delusion,
	doing bad deeds.

One goes to a womb
& to the next world,
falling into the wandering on
	 — one thing
	after another —
while those of weak discernment,
	trusting in one,
also go to a womb
& to the next world.

Just as an evil thief
caught at the break-in
	is destroyed
	by his own act,
so evil people
— after dying, in the next world —
	are destroyed
	by their own acts.

Sensual pleasures —
	variegated,
	enticing,
	sweet —
in various ways disturb the mind.
Seeing the drawbacks in sensual objects:
that's why, O king, I went forth.

Just like fruits, people fall
	 — young & old —
at the break-up of the body.
Knowing this, O king,
	I went forth.
The contemplative life is better
		for sure.

 

Ta thấy người giàu sang ở đời, 
Có của v́ si không bố thí. 
V́ tham, họ tích tụ tài vật, 
Và chạy theo dục vọng càng nhiều. 
Dùng bạo lực, chinh phục quả đất, 
Vua trị v́ cho đến hải biên, 
Không thỏa măn bờ biển bên này, 
Và chạy theo bờ biển bên kia. 
Vua cùng rất nhiều loại người khác, 
Ái chưa ly, mạng chung đă đến, 
Bị thiếu thốn, không bỏ thân họ, 
Không thỏa măn ḷng dục ở đời. 
Quyến thuộc tán loạn, khóc người ấy: 
"Than ôi, người ấy không bất tử ! ". 
Mạng thân người ấy vải bao phủ, 
Họ đốt lửa làm lễ hỏa thiêu. 
Bị thọc với cây, người ấy cháy, 
Độc mảnh vải, bỏ tiền của lại. 
Ở đây, quyến thuộc cùng thân hữu, 
Không nơi nương tựa cho kẻ chết. 
Kẻ thừa tự, nhận mang tài sản, 
Riêng con người, theo nghiệp phải đi, 
Tiền của đâu có theo người chết, 
Cả vợ con, tài sản, quốc độ. 
Tài sản không mua được trường thọ, 
Phú quư không tránh được già suy, 
Kẻ trí nói đời này thật ngắn, 
Thật vô thường, biến đổi luôn luôn. 
Kẻ giàu, kẻ nghèo đều cảm xúc, 
Người ngu, kẻ trí đồng cảm thọ, 
Kẻ ngu bị ngu đánh nằm ngă, 
Bậc trí cảm xúc, không run sợ. 
Do vậy, trí tuệ thắng tài vật, 
Nhờ trí, ở đây được viên thành. 
Không thành măn trong hữu, phi hữu, 
Kẻ ngu tạo tác các ác nghiệp. 
Nhập thai thác sanh thế giới khác, 
Người ấy luân hồi, tiếp tục sanh, 
Kẻ thiểu trí chắc hẳn phải là 
Nhập thai và sanh thế giới khác. 
Như kẻ trộm bị bắt khi trộm, 
Ác tánh hại ḿnh do tự nghiệp, 
Chúng sanh cũng vậy chết đời khác, 
Ác tánh hại ḿnh, do tự lực. 
Dục vọng nhiều loại, ngọt, khả ái, 
Nhiễu loạn tâm dưới nhiều h́nh thức, 
Thấy hoạn nạn trong dục trưởng dưỡng, 
Nên tôi xuất gia, tâu Đại vương ! 
Như quả từ đây, người bị rụng, 
Cả già lẫn trẻ, khi thân hoại, 
Do thấy chính vậy, tôi xuất gia, 
Hạnh Sa-môn phải là tối thắng, 

 

1 & 2. The preceding three sentences appear in this location only in the Thai edition of the Canon, although they appear below in all editions of the Canon.

3. This reference to the number of days Ratthapala went without food appears only in the Thai edition of the Canon.

4. This paragraph is not in the Thai edition of the Canon.

5. This first sentence in quotation marks is not in the Thai edition of the Canon.

6. This passage in the Thai edition of the Canon is much more elaborate than the corresponding passage in other editions of the Canon. The other editions mention simply that the father went home and had a heap of gold & silver made and concealed with a screen. The detail of the height of the heaps seems to have been adopted from the Commentary, for the commentators — in discussing this passage — feel called upon to explain how tall the piles were. If that detail had been in the original Pali, they wouldn't have had to supply it. As for the two heaps, that detail seems required by the later passage where Ven. Ratthapala's father points out three separate inheritances, although that passage — as indicated in the translation, mentions "heap" in the singular.

Apparently there were some discrepancies in the original discourse that subsequent editors tried to correct, but it's hard to reach a definitive conclusion as to which version is closer to the original. On the one hand, it might be that the two extra heaps were mentioned in the original, but later deleted in some editions to bring the description in line with the fact that the later passage mentions "heap" in the singular; on the other hand, it might be that the original described the father making one heap, and the editors later amended the passage to account for his later reference to three inheritances.

7. This verse is identical with Dhp 147.

8. For the meaning of the word "world" in this discourse, see SN 35.82.

9. In ancient Indian medicine, a variety of illnesses — such as indigestion, sharp pains running through the body, etc. — were said to be caused by an imbalance of the wind-property (vaayo-dhaatu) in the body.

See also: Thag 16.4

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |