I have heard that:
On one occasion the Blessed One was wandering on a tour of Kasi with a large community of monks. There he addressed the monks: "I abstain from the night-time meal.1 As I am abstaining from the night-time meal, I sense next-to-no illness, next-to-no affliction, lightness, strength, & a comfortable abiding. Come now. You too abstain from the night-time meal. As you are abstaining from the night-time meal, you, too, will sense next-to-no illness, next-to-no affliction, lightness, strength, & a comfortable abiding."



Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn du hành ở Kasi cùng với đại chúng Tỷ-kheo. Ở đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
– Này các Tỷ-kheo, Ta ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Ta cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Này các Tỷ-kheo, hăy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Này các Tỷ-kheo, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các Ông sẽ cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú.

 

"As you say, lord," the monks responded.


– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

Then, as he was wandering by stages in Kasi, the Blessed One eventually arrived at a Kasi town called Kitagiri. And there he stayed in the Kasi town, Kitagiri.


Rồi Thế Tôn tiếp tục du hành ở Kasi và đến một thị trấn xứ Kasi tên là Kitagiri. Rồi Thế Tôn ở tại Kitagiri, một thị trấn xứ Kasi.

 

Now at that time the monks led by Assaji & Punabbasu2 were residing in Kitagiri. Then a large number of monks went to them and, on arrival, said to them, "The Blessed One and the community of monks abstain from the night-time meal. As they are abstaining from the night-time meal, they sense next-to-no illness, next-to-no affliction, lightness, strength, & a comfortable abiding. Come now, friends. You, too, abstain from the night-time meal. As you abstaining from the night-time meal, you, too, will sense next-to-no illness, next-to-no affliction, lightness, strength, & a comfortable abiding."


Lúc bấy giờ Tỷ-kheo Assaji và Punabbasuka đang ở Kitagiri. Rồi một số đông Tỷ-kheo đi đến chỗ Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka như sau:
– Chư Hiền, Thế Tôn từ bỏ ăn ban đêm. Cả chúng Tỷ-kheo cũng vậy. Do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hăy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Chư Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, chư Hiền sẽ cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú.

 

When this was said, the monks led by Assaji & Punabbasu said to those monks, "Friends, we eat in the evening, in the morning, & in the wrong time during the day. As we are eating in the evening, in the morning, & in the wrong time during the day, we sense next-to-no illness, next-to-no affliction, lightness, strength, & a comfortable abiding. Why should we, abandoning what is immediately visible, chase after something subject to time? We will eat in the evening, in the morning, & in the wrong time during the day."


Được nói vậy, Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka, nói với các Tỷ-kheo ấy:
– Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời. Do chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời, chúng tôi cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai ? Chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời.

 

When they were unable to convince the monks led by Assaji & Punabbasu, those monks went to the Blessed One [and told him what had happened].


V́ các Tỷ-kheo ấy không thể làm cho Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka chấp thuận, nên các vị ấy đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn, ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, các Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn:
– Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con đi đến chỗ các Tỷ-kheo Assaji và Punabbasuka, sau khi đến chúng con nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka như sau: "Chư hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm... (như trên)... có sức lực và an trú". Bạch Thế Tôn, được nói vậy. Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka nói với chúng con như sau: "Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời... (như trên)... chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời". Bạch Thế Tôn, v́ chúng con không thể làm cho Tỷ-kheo `Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka chấp thuận, nên chúng con tŕnh sự việc này lên Thế Tôn.

 

Then the Blessed One told a certain monk, "Come, monk. In my name, call the monks led by Assaji & Punabbasu, saying, 'The Teacher calls you, friends.'"


Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:
– Này Tỷ-kheo, hăy đi và nhân danh Ta, bảo Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka: "Bậc Đạo Sư cho gọi các Tôn giả".

 

"As you say, lord," the monk answered and, having gone to the monks led by Assaji & Punabbasu, on arrival he said, "The Teacher calls you, friends."


Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đến chỗ Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka, sau khi đến, nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka:
– Bậc Đạo Sư cho gọi các Tôn giả.

 

"As you say, friend," the monks led by Assaji & Punabbasu replied. Then they went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As they were sitting there, the Blessed One said to them, "Is it true, monks, that a large number of monks went to you ... and you said, '...Why should we, abandoning what is immediately visible, chase after something subject to time? We will eat in the evening, in the morning, & in the wrong time during the day.'"



– Thưa vâng, Hiền giả.
Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka vâng đáp Tỷ-kheo ấy, đi đến chỗ Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tỷ-kheo Assaji và Tỷ-kheo Punabbasuka đang ngồi một bên:
– Có thật chăng, này các Tỷ-kheo, một số đông Tỷ-kheo đến các Ông và nói như sau: "Chư Hiền, Thế Tôn ăn, từ bỏ ăn ban đêm, cả chúng Tỷ-kheo cũng vậy. Do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, các vị ấy cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Chư Hiền, hăy đến và ăn, từ bỏ ăn ban đêm. Chư Hiền, do ăn, từ bỏ ăn ban đêm, chư Hiền sẽ cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú". Được nói vậy, này các Tỷ-kheo, các Ông nói với các Tỷ-kheo ấy như sau: "Chư Hiền, chúng tôi ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời. Do ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời, chúng tôi cảm thấy ít bệnh, ít năo, khinh an, có sức lực và an trú. Sao chúng tôi lại bỏ hiện tại, chạy theo tương lai ? Chúng tôi sẽ ăn chiều, ăn sáng, ăn ban ngày và ăn phi thời"?

 

"Yes, lord."



– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 

"Monks, have you ever understood me to teach the Dhamma in this way: 'Whatever a person experiences — pleasant, painful, or neither-pleasant-nor-painful — his unskillful qualities decrease and his skillful qualities grow'?"



– Này các Tỷ-kheo , các Ông có hiểu pháp Ta dạy như sau: "Một cá nhân cảm thọ bất cứ cảm giác nào, lạc, khổ, hay bất khổ bất lạc; đối với người ấy, các pháp bất thiện được đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng"?

 

"No, lord."



– Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

"And haven't you understood me to teach the Dhamma in this way: 'For someone feeling a pleasant feeling of this sort, unskillful qualities grow and skillful qualities decrease. But there is the case where, for someone feeling a pleasant feeling of that sort, unskillful qualities decrease and skillful qualities grow. For someone feeling a painful feeling of this sort, unskillful qualities grow and skillful qualities decrease. But there is the case where, for someone feeling a painful feeling of that sort, unskillful qualities decrease and skillful qualities grow. For someone feeling a neither-pleasant-nor-painful feeling of this sort, unskillful qualities grow and skillful qualities decrease. But there is the case where, for someone feeling a neither-pleasant-nor-painful feeling of that sort, unskillful qualities decrease and skillful qualities grow.'"



– Này các Tỷ-kheo, các Ông có hiểu pháp Ta dạy như sau: "Ở đây đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng, ở đây, đối với một người khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt; ở đây, đối với một người, khi cảm thọ khổ thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn trừ, các thiện pháp được tăng trưởng, ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt; ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng"?

 

"Yes, lord."



– Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

 

"Good, monks. And if it were not known by me — not seen, not observed, not realized, not touched through discernment — that 'For someone feeling a pleasant feeling of this sort, unskillful qualities grow and skillful qualities decrease,' then would it be fitting for me, not knowing that, to say, 'Abandon that sort of pleasant feeling'?"



Lành thay, này các Tỷ-kheo ! Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy, không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hăy từ bỏ lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta chăng ?

 

"No, lord."



– Thưa không, bạch Thế Tôn.

 

"But because it is known by me — seen, observed, realized, touched through discernment — that 'For someone feeling a pleasant feeling of this sort, unskillful qualities grow and skillful qualities decrease,' I therefore say, 'Abandon that sort of pleasant feeling.'



– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hăy từ bỏ lạc thọ như vậy".

 

"If it were not known by me — not seen, not observed, not realized, not touched through discernment — that 'For someone feeling a pleasant feeling of this sort, unskillful qualities decrease and skillful qualities grow,' then would it be fitting for me, not knowing that, to say, 'Enter & remain in that sort of pleasant feeling'?"



Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy, không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hăy chứng và trú lạc thọ như vậy"?

 

"No, lord."



- Thưa không, bạch Thế Tôn

 

"But because it is known by me — seen, observed, realized, touched through discernment — that 'For someone feeling a pleasant feeling of this sort, unskillful qualities decrease and skillful qualities grow,' I therefore say, 'Enter & remain in that sort of pleasant feeling.'



– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ lạc thọ như vậy, các thiệ? pháp được tăng trưởng, các bất thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hăy chứng và trú lạc thọ như vậy.

 






(Similarly for painful feelings and neither-pleasant-nor-painful feelings.)



Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy, không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người khi cảm giác khổ thọ... (như trên)... khi cảm giác bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hăy từ bỏ bất khổ bất lạc thọ như vậy" ? Và như vậy, này các Tỷ-kheo, là xứng đáng đối với Ta chăng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp được tăng trưởng, các thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hăy từ bỏ bất khổ bất lạc thọ như vậy". Này các Tỷ-kheo, nếu sự việc này Ta không biết, không thấy, không giác, không chứng, không liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các bất thiện pháp bị đoạn diệt, các thiện pháp được tăng trưởng", có thể chăng, này các Tỷ-kheo, không biết như vậy, Ta lại nói: "Hăy chứng và trú bất khổ bất lạc thọ như vậy"? Và như vậy, này các Tỷ-kheo là xứng đáng đối với Ta chăng ?
– Thưa không, bạch Thế Tôn.
– Nhưng này các Tỷ-kheo, v́ rằng sự việc này Ta biết, Ta thấy, Ta giác, Ta chứng, Ta liễu giải với trí tuệ rằng: "Ở đây, đối với một người, khi cảm thọ bất khổ bất lạc thọ như vậy, các thiện pháp được tăng trưởng, các bất thiện pháp bị đoạn diệt", do vậy Ta nói: "Hăy chứng và trú bất khổ bất lạc thọ như vậy".

 

"Monks, I don't say of all monks that they have a task to do with heedfulness; nor do I say of all monks that they have no task to do with heedfulness.



Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng đối với tất cả Tỷ-kheo, có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng đối với tất cả Tỷ-kheo không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"Monks who are arahants, whose mental fermentations are ended, who have reached fulfillment, done the task, laid down the burden, attained the true goal, totally destroyed the fetter of becoming, and who are released through right gnosis: I don't say of them that they have work to do with heedfulness. Why is that? They have done their task with heedfulness. They are incapable of being heedless. But as for monks in higher training, who have not yet reached their hearts' goal, who still aspire for the unexcelled freedom from bondage: I say of them that they have a task to do with heedfulness. Why is that? [I think:] 'Perhaps these venerable ones, when making use of suitable resting places, associating with admirable friends, balancing their [mental] faculties,3 will reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for themselves in the here & now.' Envisioning this fruit of heedfulness for these monks, I say that they have a task to do with heedfulness.



Này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo là bậc A-la-hán, các lậu hoặc đă đoạn tận, tu hành thành măn, các việc nên làm đă làm, đă đặt gánh nặ?g xuống, đă thành đạt được lư tưởng, đă tận trừ hữu kiết sử, chánh trí giải thoát; này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo như vậy, Ta nói rằng không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? V́ sự việc ấy đă được các vị này làm, nhờ không phóng dật. Các vị này không thể trở thành phóng dật. Và này các Tỷ-kheo, đối với các Tỷ-kheo c̣n là các bậc hữu học, tâm chưa thành tựu, đang sống cần cầu sự vô thượng an ổn khỏi các triền ách; này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo như vậy, Ta nói rằng có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi các bậc Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, các vị ấy (cần phải) tự ḿnh nhờ thượng trí chứng ngộ chứng đạt, và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, v́ mục đích này, các Thiện gia nam tử chân chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, đối với những Tỷ-kheo này, v́ thấy quả này của không phóng dật nên Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"Monks, there are these seven individuals to be found in the world. Which seven? One [released] both ways, one released through discernment, a bodily witness, one attained to view, one released through conviction, a Dhamma-follower, and a conviction-follower.



Này các Tỷ-kheo có bảy hạng người sống trong đời này. Thế nào là bảy ? Bậc câu phần giải thoát, bậc tuệ giải thoát, bậc thân chứng, bậc kiến đáo, bậc tín giải thoát, bậc tùy pháp hành, bậc tùy tín hành.

 

"And what is the individual [released] both ways? There is the case where a certain individual remains touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, and — having seen with discernment — his fermentations are ended. This is called an individual [released] both ways.4 Regarding this monk, I do not say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? He has done his task with heedfulness. He is incapable of being heedless.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc câu phần giải thoát ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người, sau khi thân đă chứng đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị này, này các Tỷ-kheo, được gọi là hạng người câu phần giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? V́ sự việc ấy đă được vị này làm, nhờ không phóng dật, vị ấy không có thể trở thành phóng dật.

 

"And what is the individual released through discernment? There is the case where a certain individual does not remain touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, but — having seen with discernment — his fermentations are ended. This is called an individual who is released through discernment.5 Regarding this monk, I do not say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? He has done his task with heedfulness. He is incapable of being heedless.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc tuệ giải thoát ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người, sau khi thân không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, các lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị này như vậy được gọi là bậc tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói không có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? V́ sự việc ấy đă được vị này làm, nhờ không phóng dật; vị ấy không có thể trở thành phóng dật.

 

"And what is the individual who is a bodily witness? There is the case where a certain individual remains touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, and — having seen with discernment — some of his fermentations are ended. This is called an individual who is a bodily witness.6 Regarding this monk, I say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? [I think:] 'Perhaps this venerable one, when making use of suitable resting places, associating with admirable friends, balancing his [mental] faculties, will reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now.' Envisioning this fruit of heedfulness for this monk, I say that he has a task to do with heedfulness.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc thân chứng ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sau khi thân chứng đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn. Vị này như vậy được gọi là bậc thân chứng. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, vị này (cần phải) tự ḿnh với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, v́ mục đích này các Thiện gia nam tử đă chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"And what is the individual attained to view? There is the case where a certain individual does not remain touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, but — having seen with discernment — some of his fermentations are ended, and he has reviewed & examined with discernment the qualities (or: teachings) proclaimed by the Tathagata. This is called an individual who is attained to view.7 Regarding this monk, I say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? [I think:] 'Perhaps this venerable one, when making use of suitable resting places, associating with admirable friends, balancing his [mental] faculties, will reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now.' Envisioning this fruit of heedfulness for this monk, I say that he has a task to do with heedfulness.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là bậc kiến đáo ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sau khi tự thân không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ hoàn toàn; và các pháp do Như Lai tuyên thuyết được vị này thấy một cách hoàn toàn với trí tuệ và thực hành một cách hoàn toàn. Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là kiến đáo. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp ... ... sống không gia đ́nh. Do vậy này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"And what is the individual released through conviction? There is the case where a certain individual does not remain touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, but — having seen with discernment — some of his fermentations are ended, and his conviction in the Tathagata is settled, rooted, and established. This is called an individual who is released through conviction.8 Regarding this monk, I say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? [I think:] 'Perhaps this venerable one, when making use of suitable resting places, associating with admirable friends, balancing his [mental] faculties, will reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now.' Envisioning this fruit of heedfulness for this monk, I say that he has a task to do with heedfulness.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tín giải thoát ? Ở đây, này các Tỷ-kheo có người, sau khi tự thân chứng đắc các tịch tịnh giải thoát vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, một số lậu hoặc của vị này được đoạn trừ một cách hoàn toàn; và ḷng tin của vị này đối với Như Lai đă được xác định, phát sanh từ căn để, an trú. Này các Tỷ kheo, vị này được gọi là bậc tín giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp... ...sống không gia đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"And what is the individual who is a Dhamma-follower? There is the case where a certain individual does not remain touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, nor — having seen with discernment — are his fermentations ended. But with a [sufficient] measure of reflection through discernment he has come to an agreement with the teachings proclaimed by the Tathagata. And he has these qualities: the faculty of conviction, the faculty of persistence, the faculty of mindfulness, the faculty of concentration, & the faculty of discernment. This is called an individual who is a Dhamma-follower.9 Regarding this monk, I say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? [I think:] 'Perhaps this venerable one, when making use of suitable resting places, associating with admirable friends, balancing his [mental] faculties, will reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now.' Envisioning this fruit of heedfulness for this monk, I say that he has a task to do with heedfulness.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người tùy pháp hành ? Ở đây, này các Tỷ-kheo có người sau khi tự thân không chứng đắc các tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không được đoạn trừ một cách hoàn toàn; và các pháp do Như Lai tuyên thuyết (chỉ) được vị này chấp nhận một cách vừa phải với trí tuệ, dầu cho vị này có những pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là người tùy pháp hành. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp... ... sống không gia đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của không phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"And what is the individual who is a conviction-follower? There is the case where a certain individual does not remain touching with his body those peaceful liberations that transcend form, that are formless, nor — having seen with discernment — are his fermentations ended. But he has a [sufficient] measure of conviction in & love for the Tathagata. And he has these qualities: the faculty of conviction, the faculty of persistence, the faculty of mindfulness, the faculty of concentration, & the faculty of discernment. This is called an individual who is a conviction-follower. Regarding this monk, I say that he has a task to do with heedfulness. Why is that? [I think:] 'Perhaps this venerable one, when making use of suitable resting places, associating with admirable friends, balancing his [mental] faculties, will reach & remain in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for himself in the here & now.' Envisioning this fruit of heedfulness for this monk, I say that he has a task to do with heedfulness.



Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người tùy tín hành? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người sau khi tự thân không chứng đắc có tịch tịnh giải thoát, vượt khỏi các sắc pháp và vô sắc pháp, và sau khi đă thấy với trí tuệ, nhưng các lậu hoặc không được đoạn trừ. Nhưng nếu vị này có đủ ḷng tin và ḷng thương Như Lai, thời vị này sẽ có những pháp như là tín căn, tấn căn, niệm căn, định căn, tuệ căn. Này các Tỷ-kheo, vị này được gọi là người tùy tín hành. Này các Tỷ-kheo, đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật. V́ sao vậy ? Dầu cho trong khi Tôn giả này thọ dụng các sàng tọa đúng pháp, thân cận các thiện hữu, chế ngự các căn, nhưng vị này (cần phải) tự ḿnh với thượng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại mục đích vô thượng của Phạm hạnh, v́ mục đích này các Thiện gia nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Do vậy, này các Tỷ-kheo, v́ thấy quả này của phóng dật, nên đối với Tỷ-kheo này, Ta nói có sự việc cần phải làm, nhờ không phóng dật.

 

"Monks, I do not say that the attainment of gnosis is all at once. Rather, the attainment of gnosis is after gradual training, gradual action, gradual practice. And how is there the attainment of gnosis after gradual training, gradual action, gradual practice? There is the case where, when conviction has arisen, one visits [a teacher]. Having visited, one grows close. Having grown close, one lends ear. Having lent ear, one hears the Dhamma. Having heard the Dhamma, one remembers it. Remembering, one penetrates the meaning of the teachings. Penetrating the meaning, one comes to an agreement through pondering the teachings. There being an agreement through pondering the teachings, desire arises. When desire has arisen, one is willing. When one is willing, one contemplates. Having contemplated, one makes an exertion. Having made an exertion, one realizes with the body the ultimate truth and, having penetrated it with discernment, sees it.10



Này các Tỷ-kheo, Ta không nói rằng trí tuệ được hoàn thành lập tức. Nhưng này các Tỷ-kheo, trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là trí tuệ được hoàn thành nhờ học từ từ, hành từ từ, thực tập từ từ ? Ở đây, này các Tỷ-kheo, một vị có ḷng tin đi đến gần; sau khi đến gần, vị ấy tỏ sự kính lễ; sau khi tỏ sự kính lễ, vị ấy lóng tai; sau khi lóng tai, vị ấy nghe pháp; sau khi nghe pháp, vị ấy thọ tŕ pháp, vị ấy suy tư ư nghĩa các pháp được thọ tŕ; sau khi suy tư ư nghĩa các pháp được chấp thuận; sau khi các pháp được chấp thuận, ước muốn sanh khởi; sau khi ước muốn sanh khởi, vị ấy nỗ lực; sau khi nỗ lực vị ấy cân nhắc; sau khi cân nhắc, vị ấy tinh cần. Do tinh cần, vị ấy tự thân chứng được sự thật tối thượng, và với trí tuệ thể nhập sự thật ấy, vị ấy thấy.

 

"Now, monks, there hasn't been that conviction, there hasn't been that visiting, there hasn't been that growing close ... that lending ear ... that hearing of the Dhamma ... that remembering ... that penetration of the meaning of the teachings ... that agreement through pondering the teachings ... that desire ... that willingness ... that contemplation ... that exertion. You have lost the way, monks. You have gone the wrong way, monks. How far have you strayed, foolish men, from this Dhamma & Discipline!



Nhưng này các Tỷ-kheo, nếu không có ḷng tin ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự đến gần ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có tỏ sự kính lễ ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự lóng tai ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nghe pháp ấy, thời này Tỷ-kheo, không có sự thọ tŕ pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự suy tư ư nghĩa ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự chấp thuận pháp ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự ước muốn ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự nỗ lực ấy, thời này các Tỷ-kheo, không có sự cân nhắc ấy, thời này các Tỷ-kheo không có sự tinh cần ấy. Này các Tỷ kheo, ở đây, các Ông đă đi vào phi đạo. Này các Tỷ-kheo, ở đây, các Ông đă đi vào tà đạo. Thật là quá xa, này các Tỷ-kheo, các kẻ ngu này đă đi ra ngoài pháp luật này.

 

"Monks, there is a four-phrased statement that, when it is recited, a wise man will in no long time learn the meaning through discernment. I will recite it, and you learn it from me."



Này các Tỷ-kheo, có sự thuyết tŕnh gồm có bốn phần (Catuppadam = Bốn cú) chính nhờ thuyết tŕnh này người có trí, không bao lâu, nhờ tuệ biết được ư nghĩa. Ta sẽ đọc sự thuyết tŕnh ấy lên cho các Ông, này các Tỷ-kheo, các Ông nhờ Ta mà sẽ hiểu thuyết tŕnh ấy.

 

"But, lord, who are we to be learners of the Dhamma?"



– Bạch Thế Tôn, chúng con là ai có thể biết được pháp ?

 

"Monks, even with a teacher devoted to material things, an heir of material things, who lives attached to material things, this sort of haggling [by his students] wouldn't be proper: 'If we get this, we'll do it; if we don't, we won't.' So how could it be with regard to the Tathagata, who dwells entirely detached from material things.



– Này các Tỷ-kheo, cho đến một bậc Đạo sư sống quá trọng vọng tài vật, là vị thừa tự tài vật, và sống liên hệ với tài vật, thời sự mua may bán đắt này không xảy ra: "Chúng tôi sẽ làm việc này như vậy, và như vậy chúng tôi sẽ không làm việc này như vậy", huống nữa là Như Lai, này các Tỷ-kheo, là vị sống hoàn toàn không liên hệ với các tài vật.

 

"For a disciple who has conviction in the Teacher's message & lives to penetrate it, what accords with the Dhamma is this: 'The Blessed One is the Teacher, I am a disciple. He is the one who knows, not I.' For a disciple who has conviction in the Teacher's message & lives to penetrate it, the Teacher's message is healing & nourishing. For a disciple who has conviction in the Teacher's message & lives to penetrate it, what accords with the Dhamma is this: 'Gladly would I let the flesh & blood in my body dry up, leaving just the skin, tendons, & bones, but if I have not attained what can be reached through human firmness, human persistence, human striving, there will be no relaxing my persistence.' For a disciple who has conviction in the Teacher's message & lives to penetrate it, one of two fruits can be expected: either gnosis here & now, or — if there be any remnant of clinging-sustenance — non-return."



Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử, có ḷng tin giáo pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp (anudhamma) được khởi lên: "Bậc Đạo sư là Thế Tôn, đệ tử là tôi. Thế Tôn biết, tôi không biết". Này các Tỷ-kheo, đến với một đệ tử, có ḷng tin giáo pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời giáo pháp bậc Đạo sư được hưng thịnh được nhiều sinh lực. Này các Tỷ-kheo, đối với đệ tử có ḷng tin giáo pháp bậc Đạo Sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, thời tùy pháp này được khởi lên: "Dầu chỉ c̣n da, gân và xương, dầu thịt và máu trên thân bị khô héo, mong rằng sẽ có tinh tấn lực để chứng đắc những ǵ chưa chứng đắc, nhờ trượng phu nhẫn nại, nhờ trượng phu tinh tấn, nhờ trượng phu cần dơng". Này các Tỷ-kheo, đối với một đệ tử có ḷng tin giáo pháp bậc Đạo sư và sống thể nhập giáo pháp ấy, vị ấy sẽ chứng được một trong hai quả như sau: Chánh trí ngay trong hiện tại, và nếu có dư y, chứng quả Bất hoàn.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.



Thế Tôn thuyết như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

1. Pacittiya 37 forbids monks from eating during the period from noon until the following dawn. According to MN 66, the Buddha introduced this restriction in stages, first forbidding the afternoon meal, and then the night-time meal.

2. Assaji and Punabbasu were two of the six ringleaders of the notorious "group-of-six" monks, whose misbehavior led to the formulation of many rules in the Vinaya. (The group is named after the number of ringleaders, not the number of members, which — according to the Commentary — reached more than one thousand.) In the origin story to Sanghadisesa 13, the monks led by Assaji and Punabbasu behaved in many inappropriate ways to please the lay families of Kitagiri, to the point where the Kitagiri lay people ridiculed well-behaved monks and refused to give them alms.

The Pali phrase for "monks led by Assaji and Punabbasu" is assaji-punabbusakaa bhikkhuu. Both The Middle-Length Sayings (Horner, trans.) and The Middle Length Discourses of the Buddha (Ñanamoli/Bodhi, trans.) mistakenly treat this phrase as the names of two monks, Assaji and Punabbasuka. Actually, the -kaa at the end of the name is a suffix that converts it into an adjective, describing a group following Assaji and Punabbasu.

3. On the mental faculties, see SN 48.10

4. See AN 9.45.

5. See AN 9.44.

6. See AN 9.43. According to the Commentary, this category includes all noble ones (except for those who have reached the fruit of arahantship) who have also attained any of the formless dimensions.

7, 8. According to the Commentary, this category and the following one include all noble ones (except for those who have reached the fruit of arahantship) who have not attained any of the formless dimensions.

9. According to the Commentary, this category and the following one include those who have reached the path to stream-entry, but not yet the fruit of stream-entry.

10. The steps of the practice, as presented here, follow the same sequence as that discussed in MN 95. However, in that sutta, the sequence is prefaced by instructions on how to determine whether a teacher is worthy of conviction.

See also: MN 27; MN 95; SN 48.44; AN 3.65

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |