I have heard that:
On one occasion Ven. Ananda was staying near Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels' Sanctuary, not long after the Blessed One's total Unbinding.




Như vầy tôi nghe.
Một thời Tôn giả Ananda trú ở Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), chỗ nuôi dưỡng các con sóc, sau khi Thế Tôn thị tịch không bao lâu.

 

Now at that time King Ajatasattu Vedehiputta of Magadha, suspicious of King Pajjota, was having Rajagaha fortified.



Lúc bấy giờ, Vua Ajatasattu con bà Videhi nước Magadha (Ma-kiệt-đà), v́ nghi ngờ Pajjota (Đăng Quang Vương), nên cho xây kiên cố thành Rajagaha.

 

Then in the early morning, Ven. Ananda, having put on his robes and carrying his bowl and outer robe, went into Rajagaha for alms. The thought occurred to him, "It's too early to go for alms in Rajagaha. What if I were to go to the brahman Moggallana the Guardsman at his construction site?" So he went to Moggallana the Guardsman at his construction site. Moggallana the Guardsman saw him coming from afar, and on seeing him said to him, "Come, Master Ananda. Welcome, Master Ananda. It has been a long time since Master Ananda has found the time to come here. Sit down, Master Ananda. Here is a seat made ready for you."



Tôn giả Ananda buổi sáng đắp y, cầm y bát đi vào Rajagaha để khất thực. Rồi Tôn giả Ananda suy nghĩ: "Nay c̣n quá sớm để vào Rajagaha khất thực. Vậy ta hăy đi đến Bà-la-môn Gopaka Moggallana và chỗ làm việc của vị này". Rồi Tôn giả Ananda đi đến Bà-la-môn Gopaka Moggallana và chỗ làm việc của vị này. Bà-la-môn Gopaka Moggallana thấy Tôn giả Ananda từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Tôn giả Ananda :
– Hăy đến, Tôn giả Ananda ! Thiện lai, Tôn giả Ananda ! Đă lâu rồi Tôn giả Ananda mới tạo được cơ hội này, tức là đến đây. Tôn giả Ananda hăy ngồi xuống, đây là chỗ ngồi đă soạn sẵn.

 

So Ven. Ananda sat down on the seat made ready. Moggallana the Guardsman, taking a lower seat, sat to one side.



Tôn giả Ananda ngồi xuống trên chỗ ngồi đă soạn sẵn. C̣n Bà-la-môn Gopaka Moggallana chọn một chỗ ngồi thấp khác rồi ngồi xuống một bên.

 

As he was sitting there, he said to Ven. Ananda: "Master Ananda, is there any one monk endowed in each & every way with the qualities with which Master Gotama — worthy & rightly self-awakened — was endowed?"



Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Gopaka Moggallana thưa với Tôn giả Ananda :
– Có thể chăng, một Tỷ-kheo thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Tôn giả Gotama bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă thành tựu ?

 

"No, brahman, there isn't any one monk endowed in each & every way with the qualities with which the Blessed One — worthy & rightly self-awakened — was endowed. For the Blessed One was the arouser of the unarisen path, the begetter of the unbegotten path, the expounder of the unexpounded path, the knower of the path, the expert with regard to the path, adept at the path. And now his disciples follow the path and become endowed with it after him."



Không thể có một Tỷ-kheo, này Bà-la-môn, thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói. là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và nay các đệ tử là những vị sống hành đạo và tùy hành, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau.

 

And then Ven. Ananda's discussion with Moggallana the Guardsman was interrupted in mid-course, for the brahman Vassakara, the Magadhan administrator, on an inspection tour of the construction sites in Rajagaha, went to Ven. Ananda at Moggallana the Guardsman's construction site. On arrival, he exchanged courteous greetings with Ven. Ananda. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. Ananda, "Just now, for what discussion were you sitting together when you were interrupted in mid-course?"



Nhưng cuộc nói chuyện giữa Tôn giả Ananda và Bà-la-môn Gopaka Moggallana bị gián đoạn. Bà-la-môn Vassaka ra bậc đại thần nước Magadha đi thị sát các công sự Rajagaha (Vương Xá), đến công trường của Bà-la-môn Gopaka Moggallana, đến chỗ Tôn giả Ananda; sau khi đến, nói lên với Tôn giả Ananda những lời chào đón hỏi thăm; sau khi nói lên những lời chào đón hỏi thăm thân hữu ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Vassaka ra, bậc đại thần nước Magadha thưa với Tôn giả Ananda :
– Ở đây, thưa Tôn giả Ananda, Tôn giả đang ngồi đàm luận câu chuyện ǵ ? Và câu chuyện ǵ của Tôn giả bị gián đoạn ?

 

"Just now, brahman, Moggallana the Guardsman said to me, 'Master Ananda, is there any one monk endowed in each & every way with the qualities with which Master Gotama — worthy & rightly self-awakened — was endowed?' And when this was said, I said to him, 'No, brahman, there isn't any one monk endowed in each & every way with the qualities with which the Blessed One — worthy & rightly self-awakened — was endowed. For the Blessed One was the arouser of the unarisen path, the begetter of the unbegotten path, the expounder of the unexpounded path, the knower of the path, the expert with regard to the path, adept at the path. And now his disciples follow the path and become endowed with it after him.' This was my discussion with the brahman Moggallana the Guardsman that was interrupted in mid-course when you arrived."



– Này Bà-la-môn, ở đây, Bà-la-môn Gopaka Moggallana nói với tôi như sau : "Có thể có chăng, Tôn giả Ananda, một Tỷ-kheo thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Tôn giả Gotama, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă thành tựu ?" Khi được nói vậy, này Bà-la-môn, tôi nói với Bà-la-môn Gopaka Moggallana như sau: "Này Bà-la-môn, không thể có một vị Tỷ-kheo nào thành tựu một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ tất cả các pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă thành tựu. Này Bà-la-môn, Thế Tôn là bậc làm khởi dậy con đường trước đây chưa được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói, là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và các đệ tử Ngài là những vị sống hành đạo và tùy hành đạo và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau".

 

"Master Ananda, is there any one monk appointed by Master Gotama [with the words], 'He will be your arbitrator after I am gone,' to whom you now turn?"



– Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này".

 

"No, brahman. There isn't any one monk appointed by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — [with the words] 'He will be your arbitrator after I am gone,' to whom we now turn."



– Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán Chánh Đẳng Giác sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông sẽ y chỉ vị này".

 

"Then is there any one monk authorized by the Sangha and appointed by a large body of elder monks [with the words], 'He will be our arbitrator after the Blessed One is gone,' to whom you now turn?"



– Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lăo sắp đặt : "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này ?"

 

"No, brahman. There isn't any one monk authorized by the Sangha and appointed by a large body of elder monks [with the words] 'He will be our arbitrator after the Blessed One is gone,' to whom we now turn."



– Không có một vị Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn, được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lăo sắp đặt: "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này".

 

"Being thus without an arbitrator, Master Ananda, what is the reason for your concord?"



– Và như vậy là không có chỗ nương tựa, thưa Tôn giả Ananda, như vậy do nhân ǵ (Quư vị) có thể ḥa hợp ?

 

"It's not the case, brahman, that we're without an arbitrator. We have an arbitrator. The Dhamma is our arbitrator."



Này Bà-la-môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa. Này Bà-la-môn, chúng tôi có chỗ nương tựa, và Pháp là chỗ nương tựa của chúng tôi.

 

"When asked, 'Master Ananda, is there any one monk appointed by Master Gotama [with the words], "He will be your arbitrator after I am gone," to whom you now turn?' you said, 'No, brahman. There isn't any one monk appointed by the Blessed One... to whom we now turn.'



Khi được hỏi : "Có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông, và các Ông nay sẽ y chỉ vị này ?"", Tôn giả trả lời : "Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác sắp đặt: "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông", và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này".

 

"When asked, 'Then is there any one monk authorized by the Sangha... to whom you now turn?' you said, 'No, brahman. There isn't any one monk authorized by the Sangha... to whom we now turn.'



Khi được hỏi : "Có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận và một số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lăo sắp đặt : "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, các Ông nay sẽ y chỉ vị này". Và Tôn giả trả lời : "Không có một vị Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn được chúng Tăng thỏa thuận và được số đông các vị Tỷ-kheo Trưởng lăo sắp đặt : "Vị này, sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi, và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này".

 

"When asked, 'Being thus without an arbitrator, Master Ananda, what is the reason for your concord?' you said, 'It's not the case, brahman, that we're without an arbitrator. We have an arbitrator. The Dhamma is our arbitrator.' Now how is the meaning of what you have said to be understood?"



Khi được hỏi : "Và như vậy là không có chỗ nương tựa, thưa Tôn giả Ananda, như vậy do nhân ǵ, (Quư vị) có thể ḥa hợp ?". Tôn giả trả lời : "Này Bà-la-môn, chúng tôi không phải không có chỗ nương tựa. Chúng tôi có chỗ nương tựa này Bà-la-môn, và Pháp là chỗ nương tựa của chúng tôi". Nhưng thưa Tôn giả Ananda, ư nghĩa lời nói này cần phải hiểu như thế nào ?

 

"Brahman, there is a training rule laid down by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened — a Patimokkha that has been codified. On the uposatha day, all of us who live dependent on a single township gather together in one place. Having gathered together, we invite the one to whom it falls [to recite the Patimokkha]. If, while he is reciting, a monk remembers an offense or transgression, we deal with him in accordance with the Dhamma, in accordance with what has been instructed. We're not the ones who deal with that venerable one. Rather, the Dhamma is what deals with us."



– Này Bà-la-môn, Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă thi thiết học pháp, đă tuyên bố giới bổn Patimokkha cho các Tỷ-kheo. Trong những ngày Bố-tát (Uposatha) chúng tôi cận trú ở chung một thôn điền, tất cả chúng tôi hội họp với nhau tại một chỗ; sau khi tụ họp, chúng tôi hỏi những ǵ đă xảy ra cho mỗi một người. Nếu trong khi hỏi nhau như vậy, có Tỷ-kheo phạm tội, phạm giới, chúng tôi bảo vị ấy làm đúng Pháp, đúng lời dạy. Thật vậy, không phải các Tôn giả xử sự chúng tôi, chính pháp xử xự chúng tôi.

 

"Is there, Master Ananda, any one monk you now honor, respect, revere, & venerate, on whom — honoring & respecting — you live in dependence?"



– Thưa Tôn giả Ananda, có Tỷ-kheo nào mà nay Quư vị cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, sau khi cung kính, tôn trọng, Quư vị nương tựa ?

 

"Yes, brahman, there is a monk we now honor, respect, revere, & venerate, on whom — honoring & respecting — we live in dependence."



– Này Bà-la-môn, có Tỷ-kheo mà nay chúng tôi cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường, và sau khi chúng tôi cung kính, tôn trọng, chúng tôi nương tựa.

 

"When asked, 'Master Ananda, is there any one monk appointed by Master Gotama [with the words], "He will be your arbitrator after I am gone," to whom you now turn?' you said, 'No, brahman. There isn't any one monk appointed by the Blessed One... to whom we now turn.'



– Thưa Tôn giả Ananda, khi được hỏi : "Có một vị Tỷ-kheo nào được Tôn giả Gotama sắp đặt : "Sau khi Ta diệt độ, vị này sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông và các Ông nay sẽ y chỉ vị này ?"". Và Tôn giả trả lời : "Này Bà-la-môn, không có một vị Tỷ-kheo nào được Thế Tôn bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác sắp đặt : "Vị này, sau khi Ta diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho các Ông", và chúng tôi nay y chỉ vị này".

 

"When asked, 'Then is there any one monk authorized by the Sangha... to whom you now turn?' you said, 'No, brahman. There isn't any one monk authorized by the Sangha... to whom we now turn.'



Khi được hỏi : "Thưa Tôn giả Ananda, có một vị Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận, được một số đông Tỷ-kheo Trưởng lăo sắp đặt : "Vị này sau khi Thế Tôn diệt độ, sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi và các Ông nay sẽ y chỉ vị này", và Tôn giả trả lời : "Không có một Tỷ-kheo nào được chúng Tăng thỏa thuận, được một số đông Tỷ-kheo Trưởng lăo sắp đặt : "Vị này sau khi Thế Tôn diệt độ sẽ là chỗ nương tựa cho chúng tôi", và chúng tôi nay sẽ y chỉ vị này".

 

"When asked, 'Is there, Master Ananda, any one monk you now honor, respect, revere, & venerate, on whom — honoring & respecting — you live in dependence?' you said, 'Yes, brahman, there is a monk we now honor, respect, revere, & venerate, on whom — honoring & respecting — we live in dependence.' Now how is the meaning of what you have said to be understood?"



Khi được hỏi : "Có một Tỷ-kheo nào, thưa Tôn giả Ananda, nay quư vị cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy và sau khi cung kính, tôn trọng, quư vị an trú nương tựa vị ấy ?", và Tôn giả trả lời : "Này Bà-la-môn, có Tỷ-kheo, chúng tôi cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường và sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú nương tựa vị ấy". Thưa Tôn giả Ananda, ư nghĩa lời nói ấy cần phải hiểu như thế nào ?

 

"Brahman, there are ten inspiring qualities expounded by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened. In whoever among us those ten qualities are found, we now honor, respect, revere, & venerate him; honoring & respecting him, we live in dependence on him. Which ten?



– Này Bà-la-môn, có mười khả hỷ pháp được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác tuyên bố. Giữa chúng tôi, vị nào có đầy đủ mười pháp này, chúng tôi nay cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường vị ấy; sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy. Thế nào là mười ?

 

[1] "There is the case where a monk is virtuous. He dwells restrained in accordance with the Patimokkha, consummate in his behavior & sphere of activity. He trains himself, having undertaken the training rules, seeing danger in the slightest faults.



Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo có giới hạnh, sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Patimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy sự nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, sau khi thọ tŕ, học tập trong các học pháp.

 

[2] "He has heard much, has retained what he has heard, has stored what he has heard. Whatever teachings are admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end, that — in their meaning & expression — proclaim the holy life entirely perfect & pure: those he has listened to often, retained, discussed, accumulated, examined with his mind, and well-penetrated in terms of his views.



Vị ấy là bậc đa văn, thọ tŕ những điều đă nghe, cất chứa những điều đă nghe; những pháp nào sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, với nghĩa, với văn, nói lên Phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh, những pháp ấy đều được nghe nhiều, được thọ tŕ, được lời nói làm cho quen thuộc, được ư tư niệm, được chánh kiến khéo ngộ nhập.

 

[3] "He is content with robes, alms food, lodgings, & medicinal requisites for curing the sick.



Vị ấy biết đủ đối với các vật thực dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, dược phẩm trị bệnh.

 

[4] "He attains — whenever he wants, without strain, without difficulty — the four jhanas that are heightened mental states, pleasant abidings in the here-&-now.



Vị ấy là người tùy theo ư muốn, không có khó khăn, không có mệt nhọc, chứng được bốn Thiền, thuộc tăng thượng tâm hiện tại lạc trú.

 

[5] "He experiences manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, & mountains as if through space. He dives in & out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting crosslegged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches & strokes even the sun & moon, so mighty & powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds.



Vị ấy thực hiện các loại thần thông sai biệt, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện h́nh, biến h́nh đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang hư không; độn thổ trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không ch́m như trên đất liền; ngồi kiết- già đi trên hư không như chim có cánh; với bàn tay, vị ấy chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến Phạm thiên.

 

[6] "He hears — by means of the divine ear-element, purified & surpassing the human — both kinds of sounds: divine & human, whether near or far.



Với Thiên nhĩ thần tịnh siêu nhân, Vị ấy nghe được tiếng của Chư Thiên và loài người dù gần hay xa.

 

[7] "He knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion. He discerns a mind with aversion as a mind with aversion, and a mind without aversion as a mind without aversion. He discerns a mind with delusion as a mind with delusion, and a mind without delusion as a mind without delusion. He discerns a restricted mind as a restricted mind, and a scattered mind as a scattered mind. He discerns an enlarged mind as an enlarged mind, and an unenlarged mind as an unenlarged mind. He discerns an excelled mind [one that is not at the most excellent level] as an excelled mind, and an unexcelled mind as an unexcelled mind. He discerns a concentrated mind as a concentrated mind, and an unconcentrated mind as an unconcentrated mind. He discerns a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind.



Sau khi đi sâu vào tâm chúng sanh, tâm loài Người với tâm của ḿnh, vị ấy được biết như sau: Tâm có tham, biết tâm có tham. Tâm không tham, biết tâm không tham. Tâm có sân, biết tâm có sân. Tâm không sân, biết tâm không sân. Tâm có si, biết tâm có si. Tâm không si, biết tâm không si. Tâm chuyên chú, biết tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết tâm tán loạn. Đại hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải đại hành tâm, biết không phải đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, biết tâm vô thượng. Tâm Thiền định, biết tâm Thiền định. Tâm không Thiền định, biết tâm không Thiền định. Tâm giải thoát, biết tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết tâm không giải thoát.

 

[8] "He recollects his manifold past lives (lit: previous homes), i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction & expansion, [recollecting], 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he remembers his manifold past lives in their modes & details.



Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

 

[9] "He sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, & mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — he sees beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma.



Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. .

 

[10] "Through the ending of the mental fermentations, he remains in the fermentation-free awareness-release & discernment-release, having known & made them manifest for himself right in the here & now.



Với sự đoạn diệt các lậu hoặc, sau khi với thượng trí đă chứng ngộ, vị ấy chứng đạt và an trú ngay trong hiện tại vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát.

 

"These, brahman, are the ten inspiring qualities expounded by the Blessed One — the one who knows, the one who sees, worthy & rightly self-awakened. In whoever among us these ten qualities are found, we now honor, respect, revere, & venerate him; honoring & respecting him, we live in dependence on him."



Này Bà-la-môn, mười pháp khả hỷ này đă được Thế Tôn, bậc Tri Giả, Kiến Giả, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác nói lên giữa chúng tôi. Vị nào có đầy đủ mười pháp này, chúng tôi nay cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường vị ấy; sau khi cung kính, tôn trọng, chúng tôi an trú, nương tựa vị ấy.

 

When this was said, the brahman Vassakara, the Magadhan administrator, turned to General Upananda and said, "What do you think, general? Do these venerable ones honor what should be honored, respect what should be respected, revere what should be revered, venerate what should be venerated? Of course they honor what should be honored, respect what should be respected, revere what should be revered, venerate what should be venerated. For if they did not honor, respect, revere, or venerate a person like this, then what sort of person would they honor, respect, revere, & venerate; on what sort of person, honor & respecting, would they live in dependence?"



Khi nghe nói vậy, Bà-la-môn Vassakara, (Vũ Thế) đại thần nước Magadha, nói với tướng quân Upananda :
– Tướng quân nghĩ thế nào ? Nếu là như vậy, này tướng quân, những vị Tôn giả này cung kính những ai đáng cung kính, tôn trọng những ai đáng tôn trọng, lễ bái những ai đáng lễ bái, cúng dường những ai đáng cúng dường; thời chắc chắn những Tôn giả này cung kính những ai đáng cung kính, tôn trọng những ai đáng tôn trọng, lễ bái những ai đáng lễ bái, cúng dường những ai đáng cúng dường. Và nếu những Tôn giả ấy không cung kính, không tôn trọng, không lễ bái, không cúng dường (Tỷ-kheo) này, thời những Tôn giả ấy cung kính, tôn trọng, lễ bái, cúng dường ai ?

 

Then the brahman Vassakara, the Magadhan administrator, said to Ven. Ananda, "But where are you staying now, Master Ananda?"



Rồi Bà-la-môn Vassakara, vị đại thần nước Magadha thưa với Tôn giả Ananda :
– Tôn giả Ananda nay trú tại đâu ?

 

"I am now staying at the Bamboo Grove, brahman."



– Này Bà-la-môn, tôi trú ở Veluvana (Trúc Lâm).

 

"I trust, Master Ananda, that the Bamboo Grove is delightful, quiet, free of noise, with an air of isolation, remote from human beings, & appropriate for retreat."



– Thưa Tôn giả Ananda, có phải Veluvana là một chỗ khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi gió, xa lánh dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh ?

 

"Certainly, brahman, the Bamboo Grove is delightful, quiet, free of noise, with an air of isolation, remote from human beings, & appropriate for retreat because of guardians & protectors like yourself."



– Thật vậy, này Bà-la-môn, Veluvana (Trúc Lâm) là một khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi gió, xa cách dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh, xứng đáng với những vị hộ tŕ và thủ hộ như Ngài.

 

"Certainly, Master Ananda, the Bamboo Grove is delightful, quiet, free of noise, with an air of isolation, remote from human beings, & appropriate for retreat because of venerable ones who are endowed with mental absorption (jhana), who make mental absorption their habit. You venerable ones are both endowed with mental absorption & make mental absorption your habit.



Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda, Veluvana là một chỗ khả ái, ít tiếng động, ít tiếng ồn, được che khỏi gió, xa lánh dân cư đông đúc, thích hợp Thiền tịnh, xứng đáng với những người tu Thiền và tánh thiên về Thiền định như quư vị Tôn giả. Và chư vị Tôn giả là những vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định.

 

"Once, Ven. Ananda, Master Gotama was staying near Vesali in the Peaked Roofed Pavilion in the Great Wood. I went to him at the Peaked Roofed Pavilion in the Great Wood, and there he spoke in a variety of ways on mental absorption. Master Gotama was both endowed with mental absorption & made mental absorption his habit. In fact, he praised mental absorption of every sort."



Thưa Tôn giả Ananda, một thời Tôn giả Gotama ở tại Vesali, Đại Lâm, ở Kutagarasala (Trùng Các giảng đường). Rồi thưa Tôn giả Ananda, tôi đi đến Mahavana (Đại Lâm), Kutagarasala, đến Tôn giả Gotama. Ở đấy, Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện nói về Thiền định luận. Tôn giả Gotama thật là vị tu Thiền và tánh thiên về Thiền định. Và Tôn giả Gotama tán thán tất cả Thiền định.

 

"It wasn't the case, brahman, that the Blessed One praised mental absorption of every sort, nor did he criticize mental absorption of every sort. And what sort of mental absorption did he not praise? There is the case where a certain person dwells with his awareness overcome by sensual passion, seized with sensual passion. He does not discern the escape, as it actually is present, from sensual passion once it has arisen. Making that sensual passion the focal point, he absorbs himself with it, besorbs, resorbs, & supersorbs himself with it.



– Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán tất cả Thiền định, không không tán thán tất cả Thiền định. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy không tán thán ? Ở đây, này Bà-la-môn, một số vị sống với tâm thấm nhuần dục tham, bị dục tham chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi dục tham đă được khởi lên. Vị ấy lấy dục tham làm đối tượng tối hậu. Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

 

"He dwells with his awareness overcome by ill will...



Vị ấy sống với tâm thấm nhuần sân hận, bị sân hận chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi sân hận đă được khởi lên. Vị ấy lấy sân hận làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

 

"He dwells with his awareness overcome by sloth & drowsiness...



Vị ấy sống với tâm thấm nhuần hôn trầm thụy miên, bị hôn trầm thụy miên chi phối, và không như thật biết sự giải thoát khỏi hôn trầm thụy miên đă được khởi lên. Vị ấy lấy hôn trầm thụy miên làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

 

"He dwells with his awareness overcome by restlessness & anxiety...



Vị ấy sống với tâm thấm nhuần trạo hối, bị trạo hối chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi tạo hối đă được khởi lên. Vị ấy lấy trạo hối làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

 

"He dwells with his awareness overcome by uncertainty, seized with uncertainty. He does not discern the escape, as it actually is present, from uncertainty once it has arisen. Making that uncertainty the focal point, he absorbs himself with it, besorbs, resorbs, & supersorbs himself with it. This is the sort of mental absorption that the Blessed One did not praise.



Vị ấy sống với tâm thấm nhuần nghi hoặc, bị nghi hoặc chi phối và không như thật biết sự giải thoát khỏi nghi hoặc đă được khởi lên. Vị ấy lấy nghi hoặc làm đối tượng tối hậu, Thiền tu, Thiền tư, Thiền định, Thiền nhập.

 

"And what sort of mental absorption did he praise? There is the case where a monk — quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful (mental) qualities — enters & remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. With the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of concentration, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. With the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain. This is the sort of mental absorption that the Blessed One praised.



Này Bà-la-môn, Thế Tôn ấy không tán thán loại Thiền định như vậy. Và này Bà-la-môn, loại Thiền định nào Thế Tôn ấy tán thán ? Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly dục, ly bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Diệt tầm và tứ, vị ấy chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tỉnh nhất tâm, chứng và trú Thiền thứ ba, Thiền thứ tư. Này Bà-la-môn, loại Thiền như vậy, Thế Tôn ấy tán thán.

 

"It would seem, Ven. Ananda, that Master Gotama criticized the mental absorption that deserves criticism, and praised that which deserves praise.



– Thật vậy, thưa Tôn giả Ananda, Tôn giả Gotama khiển trách Thiền đáng được khiển trách, tán thán Thiền đáng được tán thán.

 

"Well, now, Master Ananda, I must be going. Many are my duties, many the things I must do."



Nay thưa Tôn giả Ananda, chúng tôi phải đi. Chúng tôi có những việc, có nhiều phận sự phải làm.

 

"Then do, brahman, what you think it is now time to do."



– Này Bà-la-môn, hăy làm ǵ Bà-la-môn nghĩ là hợp thời.

 

So the brahman Vassakara, the Magadhan administrator, delighting & rejoicing in what Ven. Ananda had said, got up from his seat & left.



Rồi Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha, hoan hỷ tín thọ lời Tôn giả Ananda giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và ra đi.

 

Then, not long after he had left, Moggallana the Guardsman said to Ven. Ananda, "Master Ananda, you still haven't answered what I asked you."



Rồi Bà-la-môn Gopaka Moggalana, khi Bà-la-môn Vassakara, đại thần nước Magadha đi không bao lâu, thưa với Tôn giả Ananda :
– Nếu chúng tôi không hỏi Tôn giả Ananda thời Tôn giả Ananda đă không trả lời.

 

"Didn't I just tell you, brahman? There isn't any one monk endowed in each & every way with the qualities with which the Blessed One — worthy & rightly self-awakened — was endowed. For the Blessed One was the arouser of the unarisen path, the begetter of the unbegotten path, the expounder of the unexpounded path, the knower of the path, the expert with regard to the path, adept at the path. And now his disciples follow the path and become endowed with it after him."



– Này Bà-la-môn, có phải chúng tôi đă nói với Ông: "Không có một Tỷ-kheo nào, này Bà-la-môn, thành tựu mười pháp ấy một cách trọn vẹn, một cách đầy đủ, những pháp mà Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác đă thành tựu. Này Bà-la-môn, vị Thế Tôn ấy là bậc làm cho khởi dậy con đường trước đây chưa từng được hiện khởi, làm cho biết con đường trước đây chưa từng được biết, nói lên con đường trước đây chưa từng được nói; là bậc hiểu đạo, biết đạo và thiện xảo về đạo. Và nay các đệ tử Ngài là những vị sống hành đạo và tùy hành đạo, và sẽ thành tựu (những pháp ấy) về sau".

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |