Phẩm 11: Già Yếu - Phẩm Già Yếu (Jaraa Vagga) - Kệ ngôn 146
    
                                                      Lãng quên thân phận
Sao mãi cười, hân hoan
Khi đời đầy nhiệt não
Bóng tối phủ trần gian
Ðâu ngọn đèn tỏ rạng?

Ko nu haaso kimaanando
nicca.m pajjalite sati
Andhakaarena onaddhaa
padiipa.m na gavessatha


Duyên Sự
Một số mệnh phụ phu nhân đi chùa cùng với đại tín nữ Visàkhà. Những người nầy vì ưa thích uống rượu nên một lần say sưa khi vào pháp hội nghe Phật thuyết pháp. Tệ hại hơn nữa, một quyến thuộc của ma vương nhập vào họ khiến những người nầy có những cử chỉ lố lăng. Ðức Thế Tôn dùng Phật lực đẩy lùi ma chướng và huấn thị họ. Sau đó Ngài dại kệ ngôn trên.

Câu hỏi: Tai sao con người có các căn tánh khác nhau và người hay tham ái thì có tánh tham luyến người tham luyến cảnh và có đức tin cái gì cũng tin ai cũng tin. Có phải là do hoàn cảnh gia đình, hoàn cảnh xã hội hay do tích luỹ từ nhiều đời nhiều kiếp chồng chất đến kiếp này không? Có phải những người có đức tin tánh tham ái luôn đi kèm không? Người đó phải tu tập pháp môn nào để diệt trừ phiền não đó?

TT Trí Siêu:
Câu hỏi này do cô Minh Hanh đưa ra, sau khi trả lời xong còn điểm nào cô Minh Hạnh thắc mắc xin cô nêu lên tiếp. Khi chúng ta nói về những người có các căn tánh khác nhau, ở đây có một định lý trong A-tỳ-đàm gọi là thường cận y duyên là do tánh nết tập quán mà người ấy đã từng quân tập từ nhiều đời nhiều kiếp. Mỗi một đời sống sanh khởi góp nhặt từng chút từng chút tánh tình đó lâu ngày thành thói quen.Như người ta thường nói,

“Ăn cắp quen tay,
Ngủ ngày quen mắt”
Hay là, “ Sân quen thành nết”


Nghĩa là chúng sanh trong đời này tại sao có những căn tánh khác nhau, chúng ta nói rằng vì những thường cận y duyên Pakatūpanissyapaccayo của mỗi người họ quân tập tính tình khác nhau nên bây giờ có cá tính khác nhau. Chúng ta cũng nói thêm một điều nữa rằng sỡ dĩ chúng sanh có căn tánh khác nhau bởi vì cái tưởng khác nhau. Tại sao cái tưởng khác nhau, có những người thích cảnh sắc cảnh thinh cảnh khí cảnh vị cảnh pháp, Sắc tưởng thinh tưởng khí tưởng vị tưởng pháp tưởng v.v… khác nhau. Mỗi một người có sở thích và chính do vậy nên dần dà tánh ý khác nhau. Đó là vế thứ nhất Sư xin được trình bày.
ở đây có 6 cá tính riêng biệt căn bản của chúng sanh gọi là Carita: tánh tham ái, tánh sân hận, tánh si mê, tánh tư duy( hay gọi là tánh tầm), tánh đức tin, tánh trí tuệ (hay tánh Thật sự chúng sanh có thể có hơn 200 cá tánh dựa vào 6 cá tánh này mà phân bổ ra. Người nặng về tính tham ái, người đó có thể có đức tin. Người nặng về đức tin có thể nặng về tính tham ái nhưng người đó cũng có thể nặng về tính trí tuệ. Ngược lại cũng có người nặng về tánh trí tuệ nhưng người đó cũng có một cá tánh khác đó là cá tánh sân hay nóng nảy. Nói chung theo trong chú giải Tứ niệm xứ giải vế thiền quán Vipassana thì cá tánh chúng sanh khác nhau. Visuddhimagga ( Thanh Tịnh Đạo) cũng đề cập đến vấn đề đó. Không phải mỗi người một cá tính, như người này tánh tham người này tánh sân người này tánh si, tánh tầm hoặc tánh đức tin, không phải như vậy mà một người có hai ba cá tính pha trộn lại. Đó là điều chúng ta cần lưu ý .

Bây giờ chúng ta nói người có đức tin thì có tham ái cũng tuỳ chứ không nhất thiết là như vậy. Người có tâm tham ái nặng cũng có trường hợp họ không có đức tin, mà chỉ có tham ái phối hợp với tánh tầm, tánh tư duy phóng dật thôi. Còn những người có tâm tham ái cũng nặng về đức tin , đó là những trường hợp ví dụ như đối với người dễ có tâm thương cảm người khác dễ có tâm kính phục người khác. Từ chỗ tâm dễ kính phục dễ thương cảm đó họ có thể phát sanh lên tâm ái. Họ có thể cùng một lúc phát sanh lên niềm tin, hai cá tính đó hổ trợ cho nhau. Tức là vì tin vào một đối tượng quá nhiều ngoại trừ ra tin tưởng nơi Đức Phật, nơi Pháp thì không có sự tham ái, không dùng niềm tin trí tuệ thì ái tham sanh khởi. Một người có tâm tham ái và chính do tham ái đó thành thường cận y duyên thúc đẩy niềm tin sanh khởi. Thí dụ khi chúng ta có sự hoan hỷ thiên lệch về tâm bất thiện đối với một vị Pháp sư hay một vị chúng ta có niềm tin hãy vị ấy nói gì chúng ta cũng nghe theo, vị ấy trình bày điều gì chúng ta cũng cho là đúng, là hay. Từ chỗ ái tham làm nền tảng có thể phát sanh lên niềm tin. Nói về cá tính con gnười rất nguy hiểm.


Ở đây trong những trường hợp đại loại như vậy, chúng ta phải tự xét mình. Nếu chúng ta cảm thấy rằng dựa trên nền tảng chúng ta do đặt niềm tin trước rồi sau đó tham ái mới phát sanh chúng ta tu tập pháp môn khá để chúng ta có thể dẫn dắt lại đức tin của mình. Một người khi có tâm luyến ái rồi sau đó mới đặt niềm tin, nhờ tâm luyến ái làm nền tảng cho thường cận y duyên. Làm năng duyên cho phát sanh lên niềm tin, ở đây chúng ta cũng phải có pháp môn khác. Tóm lại như thế này khi chúng ta có được niềm tin với vị ấy rồi, chính vì quá tin nên ta thấy vị ấy cái gì cũng đẹp cũng đáng kính cũng khả ái, nếu không khéo chúng ta sẽ phát sanh lên tâm tham. Khi ấy chúng ta phải tu tuệ quán, dùng trí tuệ để chúng ta quán xét. Tu tập trí tuệ đi đôi với đức tin, bấy giờ trí tuệ đó sẽ giúp cho chúng ta có đức tin mà không có ái tham vì chúng ta nhận thức được tánh chất vô thườgn của các pháp, tính cất khổ đau của đời sốngv.v.. Khi chúng ta ó trí tuệ thấy rõ như vậy, chúng ta chận niềm tin đó lại không cho luyến ái phát sanh. Đó là chiêu thức thứ nhất.

Đối với trường hợp ngược lại chúng ta có tâm tham ái rồi chúng ta phát sanh niềm tin do sự ái luyến do sự ngưỡng mộ với một người nào đó mà chúng ta phát sanh lên niềm tin. Thí dụ một người nam chưa từng đi chùa, chưa từng nghe Phật Pháp, chưa từng hướng tâm đến việc tu tập. Nhưng với người bạn gái là một Phật tử thuần thành. Anh ta vì luyến ái cô này nên nghe theo lời cô bạn gái, một thời gian sau có niềm tin đối với Phật pháp. Anh ta xem niềm tin đối với Phật Pháp như là tinh thần là lý tưởng chung cho cả hai. Trong trường hợp này chúng ta cũng phải thận trọng hễ có niềm tin được thì tốt nhưng sự ái tham còn là còn sự khổ. Do vậy chúng ta chúng ta phỉa tu tập gì để đoạn trừ. Chúng tôi không muốn nói gì ngay trong hiện tại chúng ta có đủ sức để đoạn trừ những ái tham nhưng chúng ta có thể nói rằng khi ta nhận thức được ái tham là khổ, là nguyên nhân sanh sự khổ đế, lúc bấy giờ chúng ta phải tận diệt nó đi, giảm tốc độ nó lại đừng để nó đi quá trớn làm cho chúng at phải khổ và niềm tin chúng ta bị lung lạc. Cho nên với người ái tham làm nền tảng cho niềm tin thì chúng ta phải thường xuyên quán thân tứ đại, quán thân thể trược, quán nhìn sự khổ. Khi chúng ta quán thân bất tịnh hay quán sự vô thường. bấy giờ tâm tham ái chúng ta giảm bớt và niềm tin được trau dồi, được tô điểm trở lại.

Như vậy cả hai mặt. Một người có niềm tin rồi sau đó phát sanh lên ái tham thì chúng ta phải tu trí tuệ. Một người lấy cá tánh tham ái làm nền tảng để phát sanh niềm tin thì phải tu tập quán thân bất tịnh. Thật ra Phật Pháp đa môn vì chúng sanh đa bệnh. Ở đây Sư vẫn còn là phàm Tăng, chưa có tha tâm thông để Sư biết rõ được tâm tánh của mỗi mỗi chúng sanh để thuyết páhp cho thích hợp. Sư chỉ y cứ vào một là kinh điển đã dạy ý nghĩa như thế nào về những pháp môn tu hành, hai là kinh nghiệm tu tập của bản thân những gì Sư hiểu và tâm đắc có thể nói lên đây để gợi lại cho chư Phật tử.
Chúng tôi xin dứt lời ở đây.