Đó là một sự bế tắc tâm linh, đó là một cái gì trì trệ trong đời sống của mình, đời sống tu tập, trước sự trì trệ đó, vị Tỳ kheo quyết định trở về để gặp Đức Phật và xin Đức Phật truyền dạy cho một đề mục tu tập khác. Trên đường đi vị Tỳ kheo này băng ngang một đỉnh núi, và một cảnh tượng đập vào mắt vị Tỳ kheo này, như chúng ta đã biết là từ đỉnh núi cao vị này có thể thấy được cảnh cháy rừng, mà qua đó lửa rừng cuồn cuộn, mặc dầu lan ra rất chậm nhưng đã thiêu rụi tất cả những cây xanh lớn nhỏ.
Những ai thường xem tivi hay thường theo dõi tin tức, những cuộc cháy rừng thì biết rằng ngay cả ở tại các quốc gia mà phương tiện chửa lửa tương đối đầy đủ như tại Hoa Kỳ, nhưng khi có những cuộc cháy rừng, như năm rồi có trận cháy rừng ở Montana, thì cho dù đó là rừng xanh, cây rất xanh, và cho dù ở đó chúng ta có thể nói rằng , nếu chúng ta đem những nhánh và lá cây xanh đó đốt có lẽ mất rất nhiều thì giờ để bắt lửa, nhưng một khi lửa rừng cháy ngang qua một khu rừng xanh, thì chúng ta thấy rằng màu xanh của lá, xanh của nhánh cây, màu xanh của cây không có nghĩa gì với sự cháy rừng hết, tất cả những cây xanh, cây khô, những cây lớn, cây nhỏ đều bị lửa rừng làm cháy sạch.
Phải nhìn thấy cảnh lửa rừng thiêu đốt một khu rừng xanh, chúng ta mới hiểu được những cơn thịnh nộ của lửa rừng như thế nào, và sức tàn phá có thể trong một ngày cả hàng mấy trăm ngàn mẫu tây, vượt ngoài sức tưởng tượng của chúng ta, thì vị Tỳ kheo đứng trên đỉnh núi cao nhìn thấy cảnh lửa rừng đang thiêu rụi cây lớn nhỏ, bỗng nhiên dâng lên trong lòng mình một ướt nguyện rằng, phải chi mình có khả năng như những ngọn lửa rừng để có thể đoạn tận những phiền não.
Có một điều phúc hạnh cho vị Tỳ Kheo này, là trong tư tưởng chập đến nhân cảnh tưởng đập vào mắt như vậy, thì cũng cùng lúc đó Đức Phật Ngài ngồi trong hương thất, Ngài quán xét thấy được ý tưởng khởi lên trong lòng vị Tỳ kheo, Ngài đã nói cho vị Tỳ kheo đó có thể nghe được từ xa, và những lời Ngài nói rất giản dị, rất là ngắn, và những lời nói đó của Ngài không phải là điều gì bí mật, mà đó là những gì được ghi lên ở đây cho tất cả chúng ta cùng đọc.
Appamaadarato bhikkhu pamaade bhayadassivaa
Sa.myojana.m a.nu.m thuula.m .daha.m aggiiva gacchati.
Biết sợ với phóng túng
Tỳ khưu vui tinh cần
Tiến bước như lửa hừng
Thiêu trói buộc lớn nhỏ.
Trong bài kệ này như chúng tôi đã đề cập đến phóng dật và không phóng dật, nhưng ở đây có một lối trình bày hoàn toàn khác Appamaadarato bhikkhu Tỳ kheo chuộng tinh cần hay vị Tỳ Kheo ưa thích sự tinh cần, hay Tỳ kheo hoan hỷ trong sự tinh cần.
Trong đời sống chúng ta cố gắng nghe Phật Pháp, cố gắng nghe cảnh khổ lụy của trầm luân sanh tử, cố gắng đối diện với kinh điển, đối diện với Thầy Tổ, sống trong một đạo tràng chúng ta có cố gắng, nhưng sự cố gắng này chỉ là một sự vận dụng tối đa cái mà chúng ta gọi là ráng, cái mà chúng ta gọi là cố làm.
Và trong cái ráng, cái cố làm đó chúng ta thấy rằng cuộc tu là một gánh nặng, thấy rằng những gì mình đang làm, nó vốn là một điều gần như bắt buột, mặc dầu chúng ta tự nguyện để bắt buột chính mình, nhưng nó là một sự bắt buột và cũng là lý do mà vị Tỳ kheo không thể đạt đến quả vị giác ngộ được, bởi vì vị Tỳ kheo này vẫn thấy rằng trong những giờ phút mình ngồi thiền, trong những lúc mình đi kinh hành, và tất cả những cố gắng lớn nhỏ mình bỏ vào, đó là bổn phận, đó là trách nhiệm, đó là việc phải làm.
Vị Tỳ kheo chưa thấy được cái hay, chưa thấy được cái đẹp, chưa thấy được giá trị thật sự, và nếu khi chúng ta thấy được giá trị thật sự của nó rồi, thì chúng ta có thể hoan hỷ, rất hoan hỷ để làm một việc mà trước kia mình không bao giờ hoan hỷ hết.
Chúng tôi nhớ rằng có nhiều người đi sang Hoa Kỳ, hay các nước kỹ nghệ từ Việt Nam, và những người này nói một tâm sụ rằng, qua đây thấy bên này làm việc nhiều quá, thấy bên này làm việc nặng nề quá, chúng tôi cũng phải nhận rằng như vậy. Có những lần chúng tôi về các nước Á Châu, như Indonesia, như Thái Lan, Ấn Độ, thấy con người ở các nước Á Châu nhàn nhã hơn nhiều, người ta thích la cà vào những hàng quán, ngồi uống cà phê , hoặc ngồi nhậu nhẹt, cảnh tượng đó có rất ít tại các quốc gia kỹ nghệ, đa số người bên đây đều đi làm. Có những gia đình vợ chồng con cái già trẻ bé lớn đều đi làm, và có những người họ đi làm không phải một việc mà hai việc, mà mỗi lần đi làm như vậy họ thức dậy thật sớm, có lẽ là 4 , 5 giờ sáng để chuẩn bị xe cộ, ăn sáng vội vàng rồi đến sở làm.
Nhưng chúng tôi cũng đã sống dài với những chế độ, những chế độ đó ca ngợi sự lao động, nhưng người ta thì rất lười lao động, rất lười làm việc, trong khi ở bên này không ai ca ngợi lao động vinh quanh hết, nhưng người ta vẫn phấn đấu, vẫn thích làm, bởi vì cái động lực bên này nó khác hẳn. Và cái động lực đó là trong cái làm họ có phần thưởng, họ tìm thấy được kết quả, và khi họ làm không ai bắt họ hết, họ cảm thấy rằng có được việc làm là thích thú, vì được làm họ thích thú, do vậy họ ráng làm, họ cố gắng họ làm với tất cả khả năng của mình, và điều này giống như điều người xưa họ nói rằng, dầu cho việc nó hay đi nữa, nhưng mình bị bắt buột phải làm, không bằng mình muốn mà làm, mình muốn mình làm, không bằng mình hoan hỷ mà làm.
Cái hoan hỷ đó là điều rất quan trọng, vì vậy đối với phần đông chúng ta, chúng ta chỉ xem lời dạy của Đức Phật, xem cái giá trị của đạo đức, của luân lý, của lẽ phải, đó là những thứ bổn phận, có đôi khi nó là cái gì làm chĩu nặng đôi vai của mình, mình không tìm thấy ở đó một sự ưa thích hoan hỷ thích thú, và chúng ta không tìm thấy một động lực khiến chúng ta có thể làm được việc đó.
Chúng tôi quen với một đạo hữu, vị này vốn là một người sống rất hờ hững đối với việc tay chân, thế mà từ khi đi qua lại với bạn bè và học được cách làm bonsai, và vị này trở lên rất thích thú trong việc làm bonsai, từ đó nếp sống của vị này thay đổi hoàn toàn. Quí Phật tử chắc hiểu rằng trồng cây bonsai, cây tiểu cảnh nó đòi hỏi một công phu rất lớn, người ta phải xăm soi từng chiếc lá, người ta phải cắt tiả từng cành nhỏ, phải uốn nắn cây theo mùa, thay đất thay chậu liên tục, thế mà một khi mình đã thích rồi mình không thấy cực, nhưng khi mình không thích thì việc nhẹ mà thấy lớn như một ngọn núi thái sơn.
Vì vậy ở đây Đức Phật Ngài khai thị cho vị Tỳ kheo đó, Ngài dùng chữ rất đặc biệt Appamaadarato bhikkhu là vị Tỳ kheo chuộng tinh cần, hay thích tinh cần, hoan hỷ trong sự tinh cần và Ngài cũng nói thêm rằng pamaade bhayadassivaa ( pamaade) có nghĩa là ở trong sự buông thả, ở trong sự phóng dật (bhayadassivaa ) vị này thấy được sự nguy hiểm, thấy được sự sợ hãi, thấy được cái nguy hại, thấy được cái đáng ngại.
Bây giờ quí vị sống ở những thành phố lớn, quí vị có đứa con trên mười tuổi, cái tuổi rất dễ hư hỏng, quí vị thấy con chơi với bạn xấu, đi hôm về khuya. Quí vị nhìn thấy đứa con sống trong điều kiện như vậy, chắn quí vị lo sợ, tại vì tuổi trẻ cái tuổi vừa mới lớn, mà sống với bạn xấu, sống trong xã hội có nhiều trụy lạc và giờ giấc như vậy tức là đang mời mọc lấy hiểm họa. Một trong những lý do chúng ta không tinh tấn trong cuộc đời này, một trong những lý do chúng ta bằng lòng với đời sống buông thả, bằng lòng với đời sống phóng túng, bằng lòng với đời sống không nỗ lực, bởi vì mình không thấy cái hại của nó.
Chúng tôi nhớ có một vị giáo sư ông tên là Minderhome, ông nói ở trong cuộc đời của một nghệ sĩ, điều sợ nhất là bằng lòng với sự trống trải của mình, một lúc nào đó mà mình cảm thấy trong lòng mình không có gì để tha thiết, không có gì để nỗ lực và bây giờ chúng ta bằng lòng với điều đó, có nghĩa là sức sáng tạo đã giảm và cuộc đời đã đi xuống, chúng ta không còn tinh cần nữa.
Khổng Tử suốt cuộc đời học hoài không biết mệt, dạy hoài cũng không biết mệt, đó cũng là một cách nói lên sự nỗ lực, trong chúng ta đều ý thức rõ ràng rằng, đi vào cuộc tu cũng như trong cuộc đời luôn luôn như là lội ngược dòng nước. Khi chúng ta lội ngược dòng nước thưa quí vị, chỉ cần lơi tay, chỉ cần một chút lơ đễnh là chúng ta có thể bị cuốn ngược về phía sau, một người lội ngược dòng nước không bao giờ dám lơ là, không bao giờ dám chễnh mãn đối với nỗ lực của chính mình. Cũng tương tự như vậy ở trong cuộc sống này, chỉ một chút mà chúng ta buông thùa, một chút mà chúng ta phóng túng và một chút mà chúng ta buông tay, thì có thể là làm hỏng cả công trình.
Ngài Mahathera là truyền nhân của Ngài Mahasi, Ngài cũng thường thích dùng thí dụ của một người nấu cơm, Ngài nói rằng: Cho dù một người nấu cơm, mà nấu mỗi thứ đều đúng hết, nước cũng đúng, gạo cũng đúng, lửa cũng đúng, nhưng nấu mười phút rồi tắt lửa đi, rồi sau đó lại nhúm lại, thì chỉ năm mười phút tắt lửa có thể làm sình nồi cơm. Thì cũng vậy, có những công việc chúng ta đang nỗ lực hàng ngày, nhưng đống củi ba năm cháy một giờ, và trong lúc một giờ mà cháy đó nó sẽ tiêu hủy tất cả những gì nỗ lực trong thời gian vừa qua. Thì thưa quí vị cho dù là những nỗi nguy hiểm ở trong đời sống ngày hôm nay, cho dù những nỗi sợ hãi như trường hợp quí vị có một đứa con vào tuổi mười, mười lăm, cho dù là đối với những nguy hại của bệnh tật, của chiến tranh mà thế giới đang đối diện ngày hôm nay, tất cả những nguy hiểm đó không bằng cái nguy hiểm của sự dễ ngươi.
Chúng tôi nhớ trong kinh, Đức Phật trên đường về Rajagaha, Đức Phật đã nhìn những vị Tỳ kheo, Ngài nói một điều, mà ít khi Đức Phật nói những điều như vậy, Ngài nói những điều đó như là lời Ngài đã dạy, mà cũng như là lời Ngài tâm sự.
Ngài nói rằng: "Này các Chư Tỳ kheo, chính vì không thấy được khổ tập diệt đạo, mà Như Lai và các con đã luân hồi trong vô lượng kiếp cho đến ngày hôm nay"
Thưa quí vị, vô số Chư Phật ở trong quá khứ đã hoàn thành đạo nghiệp giác ngộ của Ngài, và đối với chúng ta thì chúng ta nghĩ rằng có lẽ chúng ta đã đến ngưỡng cửa giải thoát, chúng ta không có chuyện gì phải lo lắng. Nhưng không có chuyện gì để bảo đảm rằng chúng ta sẽ không luân hồi nhiều kiếp nữa trong sự trôi dạt của cuộc đời, cái sự trôi dạt của trầm luân sanh tử quả thật là chúng ta không biết được. Dĩ nhiên là trong cuộc tu thì ai cũng có niềm tin, nhưng một phút sơ xảy, những gì xảy đến để làm cho đời sống của chúng ta khác đi, để làm cho đời sống của chúng ta cuốn hút về một phương trời vô định, chuyện đó hoàn toàn có thể xảy ra ở trong đời sống này. Chúng ta cũng thường nghe người ta nói rằng, có thể một người rất là hiền lương mà trở thành kẻ sát nhân, có thể một người đang theo đuổi một hoài bão bình sinh to lớn của mình, rồi buông tay bỏ cuộc, chuyện đó không phải là hiếm thấy ở trong cuộc đời, nó có vô số, tại vì ở một phút nào đó, chúng ta không nhận ra sự nguy hại của đời sống phóng túng.
Và ở đây, thưa qúi vị Đức Phật Ngài nhân sự suy tư, sự ướt nguyện trong lòng của vị Tỳ kheo và nhân cảnh mà vị Tỳ kheo đang thấy, Ngài cũng đem cái cảnh đó như là hình ảnh khai tâm cho vị Tỳ kheo này :"Tiếng tới như lửa hừng, thiêu kiết sử lớn nhỏ ".
Chúng tôi nhớ đời nhà Lý có một vị Thiền Sư làm bài thơ ở trong đó có câu được dịch là: " Ngàn mây, ngàn nước, ngàn trăng hiện, mấy dặm không buông, mấy dặm đường". Thưa quí vị trong hành trình dài của chúng ta ở đâu có nước thì quí vị thấy ở đó có trăng, trăng hiện ra trong từng hồ nước, ngay cả trong thau nước nhỏ đặt ở trước mặt, trăng cũng hiện trong đó, dĩ nhiên đó không phải là trăng thật, nhưng mặc dầu trăng ở trong thau nước, trăng ở trên mặt hồ hay trăng ở dưới dòng sông thì tất cả điều đó cũng cho chúng ta thấy đó là quê hương, đó là ánh trăng quen thuộc, đó là vầng trăng vốn có mặt từ thưở chúng ta biết được trào đời và biết bắt đầu thưởng thức vẻ đẹp của trăng, "ngàn mây, ngàn nước, ngàn trăng hiện, mấy dặm không buông mấy dặm đường".
Đối với chúng ta là một người tu tập, thì thiên nhiên hay những ấn tượng bên ngoài có thể là một gợi ý, mà những gợi ý đó đôi lúc phải mở rộng cánh cửa để chúng ta bước vào khu vườn giải thoát, và chúng ta có thể thay đổi hoàn toàn đời sống của mình, ở đây hình ảnh của ngọn lửa rừng, khi tiến tới thiêu rụi tất cả, dù là cây xanh đại thọ, dù là cỏ hoang mọc ở dưới thân cây nhất nhất đều bị thiêu rụi, thì Đức Phật dạy rằng đời sống của chúng ta có muôn ngàn sự trói buột, và trong những sự trói buột đó, Đức Phật Ngài gom lại để nói đến mười cái trói buột, gọi là mười kiết sử như chúng ta thường nghe: thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ, dục, ái, sân, sắc ái, vô sắc ái, ngã mạn, phóng dật, vô minh v. v...
Trong mười kiết sử đó và nhiều cái trói buột lớn nhỏ khác, mà ở đây Đức Phật Ngài dùng chữ rất quen thuộc, đó là ( a.nu.m thuula.m) tức là cái tế thô hay lớn nhỏ, thì cho dù tế, cho dù thô, cho dù lớn, cho dù nhỏ, hễ là ràng buột thì nó có khả năng nắm nứu lại chúng ta, ví dụ như chúng ta có thể thích đến một nơi nào đó, bởi vì ở đó có một tách trà ngon, chỉ hương vị của tách trà đủ cột chúng ta lại nơi đó.
Thưa quí vị có nhiều người họ bị ràng buột bởi nhiều điều rất tầm thường ở trong cuộc sống, có những người bị ràng buột bởi bản năng to lớn hơn, ví dụ như chúng ta nói thân kiến, hoài nghi, giới cấm thủ v.v...đó là những thứ thằng thúc lớn, thì dù lớn dù nhỏ, nó là những sợi dây cột trói, và ở trong sợ dây cột trói đó là khi một vị Tỳ kheo đã tìm thấy được niềm hoan hỷ thật sự với đời sống nỗ lực, vị này đã tìm thấy được đã nhìn thấy như Đức Phật đã nhìn thấy đặc biệt là thấy được sự sợ hãi, thấy được sự nguy hiễm, và vị này thấy sợ hãi trong đời sống buông thả, thì lúc đó vị Tỳ kheo có thể tiến tới như lửa hừng thiêu đốt những kiết sử lớn nhỏ.
Đối với chúng ta trong đời sống này, thường thường chúng ta tu tập rất đặt nặng về kinh điển, đặt nặng về lý thuyết, nhưng với những gì chúng ta tìm được trong kinh Phật thì Đức Phật dạy chúng ta nên chắc chiu kinh nghiệm cá nhân của mình, những kinh nghiệm đó nếu chúng ta chiêm nghiệm đúng chỗ nó sẽ giúp cho chúng ta đi một bước xa trong cuộc tu. Như một lần Đức Phật Ngài dạy trong Tăng Chi Bộ Kinh Đức Phật Ngài dạy giống như một hạt thóc, nếu đặt cho đúng chỗ thì nó sẽ cắt đứt ngón tay của mình, quí vị thỉnh thoảng thấy trang giấy của mình mà nó có thể cắt được ngón tay, không phải chỉ có con dao mới cắt được ngón tay của mình, mà giấy đặt đúng chỗ nó cũng cắt được ngón tay của mình.
Thì cũng tương tự như vậy, nếu chúng ta khéo tác ý, nếu chúng có thể nhìn sự thật ở góc cạnh gọi là sáng sủa nhất, nhìn ở góc cạnh chân thật nhất và lợi lạc nhất, thì cái nhìn đó có thể là cái nhìn xuyên xúc, và cái nhìn đó có thể thay đổi toàn bộ cuộc sống của mình, như là vị Tỳ kheo ở đây sau khi nghe Đức Phật Ngài giải thích hoan hỷ trong sự tinh cần, và thấy được cái nguy hiểm trong sợ hãi, bước tới như lửa hừng, thiêu kiết sử lớn nhỏ, thì vị Tỳ kheo đó đã tìm thấy được một động lực, tìm thấy được sức mạnh vô song, và sức mạnh đó đã thực sự giúp cho vị Tỳ kheo này đi tới để thành tựu chứng đạt được vô sanh pháp nhãn, chứng đắc được tuệ giác, đọan tận cả mười kiết sử, vị Tỳ kheo này đã bay lên hư không và đến hương thất của Đức Phật đảnh lễ Đức Phật với một cõi lòng nhẹ thênh, với một nội tâm mà hoàn toàn đã đoạn tận tất cả những xiềng xích.
Thưa qúi vị đó là ý nghĩa của câu kệ này, chúng tôi xin nói lại một lần nữa là trong bài kệ này chúng ta nói về sự tinh cần nỗi lực không phóng dật, nhưng ở đây Đức Phật đặc biệt Ngài đề cập đến sự vận dụng tâm tư của chúng ta, khi chúng ta hoan hỷ ưa thích trong sự không phóng dật và thấy được cái nguy hại của sự phóng dật hay sự phóng túng, và từ đó chúng ta có khả năng dũng mãnh đi tới để thiêu đốt tất cả những trói buột lớn nhỏ như ngọn lửa rừng, một hình ảnh bên ngoài được đem vào trong lòng và khiến nó trở thành một sức mạnh, và đó là những con đường cổ nhân đã đi qua, bậc Cổ Đức đã thấy như vậy, đã hiểu như vậy, đã chứng như vậy thì điều đó cũng có thể là những gợi ý cho tất cả chúng ta sống trong ngày hôm nay, và chúng ta cầu mong rằng mỗi chúng ta cũng sẽ thấy, cũng sẽ hiểu, và cũng sẽ chứng như các vị Cổ Đức đã từng thấy, từng hiểu, từng chứng. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Download
KN 31
Kinh Pháp Cú
Lưu Trữ
|