NISSAGGIYA PACITTIYA: Rules entailing forfeiture and confession


NISSAGGIYA (ƯNG XẢ): Giới liên quan đến việc xả bỏ rồi sám hối:


PART ONE: The Robe-cloth Chapter


I. PHẦN Y:

1. When a bhikkhu has finished his robe-making and the frame is destroyed (his kathina privileges are in abeyance), he is to keep an extra robe-cloth ten days at most. Beyond that, it is to be forfeited and confessed.

1. Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, y phụ trội được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

2. When a bhikkhu has finished his robe-making and the frame is destroyed (his kathina privileges are in abeyance): If he dwells apart from (any of) his three robes even for one night — unless authorized by the bhikkhus — it is to be forfeited and confessed.

2. Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, nếu vị tỳ khưu xa ĺa ba y dầu chỉ một đêm th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu.

3. When a bhikkhu has finished his robe-making and the kathina privileges are in abeyance: If out-of-season robe-cloth accrues to him, he may accept it if he so desires. Once he accepts it, he is to make it up immediately (into a cloth requisite). If it should not be enough, he may lay it aside for a month at most if he has an expectation for filling the lack. Should he keep it beyond that, even when there is an expectation (for further cloth), it is to be forfeited and confessed.

3. Khi vấn đề y đă được dứt điểm đối với vị tỳ khưu tức là khi Kaṭhina đă hết hiệu lực, lại có y ngoài hạn kỳ phát sanh đến vị tỳ khưu, vị tỳ khưu đang mong muốn th́ nên thọ lănh. Sau khi thọ lănh nên bảo thực hiện ngay lập tức, và nếu không đủ th́ vị tỳ khưu ấy nên giữ lại y ấy tối đa một tháng khi có sự mong mỏi làm cho đủ phần thiếu hụt; nếu giữ lại quá hạn ấy mặc dầu có sự mong mỏi, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

4. Should any bhikkhu have a used robe washed, dyed, or beaten by a bhikkhuni unrelated to him, it is to be forfeited and confessed.

4. Vị tỳ khưu nào bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo đập giũ y dơ th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

5. Should any bhikkhu accept robe-cloth from a bhikkhuni unrelated to him — unless it is in exchange — it is to be forfeited and confessed.

5. Vị tỳ khưu nào nhận lănh y từ tay tỳ khưu ni không phải là thân quyến th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ sự trao đổi.

6. Should any bhikkhu ask for robe-cloth from a man or woman householder unrelated to him, except at the proper occasion, it is to be forfeited and confessed. Here the proper occasion is this: The bhikkhu's robe has been stolen or destroyed. This is the proper occasion in this case.

6. Vị tỳ khưu nào yêu cầu nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến về y th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị) ngoại trừ có duyên cớ. Duyên cớ trong trường hợp này là vị tỳ khưu có y bị cướp đoạt hoặc là có y bị hư hỏng. Đây là duyên cớ trong trường hợp này.

7. If that unrelated man or woman householder presents the bhikkhu with many robes (pieces of robe-cloth), he is to accept at most (enough for) an upper and an under robe. If he accepts more than that, it is to be forfeited and confessed.

7. Nếu có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến thỉnh cầu vị ấy để đem lại với nhiều y, vị tỳ khưu ấy nên chấp nhận y trong số ấy với mức tối đa là y nội và thượng y, nếu chấp nhận vượt quá số ấy th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

8. In case a man or woman householder prepares a robe fund for the sake of an unrelated bhikkhu, thinking. "Having purchased a robe with this robe fund, I will supply the bhikkhu named so-and-so with a robe:" If the bhikkhu, not previously invited, approaching (the householder) should make a stipulation with regard to the robe, saying, "It would be good indeed, sir, if you supplied me (with a robe), having purchased a robe of such-and-such a sort with this robe fund" — out of a desire for something fine — it is to be forfeited and confessed.

8. Trường hợp có số tiền mua y của nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến đă được chuẩn bị dành riêng cho vị tỳ khưu: ‘Với số tiền mua y này sau khi mua y tôi sẽ dâng y đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Quả thật là tốt, với số tiền mua y này ông hăy mua y có h́nh thức như vầy và như vầy rồi dâng cho tôi;’ v́ sự mong muốn y tốt đẹp, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

9. In case two householders — men or women — prepare separate robe funds for the sake of a bhikkhu unrelated to them, thinking, "Having purchased separate robes with these separate robe funds of ours, we will supply the bhikkhu named so-and-so with robes": If the bhikkhu, not previously invited, approaching (them) should make a stipulation with regard to the robe, saying, "It would be good indeed, sirs, if you supplied me (with a robe), having purchased a robe of such-and-such a sort with these separate robe funds, the two (funds) together for one (robe)" — out of a desire for something fine — it is to be forfeited and confessed.

9. Trường hợp có các số tiền mua y khác nhau của hai nam gia chủ hoặc (của hai) nữ gia chủ không phải là các thân quyến đă được chuẩn bị dành riêng cho vị tỳ khưu: ‘Với các số tiền mua y khác nhau này sau khi mua các y khác nhau chúng tôi sẽ dâng các y đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Quả thật là tốt, với các số tiền mua y này quư ông cả hai nhập thành một rồi hăy mua y có h́nh thức như vầy và như vầy rồi hăy dâng cho tôi;’ v́ sự mong muốn y tốt đẹp, (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

10. In case a king, a royal official, a brahman or a householder sends a robe fund for the sake of a bhikkhu via a messenger (saying), "Having purchased a robe with this robe fund, supply the bhikkhu named so-and-so with a robe": If the messenger, approaching the bhikkhu, should say, "This is a robe fund being delivered for the sake of the venerable one. May the venerable one accept this robe fund," then the bhikkhu is to tell the messenger: "We do not accept robe funds, my friend. We accept robes (robe-cloth) as are proper according to season." If the messenger should say to the bhikkhu, "Does the venerable one have a steward?" then, bhikkhus, if the bhikkhu desires a robe, he may indicate a steward — either a monastery attendant or a lay follower — (saying), "That, my friend, is the bhikkhus' steward." If the messenger, having instructed the steward and going to the bhikkhu, should say, "I have instructed the steward the venerable one indicated. May the venerable one go (to him) and he will supply you with a robe in season," then the bhikkhu, desiring a robe and approaching the steward, may prompt and remind him two or three times, "I have need of a robe." Should (the steward) produce the robe after being prompted and reminded two or three times, that is good. If he does not produce the robe, (the bhikkhu) should stand in silence four times, five times, six times at most for that purpose. Should (the steward) produce the robe after (the bhikkhu) has stood in silence for the purpose four, five, six times at most, that is good. If he should not produce the robe (at that point), should he then produce the robe after (the bhikkhu) has endeavored further than that, it is to be forfeited and confessed. If he should not produce (the robe), then the bhikkhu himself should go to the place from which the robe fund was brought, or a messenger should be sent (to say), "The robe fund that you, venerable sirs, sent for the sake of the bhikkhu has given no benefit to the bhikkhu at all. May the you be united with what is yours. May what is yours not be lost." This is the proper course here.

10. Trường hợp đức vua, hoặc quan triều đ́nh, hoặc bà-la-môn, hoặc gia chủ phái sứ giả đem số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu (nói rằng): ‘Hăy mua y với số tiền mua y này rồi hăy dâng đến vị tỳ khưu tên (như vầy).’ Nếu người sứ giả ấy đi đến gặp vị tỳ khưu ấy và nói như vầy: ‘Thưa ngài, số tiền mua y này được dành riêng cho đại đức đă được mang lại. Xin đại đức hăy nhận lănh tiền mua y.’ Người sứ giả ấy nên được vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Này đạo hữu, chúng tôi không nhận lănh tiền mua y và chúng tôi chỉ nhận lănh y đúng phép vào lúc hợp thời.’ Nếu người sứ giả ấy nói với vị tỳ khưu ấy như vầy: ‘Vậy có ai là người phục vụ cho đại đức không?’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y nên chỉ ra người phục vụ là người phụ việc chùa hoặc là nam cư sĩ: ‘Này đạo hữu, đây chính là người phục vụ cho các tỳ khưu.’ Nếu người sứ giả ấy sau khi đă dặn ḍ người phục vụ ấy rồi đă đi đến gặp vị tỳ khưu ấy nói như vầy: ‘Thưa ngài, người phục vụ mà đại đức đă chỉ ra đă được tôi dặn ḍ. Đại đức hăy đi đến lúc đúng thời, người ấy sẽ dâng y cho ngài.’ Này các tỳ khưu, vị tỳ khưu có sự cần dùng y sau khi đi đến gặp người phục vụ ấy rồi nên thông báo nên nhắc nhở hai hoặc ba lần: ‘Này đạo hữu, tôi có nhu cầu về y.’ Trong khi thông báo nhắc nhở hai hoặc ba lần, nếu đạt được y ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được th́ nên đứng với trạng thái im lặng bốn lần, năm lần, tối đa là sáu lần. Trong khi đứng với trạng thái im lặng bốn lần, năm lần, tối đa là sáu lần, nếu đạt được y ấy, như thế việc này là tốt đẹp; nếu không đạt được rồi ra sức vượt quá số lần ấy và đạt được y ấy th́ (y ấy) phạm vào nissaggiya và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Nếu không đạt được th́ tiền mua y đă được mang lại là của nơi nào th́ nên đích thân đi đến nơi ấy, hoặc nên phái sứ giả đi đến (nói rằng): ‘Này quư vị, các người đă gởi đến số tiền mua y dành riêng cho vị tỳ khưu nào, số tiền ấy không có được chút ǵ lợi ích cho vị tỳ khưu ấy. Quư vị hăy thâu hồi lại vật của ḿnh, chớ để vật của quư vị bị mất mát.’ Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.


PART TWO: The Silk Chapter


II. PHẦN TƠ TẰM:

11. Should any bhikkhu have a felt (blanket/rug) made of a mixture containing silk, it is to be forfeited and confessed.

11. Vị tỳ khưu nào bảo làm tấm trải nằm có trộn lẫn tơ tằm th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

12. Should any bhikkhu have a felt (blanket/rug) made of pure black wool, it is to be forfeited and confessed.

12. Vị tỳ khưu nào bảo làm tấm trải nằm bằng lông cừu thuần màu đen th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

13. When a bhikkhu is making a new felt (blanket/rug), two parts of pure black wool are to be incorporated, a third (part) of white, and a fourth of brown. If a bhikkhu should have a new felt (blanket/rug) made without incorporating two parts of pure black wool, a third of white, and a fourth of brown, it is to be forfeited and confessed.

13. Trong khi bảo làm tấm trải nằm mới, vị tỳ khưu nên lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ. Nếu vị tỳ khưu không lấy hai phần lông cừu thuần màu đen, phần thứ ba màu trắng, phần thứ tư màu nâu đỏ rồi bảo làm tấm trải nằm mới th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

14. When a new felt (blanket/rug) has been made by a bhikkhu, it is to be kept for (at least) six years. If after less than six years he should have another new felt (blanket/rug) made, regardless of whether or not he has disposed of the first, then — unless he has been authorized by the bhikkhus — it is to be forfeited and confessed.

14. Sau khi bảo làm tấm trải nằm mới, vị tỳ khưu nên sử dụng sáu năm. Nếu chưa đủ sáu năm mà cho đi hoặc không cho đi tấm trải nằm ấy rồi bảo làm tấm trải nằm mới khác th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị), ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu.

15. When a felt sitting rug is being made by a bhikkhu, a piece of old felt a sugata span (25 cm.) on each side is to be incorporated for the sake of discoloring it. If, without incorporating a piece of old felt a sugata span on each side, he should have a new felt sitting rug made, it is to be forfeited and confessed.

15. Trong khi bảo thực hiện tấm lót ngồi (tọa cụ), vị tỳ khưu nên lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ để hoại vẻ đẹp. Nếu vị tỳ khưu không lấy một gang tay của đức Thiện Thệ ở phần xung quanh của tấm lót cũ mà bảo làm tấm lót ngồi mới th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

16. If wool accrues to a bhikkhu as he is going on a journey, he may accept it if he so desires. Once he accepts it, he may carry it by hand — there being no one else to carry it — three leagues (48 km.=30 miles) at most. Should he carry it farther than that, even if there is no one else to carry it, it is to be forfeited and confessed.

16. Vị tỳ khưu trong khi đi đường xa có các lông cừu được phát sanh, vị tỳ khưu mong muốn th́ nên thọ lănh. Sau khi thọ lănh, nên dùng tay mang tối đa ba do tuần khi không có người mang. Nếu mang vượt quá khoảng cách ấy cho dầu không có người mang vác th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

17. Should any bhikkhu have wool washed, dyed, or carded by a bhikkhuni unrelated to him, it is to be forfeited and confessed.

17. Vị tỳ khưu nào bảo tỳ khưu ni không phải là thân quyến giặt, hoặc bảo nhuộm, hoặc bảo chải các lông cừu th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

18. Should any bhikkhu take gold and silver, or have it taken, or consent to its being deposited (near him), it is to be forfeited and confessed.

18. Vị tỳ khưu nào nhận lấy hoặc bảo nhận lấy vàng bạc hoặc ưng thuận (vàng bạc) đă được mang đến th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

19. Should any bhikkhu engage in various types of monetary exchange, it (the income) is to be forfeited and confessed.

19. Vị tỳ khưu nào tiến hành việc trao đổi bằng vàng bạc dưới nhiều h́nh thức th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

20. Should any bhikkhu engage in various types of trade, (the article obtained) is to be forfeited and confessed.

20. Vị tỳ khưu nào tiến hành việc mua bán dưới nhiều h́nh thức th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

III. PHẦN B̀NH BÁT:

21. An extra alms bowl may be kept ten days at most. Beyond that, it is to be forfeited and confessed.

21. B́nh bát phụ trội nên được cất giữ tối đa mười ngày. Vượt quá hạn ấy th́ (b́nh bát ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

22. Should a bhikkhu with an alms bowl having less than five mends ask for another new bowl, it is to be forfeited and confessed. The bowl is to be forfeited by the bhikkhu to the company of bhikkhus. That company of bhikkhus' final bowl should be presented to the bhikkhu, (saying,) "This, bhikkhu, is your bowl. It is to be kept until broken." This is the proper procedure here.

22. Vị tỳ khưu nào với b́nh bát chưa đủ năm miếng vá mà kiếm thêm b́nh bát mới khác th́ (b́nh bát mới ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị). Vị tỳ khưu ấy nên xả bỏ b́nh bát ấy đến tập thể các tỳ khưu. Và cái nào là b́nh bát cuối cùng của tập thể các tỳ khưu ấy, cái ấy nên trao đến vị tỳ khưu ấy: ‘Này tỳ khưu, đây là b́nh bát của ngươi, nên giữ lấy cho đến khi bể.’ Đây là điều đúng đắn trong trường hợp ấy.

23. There are these tonics to be taken by sick bhikkhus: ghee, fresh butter, oil, honey, sugar/molasses. Having been received, they are to be used from storage seven days at most. Beyond that, they are to be forfeited and confessed.

23. Các loại dược phẩm nào được dùng cho các tỳ khưu bị bệnh như là bơ lỏng, bơ đặc, dầu ăn, mật ong, đường mía. Các thứ ấy sau khi thọ lănh nên được thọ dụng với sự cất giữ tối đa là bảy ngày. Vượt quá hạn ấy th́ nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

24. When a month is left to the hot season, a bhikkhu may seek a rains-bathing cloth. When a half-month is left to the hot season, (the cloth) having been made, may be worn. If when more than a month is left to the hot season he should seek a rains-bathing cloth, (or) when more than a half-month is left to the hot season, (the cloth) having been made should be worn, it is to be forfeited and confessed.

24. (Biết rằng): ‘Mùa nóng c̣n lại là một tháng’ vị tỳ khưu nên t́m kiếm y choàng tắm mưa. (Biết rằng): ‘Mùa nóng c̣n lại là nửa tháng’ vị làm xong th́ nên mặc. Nếu (thời hạn) chưa đến (lại nghĩ rằng): ‘Mùa nóng c̣n lại là một tháng’ rồi t́m kiếm y choàng tắm mưa, nếu (thời hạn) chưa đến (lại nghĩ rằng): ‘Mùa nóng c̣n lại là nửa tháng’ sau khi làm xong rồi mặc vào th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

25. Should any bhikkhu, having himself given a robe-cloth to (another) bhikkhu, and then being angered and displeased, snatch it back or have it snatched back, it is to be forfeited and confessed.

25. Vị tỳ khưu nào sau khi tự ḿnh cho y đến vị tỳ khưu lại nổi giận, bất b́nh, rồi giật lại, hoặc bảo giật lại th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

26. Should any bhikkhu, having requested thread, have a robe woven by weavers, it is to be forfeited and confessed.

26. Vị tỳ khưu nào tự ḿnh yêu cầu chỉ sợi rồi bảo các thợ dệt dệt thành y th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

27. In case a man or woman householder unrelated to a bhikkhu has weavers weave robe-cloth for his sake, and if the bhikkhu, not previously invited (by the householder), having approached the weavers, should make stipulations with regard to the cloth, saying, "This cloth, friends, is to be woven for my sake. Make it long, make it broad, make it tightly woven, well woven, well spread, well scraped, well smoothed, and perhaps I may reward you with a little something;" and should the bhikkhu, having said that, reward them with a little something, even as much as almsfood, it (the cloth) is to be forfeited and confessed.

27. Trường hợp có nam gia chủ hoặc nữ gia chủ không phải là thân quyến bảo các thợ dệt dệt thành y dành riêng cho vị tỳ khưu. Trong trường hợp ấy, nếu vị tỳ khưu ấy khi chưa được thỉnh cầu trước lại đi đến gặp các thợ dệt và đưa ra sự căn dặn về y: ‘Này đạo hữu, y này được dệt dành riêng cho tôi. Hăy làm (y ấy) dài, rộng, chắc chắn, hăy dệt cho khéo, dệt cho đều đặn, khéo cào, khéo chải. Có lẽ chúng tôi có thể biếu xén các ông vật ǵ đó.’ Và sau khi nói như vậy, nếu vị tỳ khưu ấy biếu xén vật ǵ dó dầu chỉ là đồ ăn khất thực th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

28. Ten days prior to the third-month Kattika full moon, should robe-cloth offered in urgency accrue to a bhikkhu, he is to accept it if he regards it as offered in urgency. Once he has accepted it, he may keep it throughout the robe season. Beyond that, it is to be forfeited and confessed.

28. Khi c̣n mười ngày là đến ngày rằm Kattika của ba tháng, trường hợp vị tỳ khưu có y đặc biệt phát sanh, vị tỳ khưu nghĩ rằng là (y) đặc biệt rồi nên thọ lănh, sau khi thọ lănh nên để riêng cho đến hết thời hạn về y. Nếu để riêng vượt quá hạn ấy th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

29. There are wilderness abodes that are considered dubious and risky. A bhikkhu living in such abodes after the (fourth-month) Kattika full moon has passed may keep any one of his three robes in a village if he so desires. Should he have any reason to live apart from the robe, he may do so for six nights at most. If he should live apart from it longer than that — unless authorized by the bhikkhus — it is to be forfeited and confessed.

29. Khi mùa (an cư) mưa đă qua ngày rằm Kattika, trường hợp có những chỗ trú ngụ ở trong rừng được xác định là có sự nguy hiểm, có sự kinh hoàng, và vị tỳ khưu đang sống ở các chỗ trú ngụ có h́nh thức như thế, khi mong mỏi có thể để lại một y nào đó của ba y ở trong xóm nhà. Nếu vị tỳ khưu ấy có lư do nào đó đưa đến việc xa ĺa y ấy, vị tỳ khưu ấy nên xa ĺa y ấy tối đa là sáu đêm. Nếu xa ĺa vượt quá hạn ấy, ngoại trừ có sự đồng ư của các tỳ khưu, th́ (y ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

30. Should any bhikkhu knowingly divert to himself gains that had been intended for a Community, they are to be forfeited and confessed.

30. Vị tỳ khưu nào dầu biết lợi lộc đă được khẳng định là dâng đến hội chúng vẫn thuyết phục dâng cho bản thân th́ (vật ấy) nên được xả bỏ và (vị ấy) phạm tội pācittiya (ưng đối trị).

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang trước trang Kế | trở về đầu trang | Home page |