A quick glance through the pages of the Pali Text Society's publications catalog should be enough to convince anyone that there is much more to classical Pali literature than the Tipitaka alone. Intermingled with the familiar Nikayas, Vinaya texts, and Abhidhamma are scores of titles with long, scarcely-pronounceable Pali names. Although many western students of Buddhism may be unacquainted with these works (indeed, most have never been translated into English), these books have for centuries played a crucial role in the development of Buddhist thought and practice across Asia and, ultimately, the West. In fact, in some countries they are as deeply treasured as the suttas themselves. But what are these ancient books, and what relevance do they have to the western student of Buddhism in the 21st century? Although complete answers to these questions lie well beyond the range of my abilities, I hope that this short document will provide enough of a road map to help orient the interested student as he or she sets out to explore this vast corpus of important Buddhist literature. |
Thoáng nh́n qua những bản mục lục của hội Pali Text Society's cũng đủ để thuyết phục những ai rằng ở đó có rất nhiều văn học cổ điển Pali hơn bộ Tam Tạng Thánh điển. Cùng với những bộ Kinh (Nikayas) Bộ Tạng Luật (Vinaya Texts), và Bộ Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) là những nhan đề dài gịng, rất khó phát âm theo ngôn ngữ Pali. Nhiều học viên Phật giáo Tây Phương có thể không quen thuộc với những chữ này. Thật vậy, hầu hết đă không được chuyển dịch sang Anh ngữ), những sách này đă có hàng thế kỷ cùng với sự phát triển của Phật giáo xuyên qua vùng Châu Á, và cuối cùng phát triển tại Tây Phương. Thật sự th́ trong một vài quốc gia những cuốn sách này trở lên qúi giá như là kinh điển. Nhưng trong thế kỷ thứ 21st th́ những loại sách cổ điển này có sự thích hợp nào cho những học viên Tây Phương? Mặc dầu câu trả lời đầy đủ cho những câu hỏi này nằm trong phạm vi giới hạn trong khả năng của tôi, tôi hy vọng rằng với tài liệu ngắn này sẽ cung cấp như là một hoạ đồ hướng dẫn những học viên nào có sự quan tâm đến sự phát triển của sự quan trọng văn học Phật Giáo . |
This article is in two parts. The Introduction provides historical background to the texts and offers some thoughts on why these texts are so valuable to the Theravada tradition. The Field Guide is essentially an annotated table of contents, in which I borrow heavily from a variety of sources to describe each text. |
Bài viết này có hai phần. Phần giới thiệu (Introduction) cung cấp các sử liệu cho những bài giảng và những y' kiến là tại sao những bài pháp này lại có giá trị đến truyền thống Phật Giáo Nguyên Thủy. Phần hướng dẫn (Field Guide) là phần cơ bản chú giải các mục lục mà tôi đă mượn từ nơi xuất xứ (sources) để diễn tả mỗi bài viết. |
IntroductionThe origins of the post-canonical textsThe Tipitaka (Pali canon) assumed its final form at the Third Buddhist Council (ca. 250 BCE) and was first committed to writing sometime in the 1st c. BCE. Shortly thereafter Buddhist scholar-monks in Sri Lanka and southern India began to amass a body of secondary literature: commentaries on the Tipitaka itself, historical chronicles, textbooks, Pali grammars, articles by learned scholars of the past, and so on. Most of these texts were written in Sinhala, the language of Sri Lanka, but because Pali — not Sinhala — was the lingua franca of Theravada, few Buddhist scholars outside Sri Lanka could study them. It wasn't until the 5th c. CE, when the Indian monk Buddhaghosa began the laborious task of collating the ancient Sinhala commentaries and translating them into Pali, that these books first became accessible to non-Sinhala speakers around the Buddhist world. These commentaries (Atthakatha) offer meticulously detailed explanations and analyses — phrase-by-phrase and word-by-word — of the corresponding passages in the Tipitaka. |
|
After Buddhaghosa the catalog of post-canonical Pali literature continued to grow with the addition of commentaries by both Buddhadatta (5th c.) and Dhammapala (6th c.), and sub-commentaries (Tika) by Dhammapala on several of Buddhaghosa's Atthakathas. During this time, and in the centuries that followed, other writers prepared Pali translations of additional early Sinhala texts. These ranged from poetic hymns in celebration of the Buddha, to chonicles tracing the first millennium of Buddhist history, to detailed Abhidhamma textbooks. Most of the major post-canonical works, including the sub-commentaries, were completed by the 12th c. |
Sau khi bản liệt kê mục lục của Ngài Buddhaghosa những bài văn Pali được liệt kê là kinh điển được tiếp tục phát triển với nhiều bài chú giải do Buddhadatta (5th c.) và Dhammapala (6th c.), và những bản phụ lục của bản chú giải (Tika) do Dhammapala trên nhiều bản chú giải của Ngài Buddhaghosa's Atthakathas. Trong thời gian này, và trong nhiều thế kỷ sau đó, những tác giả khác chuẩn bị dịch ngôn ngữ những bản viết bằng ngôn ngữ Sinhal sang ngôn ngữ Pali. Những loại này được xếp loại từ những bài thánh ca trong các buổi lễ của Đức Phật, tới Sử kư niên đại truy t́m chi tiết mười thế kỷ đầu tiên lịch sử của Phật giáo những sách viết về Vi Diệu Pháp . Phần lớn những bài được coi là kinh điển Pali và những bản phụ lục chú giải được hoàn thành vào thế kỷ thứ 12th c. |
Why these texts matterPost-canonical Pali literature supplements the Tipitaka in several important ways. First, the chronicles and commentaries provide a vital thread of temporal continuity that links us, via the persons and historical events of the intervening centuries, to the Tipitaka's world of ancient India. A Tipitaka without this accompanying historical thread would forever be an isolated anachronism to us, its message lost in clouds of myth and fable, its pages left to gather dust in museum display cases alongside ancient Egyptian mummies. These texts remind us that the Dhamma is not an artifact but a practice, and that we belong to a long line of seekers who have endeavored, through patient practice, to keep these teachings alive. |
|
Second, almost everything we know today about the early years of Buddhism comes to us from these post-canonical books. Though the archaeological evidence from that era is scant and the Tipitaka itself contains only a handful of passages describing events that followed the Buddha's death1, the commentaries and chronicles contain a wealth of historical information with which we are able to partially reconstruct the early history of Buddhism. The texts illuminate a host of important historical events and trends: how the Tipitaka came to be preserved orally; when it was first written down, and why; how the Tipitaka came close to extinction; how the Buddha's teachings spread across south Asia; how and when the various schools and factions within Buddhism arose; and so on. But these are not just idle concerns for the amusement of academicians. Any practitioner, of any century, stands to benefit from understanding how the early Buddhists lived, how they put the Buddha's teachings into practice, what challenges they faced; we stand to learn from those who have gone before. And there are other lessons to be learned from history. For example, knowing that it was the actions of just a few individuals that averted the extinction of the Tipitaka2 reminds us that it is ultimately up to individuals like ourselves to safeguard the teachings today. Without the post-canonical texts important lessons like these — if not the Tipitaka itself — might have been lost forever in the mists of time. |
Nguyên nhân thứ nh́, hầu hết những ǵ chúng ta biết ngày hôm nay về những năm đầu của Phật giáo là từ những cuốn sách kinh điển này. Xuyên qua những chứng tích khảo cổ từ thời kỷ nguyên th́ nó bị hạn chế và Tam Tạng Thánh Điển chỉ chứa đựng một số ít lời mô tả những biến cố sau khi Đức Phật nhập Niết Bàn, 1, những chú giải và những văn kiện lịch sử chứa đựng phong phú những dữ kiện lịch sử mà chúng ta có thể h́nh dung ra được bối cảnh lịch sử của Phật giáo thời khai nguyên. Những kinh sách cho thấy vô số biến cố và tiến tŕnh lịch sử quan trọng: Tam Tạng Thánh Điển đă được lưu truyền qua sự truyền khẩu như thế nào; lần đầu tiên được viết thành bản văn khi nào và tại sao; và bằng cách nào mà Tam Tạng Thánh Điển hầu như bị thất truyền, bằng cách nào mà kinh điển Phật giáo được truyền bá sang vùng Nam Á; bằng cách nào và khi nào mà các trường phái, các tông phái khác nhau của đạo Phật xuất hiện, v.v... Nhưng các biến cố này không phải chỉ là những quan tâm thầm lặng trong sự khám phá của giới học giả. Bất cứ người hành tŕ nào, của bất cứ thế kỷ nào, hiểu về cuộc sống của các tăng sĩ thời xưa như thế nào, như thế nào để họ hành tŕ giáo pháp của Đức Phật, những thử thách nào mà họ phải đối đầu, chúng ta học được từ những người đi trước. Và có nhiều bài học khác để chúng ta học hỏi từ lịch sử. Thí dụ, hiểu được rằng hành động của vài cá nhân cũng có thể bảo tồn được Tam Tạng Thánh Điển 2 cho chúng ta thấy rằng tùy thuộc vào từng cá nhân của chúng ta mà giáo pháp hôm nay có được duy tŕ hay không. Không có những kinh điển pali th́ những bài học quan trọng và ngay cả Tam Tạng Thánh Điển có thể bị thất lạc vĩnh viễn sau bao năm tháng. |
Third, these texts — particularly the commentaries — help us make sense of the suttas and give us clues about their context that we might otherwise miss. For example, the famous Satipatthana Sutta (MN 10) is popularly cited today as evidence that all one needs to achieve Awakening is a week or two of unrelenting mindfulness practice. But the commentary (Papañcasudani) suggests another viewpoint. It explains that the Buddha's audience for this particular discourse (the villagers of Kammasadammam) were already well established in their practice of mindfulness and virtue. They were not coming to meditation practice "cold" but were, in fact, unusually well prepared to receive this deep teaching — a point not apparent from the text of the sutta itself. The commentary thus reminds us that there are some important fundamentals to be developed before one undertakes intensive meditation practice. |
Điểm thứ ba, những bản văn này – đặc biệt là những bản chú giải – giúp chúng ta hiểu được kinh điển và cho chúng ta những đầu mối về bối cảnh của chúng mà nếu không chúng ta có thể bỏ qua. Ví dụ, kinh Niệm Xứ (Satipatthana Sutta) nổi tiếng (MN 10) được tụng đọc phổ biến ngày nay là bằng chứng cho tất cả những ai cần chứng đạt Giác ngộ là một hoặc hai tuần thực hành chú tâm không thối chuyển. Nhưng chú giải (Papañcasudani) đề xuất một quan điểm khác. Nó giải thích rằng thính giả của đức Phật của bài giảng đặc biệt này (dân làng Kammasadammam) đă nổi tiếng trong việc thực hành chú tâm và giới luật. Họ không đến với thiền định “lạnh” nhưng, thật ra, thường được chuẩn bị để tiếp thu giáo pháp sâu xa này – một quan điểm không hiển nhiên từ bản văn của chính các bài kinh. Chú giải do đó nhắc nhở chúng ta rằng có những điều nền tảng quan trọng cần được phát triển trước khi người ta thực hành thiền định chuyên sâu. |
Finally, the commentaries often contain magnificent stories to illustrate and amplify upon points of Dhamma that are made in the suttas. For example, Dhp 114 takes on a much richer meaning in light of the commentary's background story — the famous parable of Kisagotami and the mustard seed.3 Commentarial stories like this one (and there are many more) offer valuable Dhamma teachings in their own right. |
Cuối cùng, những chú giải thường chứa đựng những câu chuyện tuyệt vời để minh họa và nhấn mạnh, mở rộng những quan điểm của Pháp đă được đề ra trong tạng kinh. Ví dụ, Dhp 114 có đựơc ư nghĩa phong phú hơn nhiều dưới ánh sáng của những câu chuyện duyên sự trong chú giải câu chuyện ngụ ngôn về Kisagotami và những hạt mù tạt.3 câu chuyện mang tính chú giải như câu chuyện này (và c̣n nhiều câu chuyện khác nhữa) đem lại những giáo pháp về Pháp có giá trị trong thẩm quyền của riêng chúng. |
The authority of the textsOne might reasonably wonder: how can a collection of texts written a thousand years after the Buddha's death possibly represent his teachings reliably? How can we be sure they aren't simply derivative works, colored by a host of irrelevant cultural accretions? First of all, although many of these texts were indeed first written in Pali a thousand years after the Buddha, most Sinhala versions upon which they were based were written much earlier, having themselves been passed down via an ancient and reliable oral tradition. But (one might object) mustn't those early texts themselves be suspect, since they are based only on hearsay? Perhaps, but by this argument we should reject the entire oral tradition — and hence the entire Tipitaka itself, which similarly emerged from an oral tradition long after the Buddha's death. Surely that is taking things too far. |
|
But what of the credentials of the commentators themselves: can their words be trusted? In addition to living a monastic life immersed in Dhamma, the compilers of the commentaries possessed unimpeachable literary credentials: intimate acquaintance with the Tipitaka, mastery of the Pali and Sinhala languages, and expert skill in the art of careful scholarship. We have no reason to doubt either their abilities or the sincerity of their intentions. |
Nhưng sự đáng tin cậy của chính những nhà chú giải là ǵ: những lời của họ có đáng tin không? Hơn nữa đối với việc sống đời sống trong tu viện đắm ḿnh trong Pháp, những sọan giả của những chú giải đă có được những tín nhiệm về học thuật ḥan thiện: thân cận với Tam Tạng Kinh Điển, bậc thầy về tiếng Pali và Sinhala, và kỹ năng lăo luyện về nghệ thuật nghiên cứu. Chúng ta không có lư do để ḥai nghi khả năng hay sự chân thành trong những ư định của họ. |
And what of their first-hand understanding of Dhamma: if the commentators were scholars first and foremost, would they have had sufficient meditative experience to write with authority on the subject of meditation? This is more problematic. Perhaps commentators like Buddhaghosa had enough time (and accumulated merit) both for mastering meditation and for their impressive scholarly pursuits; we will never know. But it is noteworthy that the most significant discrepancies between the Canon and its commentaries concern meditation — in particular, the relationship between concentration meditation and insight.4 The question of the authority of the post-canonical texts thus remains a point of controversy within Theravada Buddhism. |
Và sự hiểu biết đầu tay của họ về Pháp là ǵ: nếu những nhà chú giải trước tiên và trên hết là những học giả, liệu họ có đủ thể nghiệm thiền để viết về chủ đề thiền? Đây là sự việc có vấn đề hơn. Có lẽ những nhà chú giải như Buddhaghosa đă có đầy đủ thời gian (và công đức tích lũy) cả về khả năng quán triệt thiền lẫn việc theo đuổi nghiên cứu học thuật đầy ấn tượng của họ. Chúng ta sẽ không bao giờ biết được. Nhưng điều đáng chú ư là hầu hết những khác bịêt có ư nghĩa giữa kho tàng kinh điển và những chú gỉai của nó liên quan đến thiền – đặc biệt là mối quan hệ giữa thiền và trực kiến.4 Vấn đề về thẩm quyền (tính đáng tin cậy) của những kinh văn kinh điển như vậy vẫn c̣n là một điểm tranh căi trong nội bộ Phât giáo Therevada. |
It is important to remember that the ultimate function of the post-canonical texts is — like that of the Tipitaka itself — to assist the student in the quest for nibbana, the highest goal of Buddhist practice. Concerns about authorship and authority recede when the texts are subjected to the same healthy skeptical attitude and empirical approach that should be familiar to every student of the suttas. If a commentary sheds light on a murky corner of a sutta or helps us understand a subtle point of Vinaya or of Abhidhamma, or if the chronicles remind us that we hold the future history of Dhamma in our hands, then to that extent they help us clear the path ahead. And if they can do even that much, then — no matter who wrote them and from whence they came — these texts will have demonstrated an authority beyond reproach.5 |
Điều quan trọng là hăy ghi nhớ rằng chức năng tối hậu của những kinh văn hậu kinh điển là – cũng giống như chức năng của chính Tam Tạng – hỗ trợ người học trong việc t́m kiếm niết bàn, mục đích cao nhất của việc tu học Phật. Các mối quan tâm về tác quyền và thẩm quyền (tính đáng tin cậy) rút lui khi những kinh văn tuân phục cùng phương pháp tiếp cận mang tính thực nghiệm và thái độ ḥai nghi lành mạnh hẳn là quen thuộc với mọi người tu học kinh tạng. Nếu một bản chú giải soi rọi ánh sáng vào một góc mờ nào của một kinh hoặc giúp chúng ta hiểu một điểm tinh tế nào của Luật hay của Vi diệu pháp, hoặc nếu những biên niên nhắc nhở chúng ta rằng chúng ta nắm giữ lịch sử tương lai của Pháp trong tay chúng ta, th́ ở chừng mực như thế chúng giúp chúng ta khai hoang con đường phía trứơc. Và nếu chúng có thể làm được ngay cả mức độ ấy, th́ – dù ai đă viết chúng và chúng xuất phát từ đâu, th́ những kinh văn ấy sẽ minh chứng được thẩm quyền vượt lên trên lời ong tiếng ve. |
A Field GuideIn the following guide, I have arranged the most popular post-canonical titles thematically and by date (Common Era). Authors' names are followed by the date of authorship (if known). The authors of these texts were all monks, but for the sake of concision, I have dropped the honorific "Ven." from their names. Each non-commentarial title is followed by a brief description. Many of these descriptions were lifted verbatim from other sources (see Sources, below). Page numbers from these sources are given in the braces {}. Most of these titles have been published in romanized Pali by the Pali Text Society (PTS); the few for which English translations are available are noted with a dagger (†), followed by the translator, date of translation, and publisher. For the purposes of this guide, the post-canonical texts may be grouped into the following categories: |
|
|
^^^^^ |
Commentaries and Sub-commentaries
Source Text | Commentary (Atthakatha) |
Subcommentary (Tika) |
||
---|---|---|---|---|
VINAYA PITAKA | Samantapasadika (Buddhaghosa; 5th c.) | Vajirabuddhi-tika (Vajirabuddhi; 11-12th c.) Saratthadipani (Sariputta; 12th c.) Vimativinodani (Mahakassapa of Cola; 12th c.) |
||
Patimokkha | Kankhavitarani (Buddhaghosa; 5th c.) | Vinayatthamañjusa (Buddhanaga; 12th c.) | ||
SUTTA PITAKA | ||||
Digha Nikaya | Sumangalavilasini (Buddhaghosa; 5th c.) | Dighanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.) | ||
Majjhima Nikaya | Papañcasudani (Buddhaghosa; 5th c.) | Majjhimanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.) | ||
Samyutta Nikaya | Saratthappakasini (Buddhaghosa; 5th c.) | Samyuttanikaya-tika (Dhammapala; 6th c.) | ||
Anguttara Nikaya | Manorathapurani (Buddhaghosa; 5th c.) | Saratthamañjusa-tika (Sariputta; 12th c.) | ||
Khuddaka Nikaya | ||||
Khuddakapatha | Paramatthajotika (I) (Buddhaghosa; 5th c.) | - | ||
Dhammapada | Dhammapada-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) †(E.W. Burlingame, 1921, PTS) | - | ||
Udana | Paramatthadipani (I)/Udana-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) |
- | ||
Itivuttaka | Paramatthadipani (II)/Itivuttaka-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) | - | ||
Suttanipata | Paramatthajotika (II)/Suttanipata-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) | - | ||
Vimanavatthu | Paramatthadipani (III)/Vimanavatthu-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) | - | ||
Petavatthu | Paramatthadipani (IV)/Petavatthu-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) | - | ||
Theragatha | Paramatthadipani (V)/Theragatha-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) | - | ||
Therigatha | Paramatthadipani (VI)/Therigatha-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) | - | ||
Jataka | Jatakatthavannana/Jataka-atthakatha (Buddhaghosa; 5th c.) †(various, 1895, PTS) | - | ||
Niddesa | Sadhammapajotika (Upasena; 5th c.) | - | ||
Patisambhidamagga | Sadhammappakasini (Mahanama; 6th c.) | - | ||
Apadana | Visuddhajanavilasini (unknown) | - | ||
Buddhavamsa | Madhuratthavilasini (Buddhadatta; 5th c.) †(I.B. Horner, 1978, PTS) | - | ||
Cariyapitaka | Paramatthadipani (VII)/Cariyapitaka-atthakatha (Dhammapala; 6th c.) | - | ||
Nettipakarana Petakopadesa Milindapañha |
No commentaries exist for these books, which appear only the Burmese edition of the Tipitaka. See Nettipakarana, Petakopadesa, and Milindapañha, below. | |||
ABHIDHAMMA PITAKA | ||||
Dhammasangani | Atthasalini (Buddhaghosa; 5th c.) †(Pe Maung Tin, 1920, PTS) | Linatthapada-vannana (Ananda Vanaratanatissa; 7-8th c.) | ||
Vibhanga | Sammohavinodani (Buddhaghosa; 5th c.) †(U Narada, 1962, PTS) | - | ||
Katthavatthu Puggalapaññatti Dhatukatha Yamaka Patthana |
Pañcappakaranatthakatha (Buddhaghosa; 5th c.). This commentary covers all five books. English translations exist for the portions concerning the Katthavatthu †(B.C. Law, 1940, PTS), Dhatukatha †(U Narada, 1962, PTS), and Patthana †(U Narada, 1969, PTS) | - - - - - |
Quasi-canonical Texts
|
| ||||
Chronicles and Historical Accounts
|
| ||||
The Life of the Buddha
|
| ||||
Abhidhamma Manuals
|
| ||||
Miscellaneous
|
| ||||
Notes 2. In the early decades of the 1st c. BCE in Sri Lanka — then the hub of Theravada Buddhist scholarship and monastic training — several forces combined that would threaten the continuity of the ancient oral tradition by which the Pali Tipitaka had been passed down from one generation of monks to the next. A rebellion against the king and invasions from south India forced many monks to flee the island. At the same time a famine of unprecedented proportions descended on the island for a dozen years. The commentaries recount heroic stories of monks who, fearing that the treasure of the Tipitaka might forever be lost, retreated to the relative safety of the south coast, where they survived only on roots and leaves, reciting the texts amongst themselves day and night. The continuity of the Tipitaka hung by a thread: at one point only one monk was able to recite the Niddesa. {PLL p. 76} 3. The commentary tells how Kisagotami, distraught by the death of her son, wandered in vain from door to door with his corpse in her arms, in search of a cure for his ailment. Finally she met the Buddha, who promised a cure if she would simply bring back a few mustard seeds from any household that had never been touched by death. Unable to find any such household, she soon came to her senses, understood the inevitability of death, and was at last able to let go of both the corpse and her grief. (The full story of Kisagotami's life is retold in Great Disciples of the Buddha, Bhikkhu Bodhi, ed. (Boston: Wisdom Publications, 1997).) 4. See BR p.145. 5. See "'When you know for yourselves...': The Authenticity of the Pali Suttas," by Thanissaro Bhikkhu.
|
Notes 2. Trong những thập kỷ đầu của 1st c. BCE in Sri Lanka — lúc bấy giờ la trung tâm nghiên cứu và đào tạo của Phật giáo Therevada – một số lực lượng kết hợp đe dọa sự truyền đời liên tục của truyền thống truyền miệng cổ xưa mà theo đó Tam Tạng được truyền từ thế hệ tăng chúng này sang thế hệ kế tiếp. Một cuộc nổi dậy chống lại nhà vua và các cuộc xâm lăng từ nam Ấn độ buộc nhiều nhà sư phại lưu vong khỏi đảo quốc. Cùng lúc ấy nạn đói với qui mô chưa từng có đă giáng xuống đảo quốc trong hơn hàng chục năm trời. Các bản chú giải kể lại những câu chuyện anh hùng của những nhà sư, sợ rằng kho tàng Tam Tạng sẽ bị thất truyền vĩnh viễn, đă rút lui về nơi tương đối an ṭan ở bờ biển phương Nam, nơi mà họ sinh tồn bằng chỉ với rễ và lá cây, ngày đêm đọc tụng kinh văn cùng nhau. Sự truyền đời liên tục của Tam Tạng như chỉ mành treo chuông: vào một lúc nào đó chỉ có một nhà sự có thể tụng đọc. Niddesa. {PLL p. 76} 3. Chú giải kể lại cách mà bàKisagotami, quá đau buồn do cái chết của con trai, đi lang lang vô vọng từ nhà này đến nhà khác với xác con trong tay, t́m phương cưú trị cho con. Cuối cùng bà gặp đức Phật, người hứa một phương dược nếu như bà sẽ mang về được một vài hạt mù tạt từ bất cứ hộ gia đ́nh nào mà chưa bao giờ bị thần chết sờ đến. Không thể t́m được hộ gia đ́nh nào như thế, bà sực tỉnh, hiểu sự tất yếu của cái chết, và cuối cùng có thể buông bỏ cả thi hài của con lẫn nỗi khổ của bà. (Câu chuyện đầy đủ về cuộc đời của Kisagotami được kể lại trong Những Đại Đệ Tử của Phật, Bhikkhu Bodhi, ed. (Bostom: Wisdom Publications, 1997).) 4. See BR p.145. 5. See "'When you know for yourselves...': The Authenticity of the Pali Suttas," by Thanissaro Bhikkhu.
|