On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery.
Now at that time Ven. Sariputta was staying among the Magadhans in Nalaka village — diseased, in pain, severely ill. Cunda the novice was his attendant.
Then, because of that illness, Ven. Sariputta attained total Unbinding.




Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Thắng Lâm, khu vườn của ông Cấp Cô Độc.
Lúc bấy giờ, Tôn giả Sàriputta trú ở Magadha, tại làng Nàla, bị bệnh, đau đớn, bị trọng bệnh. Và Sa-di Cunda là thị giả của Tôn giả Sàriputta.
Tôn giả nhập Niết-bàn v́ bệnh ấy.

 

So Cunda the novice, taking Ven. Sariputta's bowl & robes, went to Ven. Ananda in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery, near Savatthi, and on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there he said to Ven. Ananda: "Venerable sir, Ven. Sariputta has attained total Unbinding. Here are his bowl & robes."



Rồi Sa-di Cunda cầm lấy y bát của Tôn giả Sàriputta đi đến Sàvatthi, Thắng Lâm, tại khu vườn của ông Cấp Cô Độc, đi đến Tôn giả Ananda; sau khi đến, đảnh lễ Tôn giả Ananda, rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Sa-di Cunda nói với Tôn giả Ananda:
- Thưa Tôn giả, Tôn giả Sàriputta đă mệnh chung. Đây là y bát của vị ấy.

 

"Cunda, my friend, this news is reason for seeing the Blessed One. Come, let's go to the Blessed One and report this matter to him."



Này Hiền giả Cunda, đây là lư do để đến yết kiến Thế Tôn. Này Hiền giả Cunda, chúng ta hăy đi đến Thế Tôn; sau khi đến, chúng ta hăy báo tin này cho Thế Tôn.

 

"Yes, venerable sir," Cunda the novice replied.



-" Thưa vâng, Tôn giả". Sa-di Cunda đáp lời Tôn giả Ananda

 

So Ven. Ananda & Cunda the novice went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As they were sitting there, Ven. Ananda said to him, "Lord, just now Cunda the novice said to me, 'Venerable sir, Ven. Sariputta has attained total Unbinding. Here are his bowl & robes.' It was as if my body were drugged, I lost my bearings, things weren't clear to me, on hearing that Ven. Sariputta had attained total Unbinding."



Rồi Tôn giả Ananda và Sa-di Cunda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi một bên, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Sa-di Cunda này thưa như sau: "Bạch Tôn giả, Tôn giả Sàriputta đă mệnh chung. Đây là y và bát của vị ấy". Bạch Thế Tôn, thân con cảm thấy yếu ớt như lau sậy (bàng hoàng) (madhurakajato). Các phương hướng không hiện ra rơ ràng đối với con. Pháp sẽ không được giảng cho con, khi con nghe tin Tôn giả Sàriputta đă mệnh chung.

 

"But, Ananda, when he attained total Unbinding, did Sariputta take the aggregate of virtue along with him? Did he take the aggregate of concentration... discernment... release... the aggregate of knowledge & vision of release along with him?"



Này Ananda, Sàriputta có đem theo giới uẩn khi mệnh chung? Có đem theo định uẩn khi mệnh chung? Có đem theo tuệ uẩn khi mệnh chung? Có đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung? Có đem theo giải thoát tri kiến khi mệnh chung không?

 

"No, lord, when he attained total Unbinding, Ven. Sariputta didn't take the aggregate of virtue... concentration... discernment... release... the aggregate of knowledge & vision of release along with him. It's just that he was my instructor & counselor, one who exhorted, urged, roused, & encouraged me. He was tireless in teaching the Dhamma, a help to his companions in the holy life. We miss the nourishment of his Dhamma, the wealth of his Dhamma, his help in the Dhamma."



- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta không đem theo giới uẩn khi mệnh chung, không đem theo định uẩn khi mệnh chung, không đem theo tuệ uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải thoát uẩn khi mệnh chung, không đem theo giải thoát tri kiến khi mệnh chung. Nhưng bạch Thế Tôn, Tôn giả Sàriputta là vị giáo giới cho con, là vị đă vượt qua (bộc lưu), là bậc giáo thọ, là vị khai thị, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, là vị thuyết pháp không biết mệt mỏi, là vị hộ tŕ cho các đồng Phạm hạnh. Chúng con đều ức niệm rằng Tôn giả Sàriputta là tinh hoa của pháp (dhammojam), là tài sản của pháp (dhammabhogam), là hộ tŕ của pháp.

 

"But, Ananda, haven't I already taught you the state of growing different with regard to all things dear & appealing, the state of becoming separate, the state of becoming otherwise? What else is there to expect? It's impossible that one could forbid anything born, existent, fabricated, & subject to disintegration from disintegrating.



Này Ananda, có phải trước đây Ta đă từng tuyên bố với Ông rằng mọi pháp khả ái, khả ư đều có tánh chất khác biệt, có tánh chất ly tán, có tánh chất đổi khác? Làm sao, này Ananda, ở đây, lời ước nguyền này có thể thành tựu được: "Mong rằng cái ǵ được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Just as if the largest limb were to fall off of a great tree composed of heartwood, standing firm; in the same way, Sariputta has attained total Unbinding from this great community of monks composed of heartwood, standing firm. What else is there to expect? It's impossible that one could forbid anything born, existent, fabricated, & subject to disintegration from disintegrating.



Ví như, này Ananda, từ một cây lớn mọc thẳng, có lơi cây, một cành cây lớn bị găy đổ. Cũng vậy, này Ananda, từ nơi chúng Tỷ-kheo đứng thẳng, có lơi cây, Sàriputta bị mệnh chung. Làm sao, này Ananda, ở đây, lời ước nguyền này có thể thành tựu được: "Mong sao cái ǵ được sanh, được thành, là pháp hữu vi, là pháp bị diệt hoại, lại có thể không bị diệt hoại!"? Sự kiện như vậy không xảy ra.

 

"Therefore, Ananda, each of you should remain with your self as an island, your self as your refuge, without anything else as a refuge. Remain with the Dhamma as an island, the Dhamma as your refuge, without anything else as a refuge. And how does a monk remain with his self as an island, his self as his refuge, without anything else as a refuge? How does he remain with the Dhamma as an island, the Dhamma as his refuge, without anything else as a refuge? There is the case where a monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He remains focused on feelings... mind... mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. This is how a monk remains with his self as an island, his self as his refuge, without anything else as a refuge, with the Dhamma as an island, the Dhamma as his refuge, without anything else as a refuge. For those who — now or after I am gone — remain with their self as an island, their self as their refuge, without anything else as a refuge, with the Dhamma as an island, the Dhamma as their refuge, without anything else as a refuge, they will be the highest of the monks who desire training."



Do vậy, này Ananda, hăy tự ḿnh là ngọn đèn cho chính ḿnh, hăy tự ḿnh nương tựa chính ḿnh, chớ nương tựa một ǵ khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nượng tựa một điều ǵ khác. Này Ananda, thế nào là Tỷ-kheo tự ḿnh là ngọn đèn cho chính ḿnh, tự ḿnh nương tựa chính ḿnh, không nương tựa một điều ǵ khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều ǵ khác? Ở đây, này Ananda, Tỷ-kheo trú, quán thân trên thân, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời... trú, quán thọ trên các thọ... trú, quán tâm trên tâm... trú, quán pháp trên các pháp, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục tham ưu ở đời. Như vậy, này Ananda, Tỷ-kheo tự ḿnh là ngọn đèn cho chính ḿnh, tự ḿnh nương tựa chính ḿnh, không nương tựa một ǵ khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều ǵ khác. Này Ananda, những ai hiện nay, hay sau khi Ta diệt độ, tự ḿnh là ngọn đèn cho chính ḿnh, tự ḿnh nương tựa chính ḿnh, không nương tựa một điều ǵ khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một điều ǵ khác; những vị ấy, này Ananda, là những vị tối thượng trong hàng Tỷ-kheo của Ta, nếu những vị ấy tha thiết học hỏi.

 

See also: DN 16, SN 47.14.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Trang kế | trở về đầu trang | Home page |