KINH LOHICCA

 

I have heard that on one occasion the Blessed One was on a wandering tour among the Kosalans with a large community of monks — approximately 500 monks in all — and arrived at Salavatika. Now at that time the brahman Lohicca was reigning with feudatory rights over Salavatika — together with its wealth, grass, timber, & grain — through a royal grant bestowed by King Pasenadi Kosala. And at that time an evil viewpoint to this effect had arisen to him: "Suppose that a priest or contemplative were to arrive at a skillful doctrine. Having arrived at a skillful doctrine, he should not declare it to anyone else, for what can one person do for another? It would be just the same as if, having cut through an old bond, one were to make another new bond. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?"

Như vậy tôi nghe. Một thời đức Thế Tôn đang đi du hành tại nước Kosala (Câu-tát-la) cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, và đến tại Sàlavatikà (một làng có dăy cây tala bao bọc). Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Lohicca ở tại Sàlavatikà, một chỗ dân cư đông đúc, cây cỏ, ao nước, ngũ cốc phong phú, vốn là đất đai của vua, sau vua Pasenadi (Ba-tư-nặc) cấp cho để hưởng một phần lợi tức. Lúc bấy giờ, Bà-la-môn Lohicca khởi lên ác kiến sau đây: "Ở đời, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chúng được thiện pháp không nên nói cho người khác biết, v́ có ai lại làm giúp cho ai được ? Ví như một người sau khi cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp v́ có ai lại làm giúp cho ai được ?".

 

Then Lohicca heard it said, "Gotama the contemplative — the son of the Sakyans, having gone forth from the Sakyan clan — on a wandering tour among the Kosalans with a large community of monks — approximately 500 monks in all — has arrived at Salavatika. And of that Master Gotama this fine reputation has spread: 'He is indeed a Blessed One, worthy, & rightly self-awakened, consummate in knowledge & conduct, well-gone, a knower of the cosmos, an unexcelled trainer of those persons ready to be tamed, teacher of human & divine beings, awakened, blessed. He has made known — having realized it through direct knowledge — this world with its devas, maras, & brahmas, its generations with their contemplatives & priests, their rulers & common people; has explained the Dhamma admirable in the beginning, admirable in the middle, admirable in the end; has expounded the holy life both in its particulars & in its essence, entirely perfect, surpassingly pure. It is good to see such a worthy one.'"

Bà-la-môn Lohicca nghe đồn: "Sa-môn Gotama là Thích tử, xuất gia từ ḍng họ Thích-ca, đang du hành tại nước Kosala, cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, nay đă đến Sàlavatikà. Những tiếng đồn tốt đẹp sau đây được truyền đi về Sa-môn Gotama: "Ngài là bậc Thế Tôn, A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Ngài đă tự chứng ngộ thế giới này với Thiên giới, Ma giới, Phạm thiên giới, với các chúng Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên và loài Người, tự ḿnh chứng ngộ với thắng trí rồi hiển thị cho mọi loài được biết. Ngài thuyết pháp, sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, tŕnh bày phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, thanh tịnh. Lành thay, nếu được yết kiến một vị A-la-hán như vậy".

 

So Lohicca said to Rosika the barber: "Come, dear Rosika. Go to Gotama the contemplative and, on arrival, ask whether he is free from illness & affliction, is carefree, strong, & living in comfort, saying: 'The brahman Lohicca, Master Gotama, asks whether you are free from illness & affliction, are carefree, strong, & living in comfort.' And then say: 'May Master Gotama, together with the community of monks, consent to tomorrow's meal with the brahman Lohicca.'"

Bà-la-môn Lohicca nói với Bhesika, người hớt tóc: - "Này thiện nhân Bhesika, hăy đi đến Sa-môn Gotama thay mặt ta hỏi thăm Sa-môn Gotama có được ít bệnh ít năo, khinh an, khí lực sung măn, lạc trú không: "Tôn giả Gotama, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm Thế Tôn có được ít bệnh, ít năo, khinh an, khí lực sung măn, lạc trú không ?" và nói thêm: "Mong Thế Tôn nhận lời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm cùng với đại chúng Tỷ-kheo !".

 

Responding, "As you say, sir," to the brahman Lohicca, Rosika the barber went to the Blessed One and, on arrival, bowing down to him, sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One, "The brahman Lohicca, lord, asks whether the Blessed One is free from illness & affliction, is carefree, strong, & living in comfort. And he says, 'May the Blessed One, together with the community of monks, consent to tomorrow's meal with the brahman Lohicca.'" The Blessed One consented through silence.

- Tôn giả, xin vâng ! Bhesika người hớt tóc vâng theo lời của Bà-la-môn Lohicca đến với Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên. Bhesika người hớt tóc bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm "Thế Tôn có được ít bệnh, ít năo, khinh an, khí lực sung măn, lạc trú không ?" và nói thêm: "Mong đức Thế Tôn nhận lời mời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm với đại chúng Tỷ-kheo". Đức Thế Tôn im lặng nhận lời.

 

Then Rosika the barber, understanding the Blessed One's consent, rose from his seat, bowed down to the Blessed One, circumambulated him — keeping him to his right — and returned to the brahman Lohicca. On arrival he said to him, "I have informed the Blessed One of your words, [saying,] 'The brahman Lohicca, lord, asks whether the Blessed One is free from illness & affliction, is carefree, strong, & living in comfort. And he says, "May the Blessed One, together with the community of monks, consent to tomorrow's meal with the brahman Lohicca."' And the Blessed One has consented."

Bhesika, người hớt tóc, được biết Thế Tôn nhận lời, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, đi đến Bà-la-môn Lohicca, khi đă đến, liền thưa với Bà-la-môn Lohicca: - Tôn giả, chúng tôi đă thay mặt Tôn giả thưa với Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Bà-la-môn Lohicca hỏi thăm Thế Tôn Gotama có được ít bệnh, ít năo, khinh an, khí lực sung măn không" và nói thêm: "Mong Thế Tôn nhận lời của Bà-la-môn Lohicca sáng mai đến dùng cơm với đại chúng Tỷ-kheo" và Thế Tôn nhận lời.

 

Then, as the night was ending, the brahman Lohicca had choice staple & non-staple foods prepared in his own home and then said to Rosika the barber, "Come, dear Rosika. Go to Gotama the contemplative and on arrival announce the time, [saying,] 'It is time, Master Gotama. The meal is ready.'"

Rồi Bà-la-môn, Lohicca sau khi đêm ấy đă măn, làm sẵn sàng tại nhà các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm rồi nói với Bhesika, người hớt tóc: - Này thiện nhân Bhesika, hăy đi đến Sa-môn Gotama, khi đă đến, hăy báo giờ cho Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, cơm đă sẵn sàng".

 

Responding, "As you say, sir," to the brahman Lohicca, Rosika the barber went to the Blessed One and, on arrival, bowing down to him, stood to one side. As he was standing there, he announced the time, [saying,] "It is time, lord. The meal is ready."

- Tôn giả, xin vâng ! Bhesika người hớt tóc, vâng theo lời của Bà-la-môn Lohicca, đi đến Thế Tôn, khi đă đến, liền đảnh lễ Thế Tôn và đứng một bên. Sau khi đứng một bên, Bhesika người hớt tóc báo thời giờ cho Sa-môn Gotama: "Bạch Thế Tôn, giờ đă đến, cơm đă sẵn sàng".

 

Then the Blessed One, having put on his robes early in the morning, carrying his bowl & outer robe, went together with a community of monks to Salavatika. Meanwhile, Rosika the barber was following right behind the Blessed One and said to him, "Lord, an evil viewpoint to this effect has arisen to the brahman Lohicca: 'Suppose that a priest or contemplative were to arrive at a skillful doctrine. Having arrived at a skillful doctrine, he should not declare it to anyone else, for what can one person do for another? It would be just the same as if, having cut through an old bond, one were to make another new bond. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?' It would be good if the Blessed One would extract the brahman Lohicca from this evil viewpoint."

Khi ấy Thế Tôn buổi sáng đắp y, đem theo y bát và cùng với chúng Tỷ-kheo đi đến Sàlavatikà. Lúc bấy giờ, Bhesika, người hớt tóc, đang đi sau lưng Thế Tôn. Rồi Bhesika, người hớt tóc bạch Thế Tôn: - Bà-la-môn Lohicca có khởi lên ác kiến sau đây: "Ở đời có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chúng được thiện pháp, không nên nói cho người khác biết, v́ có ai lại làm giúp cho ai được ? Ví như một người, sau khi cắt sợi dây trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp. V́ có ai lại làm giúp cho ai được "? Bạch Thế Tôn, lành thay, nếu Thế Tôn có thể giúp Bà-la-môn Lohicca trừ ác kiến ấy !

 

"Perhaps that will be, Rosika. Perhaps that will be."

- Này Bhesika, việc ấy có thể được. Này Bhesika, việc ấy có thể được.

 

Then the Blessed One went to the brahman Lohicca's home. On arrival, he sat down on a seat made ready. The brahman Lohicca, with his own hand, served & satisfied the Blessed One & the community of monks with choice staple & non-staple foods. Then, when the Blessed One had eaten and had removed his hand from his bowl, the brahman Lohicca took a lower seat and sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him, "Is it true, Lohicca, that an evil viewpoint to this effect has arisen to you: 'Suppose that a priest or contemplative were to arrive at a skillful doctrine. Having arrived at a skillful doctrine, he should not declare it to anyone else, for what can one person do for another? It would be just the same as if, having cut through an old bond, one were to make another new bond. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?'?"

Lúc bấy giờ, Thế Tôn đến tại cư xá của Bà-la-môn Lohicca, khi đến liền ngồi trên chỗ đă soạn sẵn. Bà-la-môn Lohicca tự tay làm cho chúng Tỷ-kheo với đức Phật là vị cầm đầu, thỏa măn với những món thượng vị, loại cứng loại mềm Bà-la-môn Lohicca, sau khi biết Thế Tôn dùng cơm xong, tay đă rời khỏi bát, liền lấy một ghế ngồi thấp khác và ngồi xuống một bên. Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn Lohicca: - Này Lohicca, có thật chăng, Ngươi khởi lên ác kiến như sau: "Ở đời, có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác biết, v́ có ai lại làm giúp cho ai được? Ví như một người sau khi cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu ấy là ác pháp, tham pháp. V́ có ai lại làm giúp cho ai được?"

 

"Yes, Master Gotama."

- Vâng phải, Tôn giả Gotama !

 

"What do you think, Lohicca. Don't you reign over Salavatika?"

- Này Lohicca, Ngươi nghĩ thế nào ? Có phải Ngươi ở tại Sàlavatikà ?

 

"Yes, Master Gotama."

- Vâng phải, Tôn giả Gotama !

 

"Now, suppose someone were to say, 'The brahman Lohicca reigns over Salavatika. He alone should consume the fruits & revenues of Salavatika, and not share them with others.' Would someone speaking in this way be a creator of obstacles for your subjects, or would he not?"

- Này Lohicca, nếu có người nói: "Bà-la-môn Lohicca sống ở Sàlavatikà. Hăy để Bà-la-môn Lohicca hưởng một ḿnh mọi sản phẩm của Sàlavatikà, không cho một ai khác". Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai sống tùy thuộc vào Ngươi, có phải không ?

 

"He would be a creator of obstacles, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, là người gây chướng ngại.

 

"And, being a creator of obstacles, would he be sympathetic for their welfare or not?"

- Này Lohicca, đă là người gây chướng ngại, người ấy có phải là người có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia ?

 

"He would not be sympathetic for their welfare, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích.

 

"And in one not sympathetic for their welfare, would his mind be established in good will for them, or in animosity?"

- Đă không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú từ tâm hay an trú hại tâm ?

 

"In animosity, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, hại tâm !

 

"When the mind is established in animosity, is there wrong view or right view?"

- Khi an trú hại tâm, như vậy là chánh kiến hay tà kiến ?

 

"Wrong view, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, là tà kiến!

 

"Now, for one of wrong view, Lohicca, I tell you, there is one of two destinations: either hell or the animal womb.

- Này Lohicca, Ta nói rằng, một người tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.

 

"What do you think, Lohicca. Doesn't King Pasenadi Kosala reign over Kasi & Kosala?"

Này Lohicca, ngươi nghĩ thế nào? Có phải vua Pasenadi Kosala (Ba-tư-nặc-câu-tát-la) ở tại Kasi - Kosala (Ca-Thi, Câu-tát-la) không ?

 

"Yes, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, vâng phải !

 

"Now, suppose someone were to say, 'King Pasenadi Kosala reigns over Kasi & Kosala. He alone should consume the fruits & revenues of Kasi & Kosala, and not share them with others.' Would someone speaking in this way be a creator of obstacles for King Pasenadi's subjects — you & others — or would he not?"

- Này Lohicca, nếu có người nói: "Vua Pasenadi Kosala sống ở Kasi-Kosala. Hăy để vua Pasenadi Kosala hưởng một ḿnh mọi sản phẩm của Kasi - Kosala, không một ai khác". Người nói như vậy có phải là người gây chướng ngại cho những ai sống tùy thuộc vào vua Pasenadi Kosala, có phải không ?

 

"He would be a creator of obstacles, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, là người đă gây chướng ngại.

 

"And, being a creator of obstacles, would he be sympathetic for their welfare or not?"

- Này Lohicca, đă là người gây chướng ngại, người ấy có phải là người có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia hay là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích cho những người kia.

 

"He would not be sympathetic for their welfare, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, là người không có từ tâm nghĩ đến lợi ích.

 

"And in one not sympathetic for their welfare, would his mind be established in good will for them, or in animosity?"

- Đă không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú từ tâm hay an trú hại tâm ?

 

"In animosity, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, hại tâm !

 

"When the mind is established in animosity, is there wrong view or right view?"

- Khi an trú hại tâm, như vậy là chánh kiến hay tà kiến ?

 

"Wrong view, Master Gotama."

- Tôn giả Gotama, là tà kiến !

 

"Now, for one of wrong view, Lohicca, I tell you, there is one of two destinations: either hell or the animal womb.

Này Lohicca, ta nói rằng, một người tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.

 

"So then, Lohicca, if anyone were to say, 'The brahman Lohicca reigns over Salavatika. He alone should consume the fruits & revenues of Salavatika, and not share them with others,' he, speaking in this way, would be a creator of obstacles for your subjects. Being a creator of obstacles, he would not be sympathetic for their welfare. In one not sympathetic for their welfare, the mind would be established in animosity for them. When the mind is established in animosity, there is wrong view. For one of wrong view, I tell you, there is one of two destinations: either hell or the animal womb. In the same way, if anyone were to say, 'Suppose that a priest or contemplative were to arrive at a skillful doctrine. Having arrived at a skillful doctrine, he should not declare it to anyone else, for what can one person do for another? It would be just the same as if, having cut through an old bond, one were to make another new bond. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?' — he, speaking in this way, would be a creator of obstacles for those children of good family who, coming to the doctrine & discipline revealed by the Tathagata, attain the sort of grand distinction where they attain the fruit of stream-entry, the fruit of once-returning, the fruit of non-returning, the fruit of arahantship; and for those who ripen deva wombs for the sake of bringing about the deva state. Being a creator of obstacles, he would not be sympathetic for their welfare. In one not sympathetic for their welfare, the mind would be established in animosity for them. When the mind is established in animosity, there is wrong view. For one of wrong view, I tell you, there is one of two destinations: either hell or the animal womb.

Này Lohicca, nếu có người nói: "Bà-la-môn ohicca sống ở Sàlavatikà. Hăy để Bà-la-môn Lohicca hưởng một ḿnh mọi sản phẩm của Sàlavatikà, không cho một ai khác". Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai tùy thuộc vào Ngươi; đă là người gây chướng ngại, người ấy không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú hại tâm; và đă an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến. Đă như vậy, này Lohicca, nếu có người nói: "Ở đời có vị Sa-môn hay Bà-la-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người ta biết, v́ có ai lại làm giúp cho ai được?. Ví như một người cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu là ác pháp, tham pháp. V́ có ai lại làm giúp cho ai được?". Người nói vậy gây chướng ngại cho những thiện nam tử đến với pháp luật do đức Như Lai giảng dạy và chứng được những quả vị thù thắng đặc biệt như Dự lưu, Nhất lai, Bất lai hay A-la-hán quả. Người nói vậy cũng gây chướng ngại cho những vị đang làm cho thành tựu sư tái sanh lên các cơi trời để được sanh làm chư Thiên. Đă là người gây chướng ngại, người ấy không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú hại tâm; và đă an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến. Và này Lohicca, ta nói rằng một người có tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sanh.

 

"And if anyone were to say, 'King Pasenadi Kosala reigns over Kasi & Kosala. He alone should consume the fruits & revenues of Kasi & Kosala, and not share them with others,' he, speaking in this way, would be a creator of obstacles for King Pasenadi's subjects — you & others. Being a creator of obstacles, he would not be sympathetic for their welfare. In one not sympathetic for their welfare, the mind would be established in animosity for them. When the mind is established in animosity, there is wrong view. For one of wrong view, I tell you, there is one of two destinations: either hell or the animal womb. In the same way, if anyone were to say, 'Suppose that a priest or contemplative were to arrive at a skillful doctrine. Having arrived at a skillful doctrine, he should not declare it to anyone else, for what can one person do for another? It would be just the same as if, having cut through an old bond, one were to make another new bond. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?' — he, speaking in this way, would be a creator of obstacles for those children of good family who, coming to the doctrine & discipline revealed by the Tathagata, attain the sort of grand distinction where they attain the fruit of stream-entry, the fruit of once-returning, the fruit of non-returning, the fruit of arahantship; and also for those who ripen deva wombs for the sake of bringing about the deva state. Being a creator of obstacles, he would not be sympathetic for their welfare. In one not sympathetic for their welfare, the mind would be established in animosity for them. When the mind is established in animosity, there is wrong view. For one of wrong view, I tell you, there is one of two destinations: either hell or the animal womb.

Này Lohicca, nếu có người nói: "Vua Pasenadi Kosala sống ở tại Kasi-Kosala. Hăy để vua Pasenadi Kosala hưởng một ḿnh mọi sản phẩm của Kasi -Kosala, không cho một ai khác". Người nói vậy là người gây chướng ngại cho ai sống tùy thuộc vào người. Đă là người gây nguy hiểm, người ấy không tha thiết đến hạnh phúc. Đă không tha thiết đến hạnh phúc, người ấy an trú hại tâm; và an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến. Đă như vậy, này Lohicca, nếu có ai nói: "Ở đời có vị Sa-môn chứng được thiện pháp, sau khi chứng được thiện pháp, không nên nói cho người khác, v́ có ai lại làm giúp cho ai được ? Ví như một người cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi dây mới khác nữa. Ta nói sự thành tựu ấy là ác pháp, tham pháp. V́ có ai lại làm giúp cho ai được ?" Người nói vậy gây chướng ngại cho người thiện nam tử đến với pháp luật do đức Như Lai giảng dạy và chứng được những quả vị thù thắng đặc biệt như Dự lưu, Nhất lai, Bất lai hay A-la-hán quả. Người nói vậy gây nguy hiểm cho những vị đang làm cho thành tựu sự tái sanh lên các cơi trời để được sanh làm chư Thiên. Đă là người gây chướng ngại, người ấy không có từ tâm nghĩ đến lợi ích, người ấy an trú hại tâm; và đă an trú hại tâm tức thuộc về tà kiến". Và này Lohicca, Ta nói rằng một người có tà kiến sẽ sanh vào một trong hai ác thú sau đây: địa ngục hay súc sinh.

 

"Lohicca, there are these three sorts of teacher who are worthy of criticism in the world, and when anyone criticizes these sorts of teachers, the criticism is true, factual, righteous, & unblameworthy. Which three?

Này Lohicca, ở đời có ba vị đạo sư đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm. Thế nào là ba ?

 

"There is the case where a certain teacher has not attained the goal of the contemplative life for which one goes forth from the home life into homelessness. He, not having attained that goal of the contemplative life, teaches his disciples, 'This is for your welfare. This is for your happiness.' His disciples don't listen, don't lend ear, don't put forth an intent for gnosis. They practice in a way deviating from the teacher's instructions. He should be criticized, saying, 'You, venerable sir, have not attained the goal of the contemplative life for which one goes forth from the home life into homelessness. Not having attained that goal of the contemplative life, you teach your disciples, "This is for your welfare. This is for your happiness." Your disciples don't listen, don't lend ear, don't put forth an intent for gnosis, and practice in a way deviating from the teacher's instructions. It's just as if a man were to pursue [a woman] who pulls away, or to embrace one who turns her back. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?' This is the first teacher who is worthy of criticism in the world, and when anyone criticizes this sort of teacher, the criticism is true, factual, righteous, & unblameworthy.

Này Lohicca, ở đời có một vị đạo sư không chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả, vị này thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người ! Như thế này là hạnh phúc cho các người !" Những đệ tử này không nghe lời dạy của vị ấy, không để tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết và sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư. Đạo sư như vậy cần phải được khiển trách: "Đại đức không chứng mục đích Sa-môn quả mà Đại đức xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Đại đức thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người. Như thế này là hạnh phúc cho các người". Những đệ tử này không nghe lời dạy của Đại đức, không để tai ghi nhận, không trú tâm phát xuất từ hiểu biết và sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư. Như người tán tỉnh cô gái muốn xa ḿnh, hay ôm hôn cô gái muốn né mặt ḿnh, ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp v́ có ai lại làm giúp cho ai được ?" Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ nhất đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.

 

"Then there is the case where a certain teacher has not attained the goal of the contemplative life for which one goes forth from the home life into homelessness. He, not having attained that goal of the contemplative life, teaches his disciples, 'This is for your welfare. This is for your happiness.' His disciples listen, lend ear, put forth an intent for gnosis, and practice in a way not deviating from the teacher's instructions. He should be criticized, saying, 'You, venerable sir, have not attained the goal of the contemplative life for which one goes forth from the home life into homelessness. Not having attained that goal of the contemplative life, you teach your disciples, "This is for your welfare. This is for your happiness." Your disciples listen, lend ear, put forth an intent for gnosis, and practice in a way not deviating from the teacher's instructions. It's just as if a man, neglecting his own field, were to imagine that another's field should be weeded. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?' This is the second teacher who is worthy of criticism in the world, and when anyone criticizes this sort of teacher, the criticism is true, factual, righteous, & unblameworthy.

Lại nữa, này Lohicca, ở đời có vị đạo sư không chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, vị này thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người ! Như thế này là hạnh phúc cho các người !". Những đệ tử này nghe lời dạy của vị ấy, lóng tai ghi nhận và trú tâm phát xuất từ hiểu biết, nhưng sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư. Đạo sư như vậy cần phải được khiển trách; Đại đức không chứng mục đích Sa-môn quả mà Đại đức xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Đại đức thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người ! Như thế này là hạnh phúc cho các người". Những đệ tử này nghe lời dạy của Đại đức, lóng tai ghi nhận, trú tâm phát xuất từ hiểu biết, nhưng sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư. Như người bỏ ruộng dưa của ḿnh mà nghĩ đến việc nhỏ cỏ cho ruộng của người. Ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp v́ có ai lại làm giúp cho ai được ?" Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ hai đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không sai lầm.

 

"Then there is the case where a certain teacher has attained the goal of the contemplative life for which one goes forth from the home life into homelessness. He, having attained that goal of the contemplative life, teaches his disciples, 'This is for your welfare. This is for your happiness.' His disciples don't listen, don't lend ear, don't put forth an intent for gnosis. They practice in a way deviating from the teacher's instructions. He should be criticized, saying, 'You, venerable sir, have attained the goal of the contemplative life for which one goes forth from the home life into homelessness. Having attained that goal of the contemplative life, you teach your disciples, "This is for your welfare. This is for your happiness." Your disciples don't listen, don't lend ear, don't put forth an intent for gnosis, and practice in a way deviating from the teacher's instructions. It's just as if, having cut through an old bond, one were to make another new bond. I say that such a thing is an evil, greedy deed, for what can one person do for another?' This is the third teacher who is worthy of criticism in the world, and when anyone criticizes this sort of teacher, the criticism is true, factual, righteous, & unblameworthy."

Lại nữa, này Lohicca, ở đời có vị đạo sư không chứng mục đích của Sa-môn quả mà mọi người xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, vị này thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các người ! Như thế này là hạnh phúc cho các người". Những đệ tử này không nghe lời dạy của vị ấy, không lóng tai nghi nhận, không trú tâm xuất phát từ hiểu biết, sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư. Đạo sư như vậy cần phải được khiển trách: "Đại đức không chứng được mục đích Sa-môn quả mà Đại đức xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, hướng đến. Không chứng được mục đích Sa-môn quả ấy, Đại đức thuyết pháp cho các đệ tử: "Như thế này là lợi ích cho các ngươi ! Như thế này là hạnh phúc cho các ngươi!" Những đệ tử này nghe lời dạy của Đại đức, lóng tai ghi nhận, trú tâm phát xuất từ hiểu biết, sống trái ngược với giáo pháp của vị bổn sư. Như người cắt sợi dây cũ trói buộc, lại tự làm một sợi mới khác né mặt ḿnh, ta nói cử chỉ ấy là ác pháp, tham pháp v́ có ai lại làm giúp cho ai được ?" Này Lohicca, như vậy là hạng đạo sư thứ ba đáng bị chỉ trích và ai chỉ trích đạo sư như vậy, sự chỉ trích của vị này chơn chánh, hợp pháp, không lỗi lầm.

 

When this was said, the brahman Lohicca said to the Blessed One, "But is there, Master Gotama, any teacher who is not worthy of criticism in the world?"

Khi nghe nói như vậy, Bà-la-môn Lohicca bạch đức Thế Tôn: - Tôn giả Gotama, ở đời có vị đạo sư nào không đáng bị chỉ trích ?

 

"There is, Lohicca, a teacher who is not worthy of criticism in the world."

- Này Lohicca, ở đời có vị đạo sư không đáng bị chỉ trích.

 

"But which teacher, Master Gotama, is not worthy of criticism in the world?"

- Tôn giả Gotama, ở đời, thế nào là đạo sư không đáng bị chỉ trích ?

 

"There is the case, Lohicca, where a Tathagata appears in the world, worthy & rightly self-awakened. He teaches the Dhamma admirable in its beginning, admirable in its middle, admirable in its end. He proclaims the holy life both in its particulars & in its essence, entirely perfect, surpassingly pure.

Này Lohicca, nay ở đời, Như Lai xuất hiện là bậc A-la-hán, Chánh Biến Tri, Minh Hạnh Túc, Thiện Thệ, Thế Gian Giải, Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật, Thế Tôn. Như Lai sau khi riêng tự chứng ngộ với thượng trí, thế giới này với thiên giới, ma giới, phạm thiên giới, gồm cả thế giới này với Sa-môn, Bà-la-môn, Thiên Nhơn, lại tuyên thuyết điều Ngài đă chứng ngộ. Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện đầy đủ văn nghĩa, Ngài truyền dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ thanh tịnh.

 

"A householder or householder's son, hearing the Dhamma, gains conviction in the Tathagata and reflects: 'Household life is confining, a dusty path. The life gone forth is like the open air. It is not easy living at home to practice the holy life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?'

Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe pháp ấy. Sau khi nghe pháp, người ấy sanh ḷng tín ngưỡng Như Lai. Khi có ḷng tín ngưỡng ấy, vị này suy nghĩ: "Đời sống gia đ́nh đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đ́nh có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh".

 

"So after some time he abandons his mass of wealth, large or small; leaves his circle of relatives, large or small; shaves off his hair & beard, puts on the ochre robes, and goes forth from the household life into homelessness.

Một thời gian sau, người ấy bỏ tài sản nhỏ hay tài sản lớn, bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, và xuất gia từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

"When he has thus gone forth, he lives restrained by the rules of the monastic code, seeing danger in the slightest faults. Consummate in his virtue, he guards the doors of his senses, is possessed of mindfulness & alertness, and is content [for details, see DN 2]...

Khi đă xuất gia như vậy, vị ấy sống chế ngự với sự chế ngự của giới bổn Pàtimokkha, đầy đủ oai nghi chánh hạnh, thấy nguy hiểm trong những lỗi nhỏ nhặt, thọ tŕ và học tập trong giới học, thân nghiệp, ngữ nghiệp thanh tịnh. Sanh hoạt trong sạch giới hạnh cụ túc, thủ hộ các căn, chánh niệm tỉnh giác, và biết tri túc.

 

Abandoning the Hindrances

^^^^^^

 

"Endowed with this noble aggregate of virtue, this noble restraint over the sense faculties, this noble mindfulness & alertness, and this noble contentment, he seeks out a secluded dwelling: a wilderness, the shade of a tree, a mountain, a glen, a hillside cave, a charnel ground, a forest grove, the open air, a heap of straw. After his meal, returning from his alms round, he sits down, crosses his legs, holds his body erect, and brings mindfulness to the fore.

Vị ấy, với giới uẩn cao quư này, với sự hộ tŕ các căn cao quư này, với chánh niệm tỉnh giác cao quư này, với hạnh biết đủ cao quư này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch, như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt.

 

"Abandoning covetousness with regard to the world, he dwells with an awareness devoid of covetousness. He cleanses his mind of covetousness. Abandoning ill will & anger, he dwells with an awareness devoid of ill will, sympathetic with the welfare of all living beings. He cleanses his mind of ill will & anger. Abandoning sloth & drowsiness, he dwells with an awareness devoid of sloth & drowsiness, mindful, alert, percipient of light. He cleanses his mind of sloth & drowsiness. Abandoning restlessness & anxiety, he dwells undisturbed, his mind inwardly stilled. He cleanses his mind of restlessness & anxiety. Abandoning uncertainty, he dwells having crossed over uncertainty, with no perplexity with regard to skillful mental qualities. He cleanses his mind of uncertainty.

Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái. Từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, ḷng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu t́nh, gột rửa tâm hết sân hận. Từ bỏ hôn trầm, thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm và thụy miên; với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm, thụy miên. Từ bỏ trạo cử hối tiếc, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối tiếc. Từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

 

"Suppose that a man, taking a loan, invests it in his business affairs. His business affairs succeed. He repays his old debts and there is extra left over for maintaining his wife. The thought would occur to him, 'Before, taking a loan, I invested it in my business affairs. Now my business affairs have succeeded. I have repaid my old debts and there is extra left over for maintaining my wife.' Because of that he would experience joy & happiness.

Như một người mắc nợ, liền làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, người ấy không những trả được nợ cũ, c̣n có tiền dư để nuôi dưỡng vợ. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia mắc nợ nên làm các nghề nghiệp. Những nghề này được phát đạt, ta không những trả được nợ cũ, c̣n có tiền dư để nuôi dưỡng vợ". Người ấy nhờ vậy được sung sướng, hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man falls sick — in pain & seriously ill. He does not enjoy his meals, and there is no strength in his body. As time passes, he eventually recovers from that sickness. He enjoys his meals and there is strength in his body. The thought would occur to him, 'Before, I was sick... Now I am recovered from that sickness. I enjoy my meals and there is strength in my body.' Because of that he would experience joy & happiness.

Như một người bị bệnh, đau đớn, trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Sau một thời gian người ấy khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể lực khôi phục. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị bệnh, đau đớn trầm trọng, ăn uống không tiêu, thể lực suy yếu. Nay ta khỏi bệnh, ăn uống tiêu thông, thể thực khôi phục". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man is bound in prison. As time passes, he eventually is released from that bondage, safe & sound, with no loss of property. The thought would occur to him, 'Before, I was bound in prison. Now I am released from that bondage, safe & sound, with no loss of my property.' Because of that he would experience joy & happiness.

Như một người bị nhốt trong ngục. Người ấy sau một thời gian, được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị nhốt trong ngục, nay ta được khỏi tù tội, an lạc kiện toàn, tài sản không bị giảm tổn". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man is a slave, subject to others, not subject to himself, unable to go where he likes. As time passes, he eventually is released from that slavery, subject to himself, not subject to others, freed, able to go where he likes. The thought would occur to him, 'Before, I was a slave... Now I am released from that slavery, subject to myself, not subject to others, freed, able to go where I like.' Because of that he would experience joy & happiness.

Như một người nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Người ấy, sau một thời gian, thoát khỏi cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người được giải thoát, được tự do đi lại. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia bị cảnh nô lệ, không được tự chủ, lệ thuộc người khác, không được tự do đi lại. Nay ta thoát cảnh nô lệ, được tự chủ, không lệ thuộc người khác, một người được giải thoát, được tự do đi lại". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.

 

"Now suppose that a man, carrying money & goods, is traveling by a road through desolate country. As time passes, he eventually emerges from that desolate country, safe & sound, with no loss of property. The thought would occur to him, 'Before, carrying money & goods, I was traveling by a road through desolate country. Now I have emerged from that desolate country, safe & sound, with no loss of my property.' Because of that he would experience joy & happiness.

Như một người giàu có, nhiều tài sản, đang đi qua băi sa mạc, thiếu lương thực, đầy những nguy hiểm. Người ấy, sau một thời gian đă đi khỏi sa mạc, đến đầu làng vô sự, yên ổn, không có nguy hiểm. Người ấy nghĩ: "Ta trước kia giàu có, nhiều tài sản, đi qua băi sa mạc thiếu lương thực, đầy những nguy hiểm. Nay ta đă đi qua khỏi băi sa mạc ấy, đến đầu làng vô sự, yên ổn, không có nguy hiểm". Người ấy nhờ vậy được sung sướng hoan hỷ.

 

"In the same way, when these five hindrances are not abandoned in himself, the monk regards it as a debt, a sickness, a prison, slavery, a road through desolate country. But when these five hindrances are abandoned in himself, he regards it as unindebtedness, good health, release from prison, freedom, a place of security. Seeing that they have been abandoned within him, he becomes glad. Glad, he becomes enraptured. Enraptured, his body grows tranquil. His body tranquil, he is sensitive to pleasure. Feeling pleasure, his mind becomes concentrated.

Như vậy, Tỷ-kheo tự ḿnh quán năm triền cái chưa xả ly, như món nợ, như bệnh hoạn, như ngục tù, như cảnh nô lệ, như con đường sa mạc. Này Đại vương, cũng như không mắc nợ, như không bệnh tật, như được khỏi tù tội, như được tự do, như đất lành yên ổn, này Đại vương, Tỷ-kheo quán năm triền cái khi diệt trừ chúng. Khi quán tự thân đă xả ly năm triền cái ấy, hân hoan sanh; do hân hoan nên hỷ sanh; do tâm hoan hỷ, thân được khinh an; do thân khinh an, lạc thọ sanh; do lạc thọ, tâm được định tĩnh.

 

The Four Jhanas

^^^^^^

 

"Quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, he enters and remains in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born from withdrawal. Just as if a skilled bathman or bathman's apprentice would pour bath powder into a brass basin and knead it together, sprinkling it again & again with water, so that his ball of bath powder — saturated, moisture-laden, permeated within & without — would nevertheless not drip; even so, the monk permeates... this very body with the rapture & pleasure born of withdrawal. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born from withdrawal. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Tỷ-kheo ly dục, ly ác pháp, chứng và trú thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm, với tứ. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này Lohicca, như một người hầu tắm lăo luyện hay đệ tử người hầu tắm. Sau khi rắc bột tắm trong thau bằng đồng, liền nhồi bột ấy với nước, cục bột ấy thấm nhuần nước ướt trào trộn với nước ướt, thấm ướt cả trong lẫn ngoài với nước, nhưng không chảy thành giọt - cũng vậy này Lohicca, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy trên thân ḿnh với hỷ lạc do ly dục sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do ly dục sanh ấy thấm nhuần. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

"Furthermore, with the stilling of directed thought & evaluation, he enters & remains in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance. He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the rapture & pleasure born of composure. Just like a lake with spring-water welling up from within, having no inflow from the east, west, north, or south, and with the skies supplying abundant showers time & again, so that the cool fount of water welling up from within the lake would permeate & pervade, suffuse & fill it with cool waters, there being no part of the lake unpervaded by the cool waters; even so, the monk permeates... this very body with the rapture & pleasure born of composure. There is nothing of his entire body unpervaded by rapture & pleasure born of composure. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Lại nữa, Tỷ-kheo ấy diệt tầm và tứ, chứng và trú thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm Tỷ-kheo ấy thấm nhuần, tẩm ướt làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này Lohicca, ví như một hồ nước, nước tự trong dâng lên, phương Đông không có lỗ nước chảy ra, phương Tây không có lỗ nước chảy ra, phương Bắc không có lỗ nước chảy ra, phương Nam không có lỗ nước chảy ra, và thỉnh thoảng trời lại mưa lớn. Suối nước mát từ hồ nước ấy phun ra thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy hồ nước ấy, với nước mát lạnh, không một chỗ nào của hồ nước ấy không được nước mát lạnh thấm nhuần. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với hỷ lạc do định sanh, không một chỗ nào trên toàn thân, không được hỷ lạc do định sanh ấy thấm nhuần. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

"And furthermore, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. He enters & remains in the third jhana, of which the noble ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.' He permeates & pervades, suffuses & fills this very body with the pleasure divested of rapture. Just as in a lotus pond, some of the lotuses, born & growing in the water, stay immersed in the water and flourish without standing up out of the water, so that they are permeated & pervaded, suffused & filled with cool water from their roots to their tips, and nothing of those lotuses would be unpervaded with cool water; even so, the monk permeates... this very body with the pleasure divested of rapture. There is nothing of his entire body unpervaded with pleasure divested of rapture. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Lại nữa, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là "Xả niệm lạc trú", chứng và an trú thiền thứ ba. Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân, không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này Lohicca, ví như trong hồ sen xanh, hồ sen hồng, hồ sen trắng, có những sen xanh, sen hồng hay sen trắng. Những bông sen ấy sanh trong nước, lớn lên trong nước, không vượt khỏi nước, nuôi sống dưới nước, từ đầu ngọn cho đến gốc rễ đều thấm nhuần tẩm ướt, đầy tràn thấu suốt bởi nước mát lạnh ấy, không một chỗ nào của toàn thể sen xanh, sen hồng hay sen trắng không được nước mát lạnh ấy thấm nhuần. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần, tẩm ướt, làm cho sung măn, tràn đầy thân ḿnh với lạc thọ không có hỷ ấy, không một chỗ nào trên toàn thân không được lạc thọ không có hỷ ấy thấm nhuần. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

"And furthermore, with the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — he enters & remains in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither-pleasure-nor-pain. He sits, permeating the body with a pure, bright awareness. Just as if a man were sitting covered from head to foot with a white cloth so that there would be no part of his body to which the white cloth did not extend; even so, the monk sits, permeating the body with a pure, bright awareness. There is nothing of his entire body unpervaded by pure, bright awareness. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Lại nữa, Tỷ-kheo, xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú vào thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh. Tỷ-kheo ấy thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này Lohicca, ví như một người ngồi, dùng tấm vải trắng trùm đầu, không một chỗ nào trên toàn thân không được vải trắng ấy che thấu. Cũng vậy, Tỷ-kheo thấm nhuần toàn thân ḿnh với tâm thuần tịnh, trong sáng, không một chỗ nào trên toàn thân không được tâm thuần tịnh trong sáng ấy thấm nhuần. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

Insight Knowledge

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs and inclines it to knowledge & vision. He discerns: 'This body of mine is endowed with form, composed of the four primary elements, born from mother & father, nourished with rice & porridge, subject to inconstancy, rubbing, pressing, dissolution, & dispersion. And this consciousness of mine is supported here and bound up here.' Just as if there were a beautiful beryl gem of the purest water — eight faceted, well polished, clear, limpid, consummate in all its aspects, and going through the middle of it was a blue, yellow, red, white, or brown thread — and a man with good eyesight, taking it in his hand, were to reflect on it thus: 'This is a beautiful beryl gem of the purest water, eight faceted, well polished, clear, limpid, consummate in all its aspects. And this, going through the middle of it, is a blue, yellow, red, white, or brown thread.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to knowledge & vision. He discerns: 'This body of mine is endowed with form, composed of the four primary elements, born from mother & father, nourished with rice & porridge, subject to inconstancy, rubbing, pressing, dissolution, & dispersion. And this consciousness of mine is supported here and bound up here.' When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến. Vị ấy biết: Thân này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt, trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc. Này Lohicca, ví như một ḥn lưu ly bảo châu, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và một sợi giây được xâu qua ḥn ngọc ấy, sợi giây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt. Một người có mắt cầm ḥn ngọc ấy trên tay sẽ thấy: Ḥn lưu ly bảo châu này, đẹp đẽ, trong suốt, có tám mặt, khéo dũa, khéo mài, sáng chói, không uế trược, đầy đủ tất cả mỹ tướng. Và sợi giây này được xâu qua ḥn ngọc ấy, sợi giây màu xanh, màu vàng, màu đỏ, màu trắng hay màu vàng nhạt. Cũng vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy. Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến chánh trí, chánh kiến. Vị ấy biết: Thần này của ta là sắc pháp, do bốn đại thành, do cha mẹ sanh, nhờ cơm cháo nuôi dưỡng, vô thường, biến hoại, phấn toái, đoạn tuyệt, hoại diệt. Trong thân ấy thức ta lại nương tựa và bị trói buộc. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

The Mind-made Body

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs & inclines it to creating a mind-made body. From this body he creates another body, endowed with form, made of the mind, complete in all its parts, not inferior in its faculties. Just as if a man were to draw a reed from its sheath. The thought would occur to him: 'This is the sheath, this is the reed. The sheath is one thing, the reed another, but the reed has been drawn out from the sheath.' Or as if a man were to draw a sword from its scabbard. The thought would occur to him: 'This is the sword, this is the scabbard. The sword is one thing, the scabbard another, but the sword has been drawn out from the scabbard.' Or as if a man were to pull a snake out from its slough. The thought would occur to him: 'This is the snake, this is the slough. The snake is one thing, the slough another, but the snake has been pulled out from the slough.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, the monk directs & inclines it to creating a mind-made body. From this body he creates another body, endowed with form, made of the mind, complete in all its parts, not inferior in its faculties. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo chú tâm, hướng tâm đến sự hóa hiện một thân do ư làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ư làm ra, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào. Này Lohicca, ví như mọt người rút một cây lau ra ngoài vỏ. Người ấy nghĩ: Đây là vỏ, đây là cây lau; vỏ khác, cây lau khác và cây lau từ vỏ rút ra. Ví như một người rút thanh kiếm từ bao kiếm; thanh kiếm khác, bao kiếm khác, và thanh kiếm từ nơi bao kiếm rút ra. Ví như một người lột xác một con rắn. Người ấy nghĩ: Đây là con rắn, đây là xác rắn, con rắn khác, xác rắn khác, và con rắn từ nơi xác rắn được lột ra. Cũng vậy, này Lohicca, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến sự hiện hóa một thân do ư làm ra. Vị ấy tạo một thân khác từ nơi thân này, cũng là sắc pháp, do ư tạo thành, đầy đủ các chi tiết lớn nhỏ, không thiếu một căn nào. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

Supranormal Powers

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs & inclines it to the modes of supranormal powers. He wields manifold supranormal powers. Having been one he becomes many; having been many he becomes one. He appears. He vanishes. He goes unimpeded through walls, ramparts, & mountains as if through space. He dives in & out of the earth as if it were water. He walks on water without sinking as if it were dry land. Sitting cross-legged he flies through the air like a winged bird. With his hand he touches & strokes even the sun & moon, so mighty & powerful. He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds. Just as a skilled potter or his assistant could craft from well-prepared clay whatever kind of pottery vessel he likes, or as a skilled ivory-carver or his assistant could craft from well-prepared ivory any kind of ivory-work he likes, or as a skilled goldsmith or his assistant could craft from well-prepared gold any kind of gold article he likes; in the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to the modes of supranormal powers... He exercises influence with his body even as far as the Brahma worlds. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện h́nh, biến h́nh đi ngang qua vách, qua tường, qua núi như đi ngang hư không; độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền, như ở trong nước; đi trên nước không ch́m như trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như con chim; với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cơi Phạm thiên. Này Lohicca, ví như một người thợ gốm khéo tay, hay đệ tử người thợ gốm, với đất sét khéo nhồi nhuyễn, có thể làm các loại đồ gốm tùy theo sở thích. Này Lohicca, ví như một người thợ ngà khéo tay, hay đệ tử người thợ ngà, với ngà khéo đẽo dũa có thể làm các loại đồ ngà tùy theo sở thích. Ví như người thợ vàng khéo tay hay đệ tử người thợ vàng, với vàng khéo tinh nhuyễn có thể làm cho các loại đồ vàng tùy theo sở thích. Cũng vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm hướng tâm đến các thần thông. Vị ấy chứng được các thần thông một thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân; hiện h́nh biến h́nh, đi ngang qua vách, qua tường, qua núi, như đi ngang qua hư không; độn thổ trồi lên, ngang qua đất liền như ở trong nước; đi trên nước không ch́m như đi trên đất liền; ngồi kiết già đi trên hư không như c̣n chim; với bàn tay chạm và rờ mặt trời và mặt trăng, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy; có thể tự thân bay đến cơi Phạm thiên. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

Clairaudience

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs & inclines it to the divine ear-element. He hears — by means of the divine ear-element, purified & surpassing the human — both kinds of sounds: divine & human, whether near or far. Just as if a man traveling along a highway were to hear the sounds of kettledrums, small drums, conchs, cymbals, & tom-toms. He would know, 'That is the sound of kettledrums, that is the sound of small drums, that is the sound of conchs, that is the sound of cymbals, and that is the sound of tom-toms.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to the divine ear-element. He hears — by means of the divine ear-element, purified & surpassing the human — both kinds of sounds: divine & human, whether near or far. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ thông. Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Này Lohicca, ví như một người đang đi qua đường, nghe tiếng trống lớn, tiếng trống nhỏ, tiếng loa, tiếng xập xơa và tiếng kiểng. Người ấy nghĩ: "Đây là tiếng trống lớn, đây là tiếng trống nhỏ, đây là tiếng loa, tiếng xập xơa, tiếng kiểng". Cũng vậy, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến thiên nhĩ thông. Tỷ-kheo với thiên nhĩ thanh tịnh siêu nhân, có thể nghe hai loại tiếng, chư Thiên và Người, xa và gần. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

Mind Reading

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs & inclines it to knowledge of the awareness of other beings. He knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion. He discerns a mind with aversion as a mind with aversion, and a mind without aversion as a mind without aversion. He discerns a mind with delusion as a mind with delusion, and a mind without delusion as a mind without delusion. He discerns a restricted mind as a restricted mind, and a scattered mind as a scattered mind. He discerns an enlarged mind as an enlarged mind, and an unenlarged mind as an unenlarged mind. He discerns an excelled mind [one that is not at the most excellent level] as an excelled mind, and an unexcelled mind as an unexcelled mind. He discerns a concentrated mind as a concentrated mind, and an unconcentrated mind as an unconcentrated mind. He discerns a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind. Just as if a young woman — or man — fond of ornaments, examining the reflection of her own face in a bright mirror or a bowl of clear water would know 'blemished' if it were blemished, or 'unblemished' if it were not. In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to knowledge of the awareness of other beings. He knows the awareness of other beings, other individuals, having encompassed it with his own awareness. He discerns a mind with passion as a mind with passion, and a mind without passion as a mind without passion... a released mind as a released mind, and an unreleased mind as an unreleased mind. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của loài người với tâm của ḿnh, vị ấy biết được như sau: Tâm có tham, biết là tâm có tham. Tâm không có tham, biết là tâm không có tham. Tâm có sân, biết là tâm có sân. Tâm không có sân, biết là tâm không có sân. Tâm có si, biết là tâm có si. Tâm không có si, biết là tâm không có si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm, biết là đại hành tâm. Không phải đại hành tâm, biết không phải là đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng, Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng. Tâm thiền định, biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định. Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát, biết là tâm không giải thoát. Này Lohicca, ví như một người đàn bà, một người đàn ông, một thiếu niên trẻ hay một thanh niên ưa trang sức, nh́n mặt của ḿnh trong tấm gương trong sạch, sáng suốt hay một chậu nước trong. Nếu mặt có tỳ vết, liền biết mặt có tỳ vết; nếu mặt không có tỳ vết, liền biết mặt không có tỳ vết. Cũng vậy, này Đại vương, với tâm định tĩnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến tha tâm thông. Tỷ-kheo sau khi đi sâu vào tâm của chúng sanh, của mọi người với tâm của ḿnh, vị ấy biết được như sau: Tâm có tham, biết tâm có tham. Tâm không có tham, biết tâm không có tham. Tâm có sân biết tâm có sân. Tâm không có sân, biết tâm không có sân. . Tâm có si, biết tâm có si. Tâm không có si, biết tâm không có si. Tâm chuyên chú, biết là tâm chuyên chú. Tâm tán loạn, biết là tâm tán loạn. Đại hành tâm, biết là đại hành tâm; không phải là đại hành tâm, biết không phải là đại hành tâm. Tâm chưa vô thượng, biết là tâm chưa vô thượng. Tâm vô thượng, biết là tâm vô thượng. Tâm thiền định, biết là tâm thiền định. Tâm không thiền định, biết là tâm không thiền định. Tâm giải thoát, biết là tâm giải thoát. Tâm không giải thoát biết là tâm không giải thoát. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

Recollection of Past Lives

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs & inclines it to knowledge of the recollection of past lives (lit: previous homes). He recollects his manifold past lives, i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction & expansion, [recollecting], 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he recollects his manifold past lives in their modes & details. Just as if a man were to go from his home village to another village, and then from that village to yet another village, and then from that village back to his home village. The thought would occur to him, 'I went from my home village to that village over there. There I stood in such a way, sat in such a way, talked in such a way, and remained silent in such a way. From that village I went to that village over there, and there I stood in such a way, sat in such a way, talked in such a way, and remained silent in such a way. From that village I came back home.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to knowledge of the recollection of past lives. He recollects his manifold past lives... in their modes & details. When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Lohicca, ví như một người đi từ làng ḿnh đến làng khác, từ làng ấy đi đến một làng khác nữa, và từ làng này lại trở về làng của ḿnh. Người ấy nghĩ: "Ta từ làng của ḿnh đi đến làng kia, nơi đây ta đă đứng như thế này, đă ngồi như thế này, đă nói như thế này, đă yên lặng như thế này. Từ nơi làng nọ, ta đă trở về làng của ta". Như vậy, này Lohicca, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại kiếp và thành kiếp. Vị ấy nhớ: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra chỗ nọ, tại đây, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, ăn uống như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Tỷ-kheo nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

The Passing Away & Re-appearance of Beings

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, he directs & inclines it to knowledge of the passing away & re-appearance of beings. He sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, & mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — he sees beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma. Just as if there were a tall building in the central square [of a town], and a man with good eyesight standing on top of it were to see people entering a house, leaving it, walking along the street, and sitting in the central square. The thought would occur to him, 'These people are entering a house, leaving it, walking along the streets, and sitting in the central square.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to knowledge of the passing away & re-appearance of beings. He sees — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and he discerns how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma... When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí huệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng: "Này các Hiền giả, những Tôn giả này làm những điều ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, c̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cơi trời, trên đời này. Như vậy vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Này Lohicca, ví như một ṭa lầu có thượng đài, giữa ngă tư đường, một người có mắt đứng trên ấy, sẽ thấy những người đi vào nhà, đi từ nhà ra, đi qua lại trên đường, ngồi ở giữa ngă tư hay trên đài thượng. Người ấy nghĩ: "Những người này đi vào nhà, những người này đi từ nhà ra, những người này đi qua lại trên đường, những người này ngồi giữa ngă tư, trên đài thượng". Cũng vậy, này Lohicca, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng: Này các Hiền giả, những chúng sanh này làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến, những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Này các Hiền giả, c̣n những chúng sanh nào làm các thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cơi trời, trên đời này. Như vậy, với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh, vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của chúng. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

The Ending of Mental Fermentations

^^^^^^

 

"With his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, the monk directs & inclines it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. He discerns, as it is actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are mental fermentations... This is the origination of fermentations... This is the cessation of fermentations... This is the way leading to the cessation of fermentations.' His heart, thus knowing, thus seeing, is released from the fermentation of sensuality, the fermentation of becoming, the fermentation of ignorance. With release, there is the knowledge, 'Released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.' Just as if there were a pool of water in a mountain glen — clear, limpid, & unsullied — where a man with good eyesight standing on the bank could see shells, gravel, & pebbles, and also shoals of fish swimming about & resting, and it would occur to him, 'This pool of water is clear, limpid, & unsullied. Here are these shells, gravel, & pebbles, and also these shoals of fish swimming about & resting.' In the same way — with his mind thus concentrated, purified, & bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability — the monk directs & inclines it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. He discerns, as it is actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are mental fermentations... This is the origination of fermentations... This is the cessation of fermentations... This is the way leading to the cessation of fermentations.' His heart, thus knowing, thus seeing, is released from the fermentation of sensuality, the fermentation of becoming, the fermentation of ignorance. With release, there is the knowledge, 'Released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.' When a disciple of a teacher attains this sort of grand distinction, Lohicca, that is a teacher not worthy of criticism in the world, and if anyone were to criticize this sort of teacher, the criticism would be false, unfactual, unrighteous, & blameworthy."

"Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật "đây là khổ", biết như thật "đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật "đây là khổ diệt", biết như thật "đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật "đây là những lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật "đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: Ta đă giải thoát. Vị ấy biết: Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, việc cần làm đă làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa. Này Lohicca, ví như tại dăy núi lớn có một hồ nước, thuần tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Một người có mắt, đứng trên bờ sẽ thấy con hến, con ṣ, những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn cá bơi qua lại hay đứng một chỗ. Vị ấy nghĩ: "Đây là hồ nước thuận tịnh, trong sáng, không cấu nhiễm. Đây là những con hến, con ṣ, những ḥn đá, ḥn sạn, những đàn các đang bơi qua lại hay đứng yên một chỗ". Cũng vậy, này Lohicca, với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy. Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật "đây là nguyên nhân của khổ", biết như thật "đây là khổ diệt", biết như thật "đây là con đường đưa đến khổ diệt", biết như thật "đây là những lậu hoặc", biết như thật "đây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật "đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật "đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhờ nhận thức như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát, vị ấy biết: Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần làm đă làm; sau đời hiện tại, không có đời sống nào khác nữa. Này Lohicca, đệ tử của vị đạo sư nào chứng được quả vị thù thắng đặc biệt ấy, thời này Lohicca, vị đạo sư không đáng bị chỉ trích. Và ai chỉ trích một vị đạo sư như vậy, sự chỉ trích ấy sẽ không xác thực, không chân chánh, không hợp pháp, và có lỗi lầm.

 

When this was said, the brahman Lohicca said to the Blessed One: "Master Gotama, it's as if a man, having seized by the hair another man who was falling into the pit of hell, were to pull him up & set him on firm ground. In the same way, Master Gotama has pulled me up as I was falling into the pit of hell and has set me on firm ground. Magnificent, Master Gotama! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has Master Gotama — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to Master Gotama for refuge, to the Dhamma, & to the community of monks. May Master Gotama remember me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward, for life."

Khi nghe như vậy, Bà-la-môn Lohicca bạch đức Thế Tôn: - Như người nắm được tóc của một người sắp sửa rơi vào vực thẳm của địa ngục, nhắc bổng và đặt người ấy trên đất liền, cũng vậy Tôn giả Gotama đă nắm được tóc khi con sắp sửa rơi vào vực thẳm của địa ngục, nhắc bổng và đặt con trên đất liền. Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama ! Tôn giả Gotama, như người dựng đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra những ǵ che kín, chỉ đường cho kẻ bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy Chánh pháp đă được đức Thế Tôn dùng nhiều phương tiện tŕnh bày, nay con xin quy y đức Thế Tôn, quy y Pháp và quy y Tỷ-kheo Tăng. Mong đức Thế Tôn nhận con làm đệ tử từ nay trở đi cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |