I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Rajagaha in the Bamboo Grove, the Squirrels' Sanctuary. Then a number of monks from the [Blessed One's] native land, having completed the Rains Retreat in the native land, went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side.


Như vầy tôi nghe. Một thời Thế Tôn ở Rajagaha (Vương Xá) tại Veluvana (Trúc Lâm), Kalandakanivapa. Lúc ấy một số đông Tỷ-kheo người địa phương, sau khi an cư mùa mưa tại địa phương xong, liền đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Ngài và ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo đang ngồi một bên:

As they were sitting there, the Blessed One said to them, "Monks, whom in our native land do the native-land monks — his companions in the holy life — esteem in this way: 'Having few wants himself, he gives talks to the monks on fewness of wants. Contented himself, he gives talks to the monks on contentment. Secluded himself, he gives talks to the monks on seclusion. Unentangled himself, he gives talks to the monks on non-entanglement. Having aroused persistence in himself, he gives talks to the monks on arousing persistence. Consummate in his own virtue, he gives talks to the monks on becoming consummate in virtue. Consummate in his own concentration, he gives talks to the monks on becoming consummate in concentration. Consummate in his own discernment, he gives talks to the monks on becoming consummate in discernment. Consummate in his own release, he gives talks to the monks on becoming consummate in release. Consummate in his own knowledge & vision of release, he gives talks to the monks on becoming consummate in the knowledge & vision of release.1 He is one who exhorts, informs, instructs, urges, rouses, & encourages his companions in the holy life.'"

-- Này các Tỷ-kheo, ai ở tại địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự ḿnh thiểu dục và giảng về thiểu dục cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh tri túc và giảng về tri túc cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh độc cư và giảng về độc cư cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh không ô nhiễm và giảng về không ô nhiễm cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh tinh cần, tinh tấn và giảng về tinh cần, tinh tấn cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu giới hạnh và giảng về thành tựu giới hạnh cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu Thiền định và giảng về thành tựu Thiền định cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu trí tuệ và nói về thành tựu trí tuệ cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu giải thoát và nói về thành tựu giải thoát cho các Tỷ-kheo; tự ḿnh thành tựu giải thoát tri kiến và nói về thành tựu giải thoát tri kiến cho các Tỷ-kheo; vị giáo giới, vị khai thị, vị tŕnh bày, vị khích lệ, vị làm cho phấn khởi, vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ?".

"Lord, the monk named Punna Mantaniputta (Mantani's son) is esteemed by the native-land monks — his companions in the holy life — in this way: 'Having few wants himself, he gives talks to the monks on fewness of wants. Contented himself, he gives talks to the monks on contentment. Secluded himself, he gives talks to the monks on seclusion. Unentangled himself, he gives talks to the monks on non-entanglement. Having aroused persistence in himself, he gives talks to the monks on arousing persistence. Consummate in his own virtue, he gives talks to the monks on becoming consummate in virtue. Consummate in his own concentration, he gives talks to the monks on becoming consummate in concentration. Consummate in his own discernment, he gives talks to the monks on becoming consummate in discernment. Consummate in his own release, he gives talks to the monks on becoming consummate in release. Consummate in his own knowledge & vision of release, he gives talks to the monks on becoming consummate in the knowledge & vision of release. He is one who exhorts, informs, instructs, urges, rouses, & encourages his companions in the holy life.'"

-- Bạch Thế Tôn, Tôn giả Punna Mantaniputta là Tỷ-kheo địa phương được các Tỷ-kheo đồng phạm hạnh cùng một địa phương tán thán như sau: "Tự ḿnh thiểu dục và nói về thiểu dục cho các Tỷ-kheo... (như trên)... vị làm cho các vị đồng phạm hạnh hoan hỷ."

Now at that time Ven. Sariputta was sitting not far from the Blessed One. The thought occurred to him: "It's a gain, a great gain for Ven. Punna Mantaniputta that his knowledgeable companions in the holy life speak his praise point by point in the presence of the Teacher, and that the Teacher seconds that praise. Maybe sometime or other I, too, will go to meet with Ven. Punna Mantaniputta; maybe I'll have some conversation with him."

Lúc bấy giờ, Tôn giả Sariputta ngồi cách Thế Tôn không xa. Tôn giả Sariputta suy nghĩ như sau: "Hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Chơn hạnh phúc thay Tôn giả Punna Mantaniputta! Tôn giả đă được các vị đồng phạm hạnh có trí tán thán từng điểm một trước mặt bậc Đạo Sư, và được bậc Đạo Sư chấp nhận; có thể chúng ta sẽ gặp Tôn giả Punna Mantaniputta, tại một chỗ nào, trong một thời gian nào, có thể sẽ có một cuộc đàm luận với Tôn giả."

Then the Blessed One, having stayed at Rajagaha as long as he liked, set out wandering to Savatthi. Wandering by stages, he arrived there and stayed in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Ven. Punna Mantaniputta heard, "The Blessed One has arrived at Savatthi and is staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery." Setting his lodgings in order and taking his robes & bowl, he set out wandering to Savatthi. Wandering by stages, he went to where the Blessed One was staying in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. On arrival, having bowed down to the Blessed One, he sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One instructed, urged, roused, & encouraged him with a Dhamma talk. Then Ven. Punna — instructed, urged, roused, & encouraged with the Blessed One's Dhamma talk; delighting & approving of the Blessed One's words — got up from his seat, bowed down to the Blessed One, circumambulated him, and went to the Grove of the Blind for the day's abiding.

Thế Tôn trú tại Rajagaha (Vương Xá) lâu cho đến khi vừa ư, rồi khởi hành đi Savatthi; Ngài tuần tự đi và đến Savatthi. Ở đây, Thế Tôn trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika. Tôn giả Punna Mantaniputta được nghe: "Thế Tôn đă đến Savatthi, trú ở Savatthi, tại Jetavana, vườn ông Anathapindika". Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta thâu dọn lại sàng tọa, cầm y bát, khởi hành đi Savatthi. Tôn giả tuần tự đi đến Savatthi, Jetavana, vườn ông Anathapindika, đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn và ngồi xuống một bên. Thế Tôn thuyết pháp cho Tôn giả Punna Mantaniputta đang ngồi một bên, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ. Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về Ngài, từ tạ đi Andhavana để nghỉ trưa.

Then a certain monk went to Ven. Sariputta and, on arrival, said to him: "Friend Sariputta, the monk named Punna Mantaniputta whom you have so often praised — instructed, urged, roused, & encouraged with the Blessed One's Dhamma talk; delighting & approving of the Blessed One's words — has gotten up from his seat, bowed down to the Blessed One, circumambulated him, and has gone to the Grove of the Blind for the day's abiding." So Ven. Sariputta quickly picked up a sitting cloth and followed right behind Ven. Punna, keeping his head in sight. Ven. Punna plunged into the Grove of the Blind and sat down in the shade of a tree for the day's abiding. Ven. Sariputta also plunged into the Grove of the Blind and sat down in the shade of a tree for the day's abiding.

Rồi một Tỷ-kheo khác đến chỗ Tôn giả Sariputta ở, sau khi đến, thưa với Tôn giả Sariputta: "Hiền giả Sariputta, Hiền giả luôn luôn tán dương Tỷ-kheo Punna Mantaniputta; vị này được Thế Tôn thuyết pháp, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Thế Tôn, thân bên hữu hướng về Ngài, từ tạ đi đến Andhavana để nghỉ trưa". Rồi Tôn giả Sariputta vội vă đem theo tọa cụ, đi theo sau lưng Tôn giả Punna Mantaniputta, đầu hướng về trước mặt (để theo dơi). Rồi Tôn giả Punna Mantaniputta đi sâu vào rừng Andhavana, và ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây. Tôn giả Sariputta, sau khi đi sâu vào rừng Andhavana, ngồi nghỉ trưa dưới một gốc cây.

Then in the evening, Ven. Sariputta arose from his seclusion and went to Ven. Punna. On arrival, he exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. Punna, "My friend, is the holy life lived under the Blessed One?"

"Yes, my friend."

Rồi vào buổi chiều, Tôn giả Sariputta từ Thiền định độc cư đứng dậy, đến tại chỗ Tôn giả Punna Mantaniputta, sau khi đến nói lên với Tôn giả Punna Mantaniputta những lời chào đón, hỏi thăm, xă giao rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sariputta thưa với Tôn giả Punna Mantaniputta: -- Hiền giả, có phải chúng ta sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn? -- Thật như vậy, Hiền giả.

"And is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of virtue?"2

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích giới thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of mind [concentration]?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích tâm thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of view?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là mục đích kiến thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of the overcoming of perplexity?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích đoạn nghi thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of knowledge & vision of what is & is not the path?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of knowledge & vision of the way?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích đạo tri kiến thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"Then is the holy life lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of knowledge & vision?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích tri kiến thanh tịnh? -- Không phải vậy, Hiền giả.

"When asked if the holy life is lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of virtue, you say, 'No, my friend.' When asked if the holy life is lived under the Blessed One for the sake of purity in terms of mind... view... the overcoming of perplexity... knowledge & vision of what is & is not the path... knowledge & vision of the way... knowledge & vision, you say, 'No, my friend.' For the sake of what, then, my friend, is the holy life lived under the Blessed One?"

-- Hiền giả, khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích giới thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Khi hỏi ... tâm thanh tịnh? ... kiến thanh tịnh?... đoạn nghi thanh tịnh? ... đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh? ... đạo tri kiến thanh tịnh? ... Khi hỏi "có phải sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn là v́ mục đích tri kiến thanh tịnh?", Hiền giả trả lời "Không phải vậy". Như vậy, Hiền giả, với mục đích ǵ, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn?

"The holy life is lived under the Blessed One, my friend, for the sake of total Unbinding through lack of clinging."3

-- Hiền giả, với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn, nên sống phạm hạnh dưới sự chỉ dạy của Thế Tôn.

"But is purity in terms of virtue total Unbinding through lack of clinging?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải đạo tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn? -- Hiền giả, không phải vậy.

"Then is purity in terms of mind... view... the overcoming of perplexity... knowledge & vision of what is & is not the path... knowledge & vision of the way... knowledge & vision total Unbinding through lack of clinging?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn? -- Hiền giả, không phải vậy.

"Then is total Unbinding through lack of clinging something apart from these qualities?"

"No, my friend."

-- Hiền giả, có phải cái ǵ ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn? -- Hiền giả, không phải vậy.

"When asked if purity in terms of virtue... mind... view... the overcoming of perplexity... knowledge & vision of what is & is not the path... knowledge & vision of the way... knowledge & vision is total Unbinding through lack of clinging, you say, 'No, my friend.' But when asked if total Unbinding through lack of clinging is something apart from these qualities, you say, 'No, my friend.' Now how, my friend, is the meaning of these statements to be understood?"

-- Hiền giả, khi hỏi "có phải giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy. Khi hỏi "có phải tâm thanh tịnh ...? ... có phải kiến thanh tịnh ...? ... có phải đoạn nghi thanh tịnh ...? ... có phải đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải đạo tri kiến thanh tịnh là ...? ... có phải tri kiến thanh tịnh ...? ... có phải cái ǵ ngoài các pháp này là vô thủ trước Bát-niết-bàn?", Hiền giả trả lời: "Không phải vậy." Hiền giả, vậy ư nghĩa lời nói này cần phải được hiểu như thế nào?

"If the Blessed One had described purity in terms of virtue as total Unbinding through lack of clinging, my friend, then he would have defined something still accompanied by clinging as total Unbinding through lack of clinging. If he had described purity in terms of mind... view... the overcoming of perplexity... knowledge & vision of what is & is not the path... knowledge & vision of the way... knowledge & vision as total Unbinding through lack of clinging, then he would have defined something still accompanied by clinging as total Unbinding through lack of clinging. But if total Unbinding through lack of clinging were apart from these qualities, then a run-of-the-mill person would be totally unbound, inasmuch as a run-of-the-mill person is apart from these qualities.

-- Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố giới thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn th́ Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tâm thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đoạn nghi thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố đạo tri kiến thanh tịnh... Hiền giả, nếu Thế Tôn tuyên bố tri kiến thanh tịnh là vô thủ trước Bát-niết-bàn th́ Ngài cũng tuyên bố vô thủ trước Bát-niết-bàn là đồng đẳng với hữu thủ trước Bát-niết-bàn. Hiền giả, và nếu Thế Tôn tuyên bố cái ǵ ngoài các pháp ấy là vô thủ trước Bát-niết-bàn, th́ kẻ phàm phu có thể Bát-niết-bàn, v́ này Hiền giả, phàm phu là ngoài các pháp ấy.

"So, my friend, I will give you an analogy, for there are cases where it's through analogies that knowledgeable people can understand the meaning of what is being said. Suppose that while King Pasenadi Kosala was staying at Savatthi, some urgent business were to arise at Saketa; and that between Savatthi and Saketa seven relay chariots were made ready for him. Coming out the door of the inner palace in Savatthi, he would get in the first relay chariot. By means of the first relay chariot he would reach the second relay chariot. Getting out of the first relay chariot he would get in the second relay chariot. By means of the second relay chariot he would reach the third... by means of the third he would reach the fourth... by means of the fourth, the fifth... by means of the fifth, the sixth... by means of the sixth he would reach the seventh relay chariot. Getting out of the sixth relay chariot he would get in the seventh relay chariot. By means of the seventh relay chariot he would finally arrive at the door of the inner palace at Saketa. As he arrived there, his friends & companions, relatives & kin would ask him, 'Great king, did you come from Savatthi to the door of the inner palace in Saketa by means of this chariot?' Answering in what way, my friend, would King Pasenadi Kosala answer them correctly?"

Hiền giả, tôi sẽ cho Hiền giả một ví dụ, ở đây, một số kẻ có trí, nhờ ví dụ để hiểu ư nghĩa của lời nói. Hiền giả, như vua Pasenadi xứ Kosala trong khi ở tại Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho vua giữa Savatthi và Saketa. Hiền giả, rồi vua Pasenadi xứ Kosala, từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm thứ nhất đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, leo lên trạm xe thứ hai, nhờ trạm xe thứ hai đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm, từ bỏ trạm xe thứ tư, leo lên trạm xe thứ năm, nhờ trạm xe thứ năm đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu, leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy đến được Saketa, tại cửa nội thành. Khi vua đến tại cửa nội thành, các bộ trưởng cận thần, các thân thích cùng huyết thống hỏi như sau:"-- Tâu Đại vương có phải với trạm xe này, Bệ hạ đi từ Savatthi đến Saketa tại cửa nội thành?" Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế nào mới gọi là trả lời đúng đắn?

"Answering in this way, my friend, he would answer them correctly: 'Just now, as I was staying at Savatthi, some urgent business arose at Saketa; and between Savatthi and Saketa seven relay chariots were made ready for me. Coming out the door of the inner palace in Savatthi, I got in the first relay chariot. By means of the first relay chariot I reached the second relay chariot. Getting out of the first relay chariot I got in the second relay chariot. By means of the second relay chariot I reached the third... by means of the third I reached the fourth... by means of the fourth, the fifth... by means of the fifth, the sixth... by means of the sixth I reached the seventh relay chariot. Getting out of the sixth relay chariot I got in the seventh relay chariot. By means of the seventh relay chariot I finally arrived at the door of the inner palace at Saketa.' Answering in this way, he would answer them correctly."

-- Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala phải trả lời như thế này mới trả lời đúng đắn: "-- Ở đây, trong khi ta ở Savatthi, có công việc khẩn cấp khởi lên ở Saketa, và bảy trạm xe được sắp đặt cho ta, giữa Savatthi và Saketa. Ta từ cửa nội thành ra khỏi Savatthi, leo lên trạm xe thứ nhất, và nhờ trạm xe thứ nhất, ta đến được trạm xe thứ hai; từ bỏ trạm xe thứ nhất, ta leo lên trạm xe thứ hai; và nhờ trạm xe thứ hai, ta đến được trạm xe thứ ba; từ bỏ trạm xe thứ hai... đến được trạm xe thứ tư; từ bỏ trạm xe thứ ba... đến được trạm xe thứ năm; từ bỏ trạm xe thứ tư... đến được trạm xe thứ sáu; từ bỏ trạm xe thứ năm, leo lên trạm xe thứ sáu, nhờ trạm xe thứ sáu, đến được trạm xe thứ bảy; từ bỏ trạm xe thứ sáu... leo lên trạm xe thứ bảy, nhờ trạm xe thứ bảy, Ta đến được Saketa, tại cửa nội thành". Hiền giả, vua Pasenadi nước Kosala trả lời như vậy mới trả lời một cách đúng đắn.

"In the same way, my friend, purity in terms of virtue is simply for the sake of purity in terms of mind. Purity in terms of mind is simply for the sake of purity in terms of view. Purity in terms of view is simply for the sake of purity in terms of the overcoming of perplexity. Purity in terms of the overcoming of perplexity is simply for the sake of purity in terms of knowledge & vision of what is & is not the path. Purity in terms of knowledge & vision of what is & is not the path is simply for the sake of purity in terms of knowledge & vision of the way. Purity in terms of knowledge & vision of the way is simply for the sake of purity in terms of knowledge & vision. Purity in terms of knowledge & vision is simply for the sake of total Unbinding through lack of clinging. And it's for the sake of total Unbinding through lack of clinging that the holy life is lived under the Blessed One."

-- Cũng vậy, này Hiền giả, giới thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tâm thanh tịnh; tâm thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) kiến thanh tịnh; kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đoạn nghi thanh tịnh; đoạn nghi thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh; đạo phi đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) đạo tri kiến thanh tịnh; đạo tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) tri kiến thanh tịnh; tri kiến thanh tịnh chỉ có mục đích (đạt cho được) vô thủ trước Bát-niết-bàn. Này Hiền giả, sống phạm hạnh dưới sự chỉ dẫn của Thế Tôn là với mục đích vô thủ trước Bát-niết-bàn.

When this was said, Ven. Sariputta said to Ven. Punna Mantaniputta: "What is your name, friend, and how do your companions in the holy life know you?"

Khi được nói vậy, Tôn giả Sariputta nói với Tôn giả Punna Mantaniputta: -- Tôn giả tên là ǵ? Và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?

"My name is Punna, friend, and my companions in the holy life know me as Mantaniputta."

-- Hiền giả, tên tôi là Punna và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Mantaniputta.

"How amazing, my friend, how astounding, that Ven. Punna Mantaniputta has answered point by point with profound, profound discernment in the manner of a learned disciple who has rightly understood the Teacher's message! It's a gain, a great gain, for any of his companions in the holy life who get to see him and visit with him. Even if they had to carry him around on a cushion placed on top of their heads in order to see him and visit with him, it would be a gain for them, a great gain. And the fact that I have gotten to see him and visit with him has been a gain, a great gain for me."

-- Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đă được trả lời từng điểm một bởi một đệ tử nghe nhiều, đă biết rơ giáo lư của bậc Đạo Sư, và vị đệ tử ấy là Tôn giả Punna Mantaniputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Punna Mantaniputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, để được thân cận, th́ thật là hạnh phúc cho các vị ấy, thật là chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Punna Mantaniputta!

When this was said, Ven. Punna said to Ven. Sariputta: "And what is your name, friend, and how do your companions in the holy life know you?"

Khi được nói vậy, Tôn giả Punna Mantaniputta nói với Tôn giả Sariputta: -- Tôn giả tên là ǵ, và các vị đồng phạm hạnh biết Tôn giả như thế nào?

"My name is Upatissa, friend, and my companions in the holy life know me as Sariputta."

-- Hiền giả, tôi tên là Upatissa, và các vị đồng phạm hạnh biết tôi là Sariputta.

"What? I've been talking with the disciple who is like the Teacher himself without knowing that it is Ven. Sariputta? Had I known it was Ven. Sariputta, I wouldn't have answered at such length. How amazing, my friend, how astounding, that Ven. Sariputta has questioned point by point with profound, profound discernment in the manner of a learned disciple who has rightly understood the Teacher's message! It's a gain, a great gain, for any of his companions in the holy life who get to see him and visit with him. Even if they had to carry him around on a cushion placed on top of their heads in order to see him and visit with him, it would be a gain for them, a great gain. And the fact that I have gotten to see him and visit with him has been a gain, a great gain for me."

-- Tôi đang luận bàn với bậc đệ tử được xem là ngang hàng với bậc Đạo Sư mà không được biết là Tôn giả Sariputta. Nếu chúng tôi được biết là Tôn giả Sariputta, th́ chúng tôi đă không nói nhiều như vậy. Thật hy hữu thay, Hiền giả! Thật kỳ diệu thay, Hiền giả! Những câu hỏi sâu kín đă được trả lời từng điểm một, bởi một đệ tử nghe nhiều, đă biết rơ giáo lư của bậc Đạo Sư. Và vị đệ tử ấy là Tôn giả Sariputta. Thật hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh! Thật chơn hạnh phúc thay cho các vị đồng phạm hạnh... được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta! Nếu các vị đồng phạm hạnh đội Tôn giả Sariputta trên đầu với một cuộn vải làm khăn để được thăm viếng, được thân cận, th́ thật hạnh phúc cho các vị ấy, thật chơn hạnh phúc cho các vị ấy! Thật hạnh phúc cho chúng tôi, thật chơn hạnh phúc cho chúng tôi được thăm viếng, được thân cận Tôn giả Sariputta!

In this way did both great beings rejoice in each other's good words.

Như vậy, hai bậc cao đức ấy cùng nhau thiện thuyết, cùng nhau tùy hỷ.

Notes

1. See AN 10.69

2. Ven. Sariputta and Ven. Punna speak of this list of seven purities — purity in terms of virtue, mind, view, the overcoming of perplexity, knowledge & vision of what is & is not the path, knowledge & vision of the way, and knowledge & vision — as if it were a teaching familiar to both of them, and yet nowhere else is it mentioned as a Buddhist teaching in the discourses. The Atthaka Vagga (Sn 4), however, mentions various non-Buddhist sectarians who spoke of purity as the goal of their teaching and who variously defined that purity in terms of virtue, view, knowledge, & practice. Perhaps the seven types of purity listed in this discourse were originally non-Buddhist teachings that were adopted by the early Buddhist community and adapted to their own purpose for showing that these seven forms of purity functioned not as a goal of practice but as stages along the path to that goal. At any rate, this list of the seven purities formed the framework for Buddhaghosa's Visuddhimagga (The Path of Purity), the cornerstone of his Pali commentaries, in which the seven purities cover all three parts of the threefold training in virtue, concentration, & discernment.

3. Anupada-parinibbana. The Commentary gives two interpretations of this term. The first, taking upadana as clinging, is total Unbinding through lack of clinging. This, it says, refers to the fact that total Unbinding follows on the fruit of arahantship, which is devoid of clinging. The other meaning, taking upadana as sustenance, is total Unbinding with no sustenance. This, it says, refers to the fact that total Unbinding is independent of any condition. For an explanation of these meanings of the word upadana, see The Mind Like Fire Unbound, chapter 3.

See also: Sn 4.9.

^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |