I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying at Savatthi, in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery.
There he addressed the monks:
-"Monks!"



Tôi nghe như vầy:
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ), tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc).
Tại đây, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- "Chư Tỷ-kheo".

 

"Yes, lord," the monks replied.



– "Thưa vâng", các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said, "Monks, before my self-awakening, when I was still just an unawakened Bodhisatta, the thought occurred to me: 'Why don't I keep dividing my thinking into two sorts?'
-So I made thinking imbued with sensuality, thinking imbued with ill will, & thinking imbued with harmfulness one sort,
-And thinking imbued with renunciation, thinking imbued with non-ill will, & thinking imbued with harmlessness another sort.



Thế Tôn thuyết giảng như sau: Chư Tỷ-kheo, trước khi Ta giác ngộ, khi chưa thành Chánh Giác và c̣n là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Ta sống suy tư và chia hai suy tầm".
-Chư Tỷ-kheo, phàm có dục tầm nào, sân tầm nào, hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ nhất;
-Phàm có ly dục tầm nào, vô sân tầm nào, vô hại tầm nào, Ta phân thành phần thứ hai.

 

"And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with sensuality arose. I discerned that 'Thinking imbued with sensuality has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding.'


Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri: "Dục tầm này khởi lên nơi Ta, và dục tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn".

 

"As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided.
As I noticed that it leads to the affliction of others, it subsided.
As I noticed that it leads to the affliction of both, it subsided.
It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided.
Whenever thinking imbued with sensuality had arisen, I simply abandoned it, destroyed it, dispelled it, wiped it out of existence.


Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm này đưa đến tự hại", dục tầm được biến mất,
Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: "Dục tầm đưa đến hại người", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm đưa đến hại cả hai", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Dục tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận dục tầm.

 

"And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with ill will arose. I discerned that 'Thinking imbued with ill will has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding.'



Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi sân tầm khởi lên, Ta tuệ tri: "Sân tầm này khởi lên nơi Ta, và sân tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn".

 

"As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided.
As I noticed that it leads to the affliction of others, it subsided.
As I noticed that it leads to the affliction of both, it subsided.
It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided.
Whenever thinking imbued with sensuality had arisen, I simply abandoned it, destroyed it, dispelled it, wiped it out of existence.


Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Sân tầm này đưa đến tự hại", dục tầm được biến mất,
Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: "Sân tầm đưa đến hại người", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Sân tầm đưa đến hại cả hai", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Sân tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận sân tầm.

 

"And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with harmfulness arose. I discerned that 'Thinking imbued with harmfulness has arisen in me; and that leads to my own affliction or to the affliction of others or to the affliction of both. It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding.'



Chư Tỷ-kheo, rồi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Khi hại tầm khởi lên, Ta tuệ tri: "Hại tầm này khởi lên nơi Ta, và hại tầm này đưa đến tự hại, đưa đến hại người, đưa đến hại cả hai, diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn".

 

"As I noticed that it leads to my own affliction, it subsided.
As I noticed that it leads to the affliction of others, it subsided.
As I noticed that it leads to the affliction of both, it subsided.
It obstructs discernment, promotes vexation, & does not lead to Unbinding, it subsided.
Whenever thinking imbued with sensuality had arisen, I simply abandoned it, destroyed it, dispelled it, wiped it out of existence.


Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Hại tầm này đưa đến tự hại", dục tầm được biến mất,
Chư Tỷ-kheo, khi ta suy tư: "Hại tầm đưa đến hại người", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Hại tầm đưa đến hại cả hai", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, khi Ta suy tư: "Hại tầm diệt trí tuệ, dự phần vào phiền năo, không đưa đến Niết-bàn", dục tầm được biến mất.
Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta tiếp tục trừ bỏ, xả ly và đoạn tận hại tầm.

 

"Whatever a monk keeps pursuing with his thinking & pondering, that becomes the inclination of his awareness.

-If a monk keeps pursuing thinking imbued with sensuality, abandoning thinking imbued with renunciation, his mind is bent by that thinking imbued with sensuality.

-If a monk keeps pursuing thinking imbued with ill will, abandoning thinking imbued with non-ill will, his mind is bent by that thinking imbued with ill will.

-If a monk keeps pursuing thinking imbued with harmfulness, abandoning thinking imbued with harmlessness, his mind is bent by that thinking imbued with harmfulness.



Chư Tỷ-kheo, Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều vấn đề ǵ, thời tâm sanh khuynh hướng đối vấn đề ấy.
-Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về dục tầm, vị ấy từ bỏ ly dục tầm. Khi tâm đă nặng về dục tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về dục tầm.
-Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư quán sát nhiều về sân tầm, vị ấy từ bỏ vô sân tầm. Khi tâm đă nặng về sân tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về sân tầm
-Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về hại tầm, vị ấy từ bỏ vô hại tầm. Khi tâm đă nặng về hại tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về hại tầm.

 

"Just as in the last month of the Rains, in the autumn season when the crops are ripening, a cowherd would look after his cows: He would tap & poke & check & curb them with a stick on this side & that. Why is that? Because he foresees flogging or imprisonment or a fine or public censure arising from that [if he let his cows wander into the crops]. In the same way I foresaw in unskillful qualities drawbacks, degradation, & defilement, and I foresaw in skillful qualities rewards related to renunciation & promoting cleansing.



Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng mùa mưa, về mùa thu, khi lúa đă trổ hạt, một người mục đồng chăn giữ ḅ, cầm roi đánh các con ḅ bên này, đánh bên kia, chế ngự chúng, ngăn chận chúng. V́ sao vậy? Chư Tỷ-kheo, v́ người mục đồng thấy do nhân duyên này, đưa đến sự chết, sự tù tội, sự đánh đập hay sự trách móc. Chư Tỷ-kheo, cũng vậy, Ta đă thấy sự nguy hại, sự hạ liệt, sự uế nhiễm của các pháp bất thiện, và thấy sự viễn ly, sự lợi ích, sự thanh tịnh của các thiện pháp.

 

"And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with renunciation arose. I discerned that 'Thinking imbued with renunciation has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding.

-If I were to think & ponder in line with that even for a night, I do not envision any danger that would come from it. -If I were to think & ponder in line with that even for a day, I do not envision any danger that would come from it. -If I were to think & ponder in line with that even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it,
Except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.' So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed.



Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: "Ly dục tầm này khởi lên nơi Ta và ly dục tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền năo, đưa đến Niết-bàn".
-Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm) không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi.
-Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi.
-Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát (về ly dục tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi.
Và Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi th́ tâm bị dao động; khi tâm bị dao động th́ tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. V́ sao vậy? V́ để tâm Ta khỏi dao động.

 

"And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with non-ill will arose. I discerned that 'Thinking imbued with non-ill will has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding. If I were to think & ponder in line with that even for a night. If I were to think & ponder in line with that even for a day. If I were to think & ponder in line with that even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it, except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.' So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed.

Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: "Vô sân tầm này khởi lên nơi Ta và vô sân tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền năo, đưa đến Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta suy tư, quán sát (về vô sân tầm) không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về vô sân tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát (về vô sân tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Và Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi th́ tâm bị dao động; khi tâm bị dao động th́ tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. V́ sao vậy? V́ để tâm Ta khỏi dao động.

 

"And as I remained thus heedful, ardent, & resolute, thinking imbued with harmlessness arose. I discerned that 'Thinking imbued with harmlessness has arisen in me; and that leads neither to my own affliction, nor to the affliction of others, nor to the affliction of both. It fosters discernment, promotes lack of vexation, & leads to Unbinding. If I were to think & ponder in line with that even for a night. If I were to think & ponder in line with that even for a day. If I were to think & ponder in line with that even for a day & night, I do not envision any danger that would come from it, except that thinking & pondering a long time would tire the body. When the body is tired, the mind is disturbed; and a disturbed mind is far from concentration.' So I steadied my mind right within, settled, unified, & concentrated it. Why is that? So that my mind would not be disturbed.

Chư Tỷ-kheo, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần như vậy, khi ly dục tầm khởi lên, Ta tuệ tri như vầy: "Vô hại tầm này khởi lên nơi Ta và vô hại tầm này không đưa đến tự hại, không đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai, tăng trưởng trí tuệ, không dự phần vào phiền năo, đưa đến Niết-bàn". Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm Ta suy tư, quán sát (về vô hại tầm) không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban ngày Ta suy tư, quán sát (về vô hại tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Chư Tỷ-kheo, nếu ban đêm, ban ngày, Ta suy tư, quán sát (về vô hại tầm), không phải từ nhân duyên ấy Ta thấy sợ hăi. Và Ta suy tư, quán sát quá lâu, thân ta có thể mệt mỏi; khi thân mệt mỏi th́ tâm bị dao động; khi tâm bị dao động th́ tâm rất khó được định tĩnh. Chư Tỷ-kheo, rồi tự nội thân Ta trấn an tâm, trấn tịnh tâm, khiến được nhất tâm, khiến thành định tĩnh. V́ sao vậy? V́ để tâm Ta khỏi dao động.

 

"Whatever a monk keeps pursuing with his thinking & pondering, that becomes the inclination of his awareness.
-If a monk keeps pursuing thinking imbued with renunciation, abandoning thinking imbued with sensuality, his mind is bent by that thinking imbued with renunciation.
-If a monk keeps pursuing thinking imbued with non-ill will, abandoning thinking imbued with ill will, his mind is bent by that thinking imbued with non-ill will.
-If a monk keeps pursuing thinking imbued with harmlessness, abandoning thinking imbued with harmfulness, his mind is bent by that thinking imbued with harmlessness.



Chư Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vấn đề ǵ thời tâm sanh khuynh hướng đối với vấn đề ấy.
-Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về ly dục tầm, vị ấy từ bỏ dục tầm. Khi tâm đă đặt nặng về ly dục tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về ly dục tầm.
-Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về vô sân tầm,vị ấy từ bỏ sân tầm. Khi tâm đă đặt nặng về vô sân tầm, tâm vị ấy có khuynh hướng về vô sân tầm.
-Chư Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo suy tư, quán sát nhiều về bất hại tầm, vị ấy từ bỏ hại tầm. Khi tâm đă đặt nặng về bất hại tầm, thời tâm vị ấy có khuynh hướng về bất hại tầm.

 

"Just as in the last month of the hot season, when all the crops have been gathered into the village, a cowherd would look after his cows: While resting under the shade of a tree or out in the open, he simply keeps himself mindful of 'those cows.' In the same way, I simply kept myself mindful of 'those mental qualities.'



Chư Tỷ-kheo, ví như vào cuối tháng hè, khi tất cả lúa gạo đă cất vào kho thóc, một người mục đồng chăn giữ các con ḅ. Khi người mục đồng ở dưới gốc cây hay ở ngoài trời, người ấy có thể nghĩ đến có việc cần phải làm, và người ấy nghĩ: "Đây là những con ḅ". Chư Tỷ-kheo, cũng vậy ở đây, có việc cần phải làm, và Ta nghĩ: "Đây là những pháp".

 

"Unflagging persistence was aroused in me, and unmuddled mindfulness established. My body was calm & unaroused, my mind concentrated & single.
-Quite withdrawn from sensuality, withdrawn from unskillful mental qualities, I entered & remained in the first jhana: rapture & pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought & evaluation.
-With the stilling of directed thought & evaluation, I entered & remained in the second jhana: rapture & pleasure born of composure, unification of awareness free from directed thought & evaluation — internal assurance.
-With the fading of rapture I remained in equanimity, mindful & alert, and physically sensitive of pleasure. I entered & remained in the third jhana, of which the Noble Ones declare, 'Equanimous & mindful, he has a pleasurable abiding.'
-With the abandoning of pleasure & pain — as with the earlier disappearance of elation & distress — I entered & remained in the fourth jhana: purity of equanimity & mindfulness, neither pleasure nor pain.


Chư Tỷ-kheo, Ta phát tâm dơng mănh, tinh tấn, không có tiêu cực, niệm không tán loạn được an trú, tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt, tâm được định tĩnh nhất tâm.
-Chư Tỷ-kheo, Ta ly dục, ly ác, bất thiện pháp, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ.

-Diệt tầm và tứ, Ta chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh nhất tâm.

-Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, Ta chứng và an trú Thiền thứ ba.


-Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, Ta chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

"When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of recollecting my past lives. I recollected my manifold past lives, i.e., one birth, two birth, ... five birth, ten birth fifty, ..., a hundred birth, a thousand birth, a hundred thousand birth, many eons of cosmic contraction, many eons of cosmic expansion, many eons of cosmic contraction & expansion: 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure & pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus I remembered my manifold past lives in their modes & details.


Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sinh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mực như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

 

"This was the first knowledge I attained in the first watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.



Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ nhất Ta đă chứng được cuối đêm canh thứ nhất; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần

 

"When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of the passing away & reappearance of beings. I saw — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech & mind, who reviled the Noble Ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, & mind, who did not revile the Noble Ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified & surpassing the human — I saw beings passing away & re-appearing, and I discerned how they are inferior & superior, beautiful & ugly, fortunate & unfortunate in accordance with their kamma.


Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với Thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rơ rằng chúng sanh người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với Thiên nhăn thuần tịnh siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.

 

"This was the second knowledge I attained in the second watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.



Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ hai. Ta đă chứng được cuối đêm canh thứ hai; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần

 

"When the mind was thus concentrated, purified, bright, unblemished, rid of defilement, pliant, malleable, steady, & attained to imperturbability, I directed it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. I discerned, as it was actually present, that 'This is stress... This is the origination of stress... This is the cessation of stress... This is the way leading to the cessation of stress... These are fermentations... This is the origination of fermentations... This is the cessation of fermentations... This is the way leading to the cessation of fermentations.' My heart, thus knowing, thus seeing, was released from the fermentation of sensuality, released from the fermentation of becoming, released from the fermentation of ignorance. With release, there was the knowledge, 'Released.' I discerned that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'


Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm, đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là Nguyên nhân của Khổ", biết như thật: "Đây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là sự đoạn trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Ta tuệ tri: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, những việc cần làm đă làm xong, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa".

 

"This was the third knowledge I attained in the third watch of the night. Ignorance was destroyed; knowledge arose; darkness was destroyed; light arose — as happens in one who is heedful, ardent, & resolute.



Chư Tỷ-kheo, đó là minh thứ ba. Ta đă chứng được cuối đêm canh thứ ba; vô minh được đoạn trừ, minh sanh khởi, bóng tối được đoạn trừ, ánh sáng sanh khởi, trong khi Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần

 

"Suppose, monks, that in a forested wilderness there were a large low-lying marsh, in dependence on which there lived a large herd of deer; and a certain man were to appear, not desiring their benefit, not desiring their welfare, not desiring their rest from bondage. He would close off the safe, restful path that led to their rapture, and would open up a false path, set out a male decoy, place a female decoy, and thus the large herd of deer, at a later time, would fall into ruin & disaster. Then suppose that a certain man were to appear to that same large herd of deer, desiring their benefit, desiring their welfare, desiring their rest from bondage. He would open up the safe, restful path that led to their rapture, would close off the false path, take away the male decoy, destroy the female decoy, and thus the large herd of deer, at a later time, would come into growth, increase, & abundance.



Chư Tỷ-kheo, giống như trong khu rừng rậm rạp có một hồ nước lớn thâm sâu, và một đoàn nai lớn sống gần một bên. Có một người đến, không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, đưa đến hoan hỷ, người ấy sẽ chận đóng con đường này lại, sẽ mở con đường nguy hiểm, sẽ đặt con mồi đực, sẽ đặt con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, như vậy, sau một thời gian đoàn nai lớn ấy gặp ách nạn và hao ṃn dần. Chư Tỷ-kheo, có một người đến, muốn đoàn nai ấy được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn. Nếu có con đường nào được yên ổn, được an toàn, người ấy sẽ mở con đường này, sẽ đóng con đường nguy hiểm lại, sẽ đem con mồi đực đi, sẽ hủy bỏ con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, như vậy đoàn nai lớn ấy sau một thời gian sẽ được tăng trưởng, hưng thịnh, thành măn.

 

"I have given this simile in order to convey a meaning. The meaning is this: 'The large, low-lying marsh' is a term for sensual pleasures. 'The large herd of deer' is a term for beings. 'The man not desiring their benefit, not desiring their welfare, not desiring their rest from bondage' is a term for Mara, the Evil One. 'The false path' is a term for the eightfold wrong path, i.e., wrong view, wrong resolve, wrong speech, wrong action, wrong livelihood, wrong effort, wrong mindfulness, & wrong concentration. 'The male decoy' is a term for passion & delight. 'The female decoy' is a term for ignorance. 'The man desiring their benefit, desiring their welfare, desiring their rest from bondage' is a term for the Tathagata, the Worthy One, the Rightly Self-awakened One. 'The safe, restful path that led to their rapture' is a term for the noble eightfold path, i.e., right view, right resolve, right speech, right action, right livelihood, right effort, right mindfulness, & right concentration.

Chư Tỷ-kheo, Ta nói ví dụ ấy để giải thích ư nghĩa như sau: Chư Tỷ-kheo, hồ nước lớn, thâm sâu chỉ cho các dục. Chư Tỷ-kheo, đoàn nai lớn chỉ cho các loài hữu t́nh. Chư Tỷ-kheo, con người không muốn chúng được lợi ích, không muốn chúng được hạnh phúc, không muốn chúng được an ổn, khỏi các ách nạn chỉ cho ác ma. Chư Tỷ-kheo, con đường nguy hiểm chỉ cho con đường tà đạo có tám ngành, tức là tà tri kiến, tà tư duy, tà ngữ, tà nghiệp, tà mạng, tà tinh tấn, tà niệm, tà định. Chư Tỷ-kheo, con mồi đực chỉ cho hỷ và tham. Chư Tỷ-kheo, con mồi cái chỉ cho vô minh. Chư Tỷ-kheo, c̣n người muốn chúng được lợi ích, muốn chúng được hạnh phúc, muốn chúng được an ổn khỏi các ách nạn chỉ cho Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác. Con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ chỉ cho con đường Thánh đạo Tám ngành, tức là Chánh tri kiến, Chánh tư duy, Chánh ngữ, Chánh nghiệp, Chánh mạng, Chánh tinh tấn, Chánh niệm, Chánh định.

 

"So, monks, I have opened up the safe, restful path, closed off the false path, removed the male decoy, destroyed the female. Whatever a teacher should do — seeking the welfare of his disciples, out of sympathy for them — that have I done for you. Over there are the roots of trees; over there, empty dwellings. Practice jhana, monks. Don't be heedless. Don't later fall into regret. This is our message to you."



Chư Tỷ-kheo, như vậy Ta mở con đường yên ổn, an toàn, đưa đến hoan hỷ, Ta đóng con đường nguy hiểm, Ta mang đi con mồi đực, Ta hủy bỏ con mồi cái. Chư Tỷ-kheo, những ǵ vị Đạo Sư cần phải làm cho các đệ tử v́ ḷng thương tưởng họ, những điều ấy Ta đă làm, v́ ḷng thương tưởng các Người. Chư Tỷ-kheo, đây là các gốc cây, đây là các chỗ trống. Hăy Thiền định, chớ có phóng dật, chớ có hối tiếc về sau. Đó là lời giáo huấn của Ta.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ, tín thọ lời dạy Thế Tôn.

 

See also: AN 4.259