I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time, Janussonin the brahman was driving out of Savatthi in the middle of the day in a totally white roofed-chariot.1 He saw Pilotika the wanderer coming from afar and, on seeing him, said to him:
"Now where is Master Vacchayana2 coming from in the middle of the day?"




Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở Savatthi (Xá-vệ) tại Jetavana (Kỳ-đà Lâm), vườn ông Anathapindika (Cấp Cô Độc). Lúc bấy giờ Bà-la-môn Janussoni, với một cỗ xe toàn trắng do ngự ái kéo, vào buổi sáng sớm, ra khỏi thành Savatthi. Bà-la-môn Janussoni thấy Du sĩ Pilotika từ xa đi đến, sau khi thấy, liền nói với Du sĩ Pilotika:
– Tôn giả Vacchàyana đi từ đâu về sớm như vậy?

 

"Sir, I have come here from the presence of Gotama the contemplative."



– Tôn giả, tôi từ Sa-môn Gotama đến đây.

 

"And what does a wise person think about Gotama the contemplative's acuity of discernment?"



Tôn giả Vacchayana nghĩ thế nào? Sa-môn Gotam ó trí tuệ sáng suốt không? Tôn giả có xem Sa-môn Gotama là bậc có trí không?

 

"Sir, who am I to know Gotama the contemplative's acuity of discernment? Wouldn't one have to be his equal to know his acuity of discernment?"



– Tôn giả, tôi là ai mà có thể biết Sa-môn Gotam có trí tuệ sáng suốt? Chỉ có người như Sa-môn Gotama mới có thể biết Sa-môn Gotam có trí tuệ sáng suốt.

 

"Master Vacchayana praises Gotama the contemplative with lavish praise indeed!"



– Tôn giả Vacchayana thật sự tán thán Sa-môn Gotama với lời tán thán tối thượng.

 

"Sir, who am I to praise Gotama the contemplative. He is praised by the praised as the best of beings, human & divine."



– Này Tôn giả, tôi là ai mà có thể tán thán Sa-môn Gotama, bậc tối thượng được tán thán trong các bậc được tán thán, bậc tối thượng giữ Chư Thiên và loài Người.

 

"Seeing what reasons does Master Vacchayana have such high confidence in Gotama the contemplative?"



– Nhưng Tôn giả Vacchayana thấy được lư do ǵ ở Sa-môn Gotama mà Tôn giả có ḷng tin tưởng như vậy?

 

"Sir, suppose an elephant hunter were to enter an elephant forest and were to see there a large elephant footprint, long in extent and broad in width. He would come to the conclusion, 'What a big bull elephant!' In the same way, when I saw four footprints in Gotama the contemplative, I came to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened, the Dhamma is well-taught by the Blessed One, the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.' Which four?



– Này Tôn giả, như một người săn voi thiện xảo vào một khu rừng có voi ở, và thấy một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang. Người đó đi đến kết luận: "Con voi này là con voi lớn". Cũng vậy, này Tôn giả, tôi đă thấy bốn dấu chân của Sa-môn Gotama và đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành tŕ". Thế nào là bốn?

 

"There is the case where I see certain noble warriors who are pundits, subtle, skilled in debate, like hair-splitting marksmen. They prowl about, as it were, shooting philosophical positions to pieces with their dialectic. They hear, 'Gotama the contemplative, they say, will visit that village or town.' They formulate a question thus: 'Having gone to Gotama the contemplative, we will ask him this question of ours. If, having been asked like this, he answers like this, we will refute his teaching like this. And, if having been asked like this, he answers like that, we will refute his teaching like that.'



Tôi thấy ở đây có một số Sát đế lỵ bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chia chẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đă phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ sắp đặt câu hỏi: "'Chúng ta, sau khi đến, sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, th́ chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, th́ chúng ta sẽ chất vấn như thế này".

 

"They hear, 'Gotama the contemplative is visiting that village or town.' They go to him, and he instructs, urges, rouses, & encourages them with a talk on Dhamma. Having been instructed, urged, roused, & encouraged by him with a talk on Dhamma, they don't even ask him their question, so since when could they refute him? As it turns out, they become his disciples. When I saw this first footprint in Gotama the contemplative, I came to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đă đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với pháp thoại, khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Được Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ, làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đă định trước), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ nhất này của Sa-môn Gotama, Tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành tŕ".

 

"Then there is the case where I see certain brahmans...



Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số Bà-la-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chi hẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đă phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe... (như trên)... trái lại, họ trở thành đệ tử của Sa-môn Gotama. Này Tôn giả, khi tôi thấy dấu chân thứ hai này của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành tŕ".

 

"Then there is the case where I see certain householders...



Này Tôn giả, lại nữa, tôi thấy ở đây có một số gia chủ bác học... (như trên)...

 

"Then there is the case where I see certain contemplatives who are pundits, subtle, skilled in debate, like hair-splitting marksmen. They prowl about, as it were, shooting philosophical positions to pieces with their dialectic. They hear, 'Gotama the contemplative, they say, will visit that village or town.' They formulate a question thus: 'Having gone to Gotama the contemplative, we will ask him this question of ours. If, having been asked like this, he answers like this, we will refute his teaching like this. And, if having been asked like this, he answers like that, we will refute his teaching like that.'



Có một số Sa-môn bác học, tế nhị, nghị luận biện tài, biện bác như chi hẻ sợi tóc. Những vị này đi chỗ này chỗ kia, như muốn đả phá các tà kiến với trí tuệ của họ. Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama sẽ đến thăm ngôi làng này hay thị trấn này". Họ sắp đặt câu hỏi: "Chúng ta sau khi đến sẽ hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi này. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế này, th́ chúng ta sẽ chất vấn như thế kia. Khi bị chúng ta hỏi như vậy, nếu Sa-môn Gotama trả lời như thế kia, th́ chúng ta sẽ chất vấn như thế này".

 

"They hear, 'Gotama the contemplative is visiting that village or town.' They go to him, and he instructs, urges, rouses, & encourages them with a talk on Dhamma. Having been instructed, urged, roused, & encouraged by him with a talk on Dhamma, they don't even ask him their question, so since when could they refute him? As it turns out, they ask him for the opportunity to go forth from the home life into homelessness. He gives them the Going-forth. Having gone forth there — dwelling alone, secluded, heedful, ardent, & resolute — they in no long time reach & remain in the supreme goal of the holy life, for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing & realizing it for themselves in the here & now. They say, 'How near we were to being lost! How near we were to being lost! Before, though we weren't contemplatives, we claimed to be contemplatives. Though we weren't brahmans, we claimed to be brahmans. Though we weren't arahants, we claimed to be arahants. But now we are contemplatives, now we are brahmans, now we are arahants.'



Những vị này nghe: "Sa-môn Gotama đă đến ngôi làng này hay thị trấn này". Những vị này đến chỗ Sa-môn Gotama ở. Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ các vị này. Được Sa-môn Gotama với Pháp thoại khích lệ làm cho phấn khởi, làm cho hoan hỷ, họ không hỏi Sa-môn Gotama câu hỏi (đă định sẵn), huống nữa là chất vấn. Trái lại, họ xin phép Sa-môn Gotama được xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Sa-môn Gotama cho họ được xuất gia. Được xuất gia như vậy, một số các vị ấy sống một ḿnh, không phóng dật, nỗ lực, tinh cần, và không bao lâu tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, ngay trong hiện tại, mục đích tối thượng của phạm hạnh mà những Thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh hướng đến. Họ nói như sau: "Thật sự chúng ta gần hoại vong. Thật sự chúng ta gần hoại diệt. Xưa kia chúng ta không phải là Sa-môn lại tự xem là Sa-môn, không phải là Bà-la-môn lại tự xem là Bà-la-môn, không phải là bậc A-la-hán, lại tự xem là bậc A-la-hán. Nay chúng ta mới thật là Sa-môn. Nay chúng ta mới thật là Bà-la-môn. Nay chúng ta mới thật là A-la-hán".

 

When I saw this fourth footprint in Gotama the contemplative, I came to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Khi tôi thấy dấu chân thứ tư của Sa-môn Gotama, tôi đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo giảng, và Tăng chúng khéo hành tŕ".

 

When this was said, Janussonin the brahman got down from his totally white roofed-chariot and — arranging his upper robe over one shoulder and extending his hands in reverent salutation in the direction of the Blessed One — exclaimed this exclamation three times:



Khi được nói vậy, Bà-la-môn Janussoni, từ cỗ xe toàn trắng do ngự ái kéo, bước xuống, đắp thượng y lên một bên vai, chấp tay hướng về Thế Tôn vái lạy, và thốt ra ba lần cảm hứng ngữ sau đây:

 

"Homage to the Blessed One, worthy & rightly self-awakened!



"Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!

 

"Homage to the Blessed One, worthy & rightly self-awakened!



"Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!

 

"Homage to the Blessed One, worthy & rightly self-awakened!



"Đảnh lễ Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác!

 

"May I, at some time or another, meet with Master Gotama! May there be some conversation!"



Rất có thể, chúng ta sẽ gặp Tôn giả Gotama tại một lúc nào, một chỗ nào đó. Rất có thể, sẽ có một cuộc đàm luận".

 

Then Janussonin the brahman went to the Blessed One and, on arrival, exchanged courteous greetings with him. After an exchange of friendly greetings & courtesies, he sat to one side. As he was sitting there, he told the Blessed One the entirety of his conversation with Pilotika the wanderer. When he was finished, the Blessed One said to him, "It's not to that extent, brahman, that the elephant footprint simile is complete in its details. As to how it is complete in its details, listen & pay close attention. I will speak."



Rồi Bà-la-môn Janussoni đi đến chỗ Thế Tôn ở, sau khi đến, nói lên những lời chào đón hỏi thăm xă giao với Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Bà-la-môn Janussoni đem tất cả câu chuyện của Du Sĩ Pilotika, thuật lại với Thế Tôn. Sau khi nghe vậy, Thế Tôn nói với Bà-la-môn Janussoni:
– Này Bà-la-môn, ví dụ dấu chân voi như vậy chưa được đầy đủ một cách rộng răi. Này Bà-la-môn, với tầm mức như thế nào ví dụ dấu chân voi được đầy đủ một cách rộng răi, hăy nghe và khéo tác ư, Ta sẽ nói:

 

"As you say, sir," Janussonin the brahman responded.



– Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Janussoni vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said: "Suppose an elephant hunter were to enter an elephant forest and were to see there a large elephant footprint, long in extent and broad in width. A skilled elephant hunter would not yet come to the conclusion, 'What a big bull elephant!' Why is that? Because in an elephant forest there are dwarf female elephants with big feet. The footprint might be one of theirs.



Thế Tôn thuyết giảng như sau:
– Này Bà-la-môn, ví như một người săn voi vào một khu rừng có voi ở. Người đó thấy một dấu chân voi lớn trong rừng voi, dài bề dài và rộng bề ngang. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn". V́ sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái lùn thấp, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này.

 

"So he follows along and sees in the elephant forest a large elephant footprint, long in extent and broad in width, and some scratch marks high up. A skilled elephant hunter would not yet come to the conclusion, 'What a big bull elephant!' Why is that? Because in an elephant forest there are tall female elephants with prominent teeth & big feet. The footprint might be one of theirs.



Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, và những vật cao đều bị cọ xát. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn v́ sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này.

 

"So he follows along and sees in the elephant forest a large elephant footprint, long in extent and broad in width, with some scratch marks and tusk slashes high up. A skilled elephant hunter would not yet come to the conclusion, 'What a big bull elephant!' Why is that? Because in an elephant forest there are tall female elephants with tusks & big feet. The footprint might be one of theirs.



Người đó đi theo dấu chân ấy. Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi, một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, và những vật cao bị ngà voi cắt chém. Nếu người đó là một thợ săn voi thiện xảo, người đó không đi đến kết luận: "Con voi này chắc chắn to lớn". V́ sao vậy? Này Bà-la-môn, trong rừng voi, có những loại voi cái có ngà lớn, có dấu chân lớn, có thể dấu chân này thuộc loại voi này. Người đó đi theo dấu chân ấy.

 

"So he follows along and sees in the elephant forest a large elephant footprint, long in extent and broad in width, with some scratch marks and tusk slashes high up and some broken-off branches. And he sees that bull elephant at the foot of the tree or in an open clearing, walking, standing, sitting, or lying down. He comes to the conclusion, 'That's the big bull elephant.'



Trong khi đi theo, người đó thấy trong rừng voi một dấu chân voi lớn, dài bề dài và rộng bề ngang, những vật cao bị cọ xát, những vật cao bị ngà voi cắt chém, và những vật cao bị găy các cành. Và người đó thấy một con voi đực dưới gốc cây hay ở ngoài trời, đang đi, đang đứng, đang ngồi hay đang nằm, người đó đi đến kết luận: "Con voi này thật là con voi đực lớn".

 

"In the same way, brahman, there is the case where a Tathagata appears in the world, worthy and rightly self-awakened. He teaches the Dhamma admirable in its beginning, admirable in its middle, admirable in its end. He proclaims the holy life both in its particulars and in its essence, entirely perfect, surpassingly pure.



Cũng vậy, này Bà-la-môn, ở đây Như Lai sanh ra ở đời. Với thắng trí, Ngài tự thân chứng ngộ thế giới này. Ngài c̣n tuyên thuyết điều Ngài đă chứng ngộ, Ngài thuyết pháp sơ thiện, trung thiện, hậu thiện, văn nghĩa đầy đủ. Ngài giảng dạy phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, trong sạch.

 

"A householder or householder's son, hearing the Dhamma, gains conviction in the Tathagata and reflects: 'Household life is confining, a dusty path. Life gone forth is the open air. It isn't easy, living at home, to practice the holy life totally perfect, totally pure, a polished shell. What if I, having shaved off my hair & beard and putting on the ochre robe, were to go forth from the household life into homelessness?'



Người gia trưởng, hay con vị gia trưởng, hay một người sanh ở giai cấp (hạ tiện) nào nghe Pháp ấy, sau khi nghe Pháp, người ấy sanh ḷng tín ngưỡng Như Lai. Khi có ḷng tín ngưỡng, vị này suy nghĩ: "Đời sống gia đ́nh đầy những triền phược, con đường đầy những bụi đời. Đời sống xuất gia phóng khoáng như hư không. Thật rất khó cho một người sống ở gia đ́nh có thể sống theo phạm hạnh hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta nên cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh".

 

"So after some time he abandons his mass of wealth, large or small; leaves his circle of relatives, large or small; shaves off his hair and beard, puts on the ochre robes, and goes forth from the household life into homelessness.



Một thời gian sau, người ấy từ bỏ tài sản nhỏ hay từ bỏ tài sản lớn, từ bỏ bà con quyến thuộc nhỏ hay từ bỏ bà con quyến thuộc lớn, cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, và xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh.

 

Virtue



Giới

 

"When he has thus gone forth, endowed with the monks' training & livelihood, then — abandoning the taking of life — he abstains from the taking of life. He dwells with his rod laid down, his knife laid down, scrupulous, merciful, compassionate for the welfare of all living beings.



Khi đă xuất gia như vậy, vị ấy thành tựu học giới và nếp sống các Tỷ-kheo, từ bỏ sát sanh, tránh xa sát sanh, bỏ trượng, bỏ kiếm, biết tàm quư, có ḷng từ, sống thương xót tất cả chúng sanh và các loài hữu t́nh.

 

"Abandoning the taking of what is not given, he abstains from taking what is not given. He takes only what is given, accepts only what is given, lives not by stealth but by means of a self that has become pure. This, too, is part of his virtue.



Từ bỏ lấy của không cho, tránh xa lấy của không cho, chỉ lấy những vật đă cho, chỉ mong những vật đă cho, tự sống thanh tịnh, không có trộm cướp.

 

"Abandoning uncelibacy, he lives a celibate life, aloof, refraining from the sexual act that is the villager's way.



Từ bỏ không phạm hạnh, sống theo phạm hạnh, sống tránh xa (không phạm hạnh), từ bỏ dâm dục tục pháp.

 

"Abandoning false speech, he abstains from false speech. He speaks the truth, holds to the truth, is firm, reliable, no deceiver of the world.



Vị ấy từ bỏ nói láo, tránh xa nói láo, nói những lời chân thật, y chỉ trên sự thật, chắc chắn, đáng tin cậy, không phản lại đời.

 

"Abandoning divisive speech he abstains from divisive speech. What he has heard here he does not tell there to break those people apart from these people here. What he has heard there he does not tell here to break these people apart from those people there. Thus reconciling those who have broken apart or cementing those who are united, he loves concord, delights in concord, enjoys concord, speaks things that create concord.



Vị ấy từ bỏ nói hai lưỡi, tránh xa nói hai lưỡi, nghe điều ǵ ở chỗ này, không đến nói chỗ kia để sanh chia rẽ ở những người này, nghe điều ǵ ở chỗ kia, không đi nói với những người này để sanh chia rẽ ở những người kia. Vị ấy sống ḥa hợp những kẻ ly gián, khuyến khích những kẻ ḥa hợp, hoan hỷ trong ḥa hợp, thoải mái trong ḥa hợp, hân hoan trong ḥa hợp, nói những lời đưa đến ḥa hợp.

 

"Abandoning abusive speech, he abstains from abusive speech. He speaks words that are soothing to the ear, that are affectionate, that go to the heart, that are polite, appealing and pleasing to people at large.



Vị ấy từ bỏ nói lời độc ác, tránh xa nói lời độc ác, vị ấy nói những lời nhẹ nhàng, thuận tại, dễ thương, thông cảm đến tâm, tao nhă, đẹp ḷng nhiều người, vui ḷng nhiều người, vị ấy nói những lời như vậy.

 

"Abandoning idle chatter, he abstains from idle chatter. He speaks in season, speaks what is factual, what is in accordance with the goal, the Dhamma, and the Vinaya. He speaks words worth treasuring, seasonable, reasonable, circumscribed, connected with the goal.



Vị ấy từ bỏ nói phù phiếm, tránh xa nói lời phù phiếm, nói đúng thời, nói những lời chân thật, nói những lời có ư nghĩa, nói những lời về Chánh pháp, nói những lời về Luật, nói những lời đáng được ǵn giữ, những lời hợp thời, thuận lư, có mạch lạc, hệ thống, có ích lợi.

 

"He abstains from damaging seed and plant life.



Vị ấy từ bỏ không làm hại đến các hột giống và các loại cây cỏ.

 

"He eats only once a day, refraining from the evening meal and from food at the wrong time of day.



Vị ấy dùng một ngày một bữa, không ăn ban đêm; từ bỏ ăn phi thời.

 

"He abstains from dancing, singing, instrumental music, and from watching shows.



Vị ấy từ bỏ đi xem múa, hát nhạc, các cuộc tŕnh diễn.

 

"He abstains from wearing garlands and from beautifying himself with scents and cosmetics.



Vị ấy từ bỏ trang sức bằng ṿng hoa hương liệu, dầu thoa, các thời trang, các thời sức.

 

"He abstains from high and luxurious beds and seats.



Vị ấy từ bỏ dùng giường cao và giường lớn.

 

"He abstains from accepting gold and money.



Vị ấy từ bỏ dùng vàng và tiền.

 

"He abstains from accepting uncooked grain... raw meat... women and girls... male and female slaves... goats and sheep... fowl and pigs... elephants, cattle, steeds, and mares... fields and property.



Vị ấy từ bỏ nhận các hạt sống; từ bỏ nhận thịt sống, từ bỏ nhận đàn bà, con gái; từ bỏ nhận nô tỳ gái và trai; từ bỏ nhận cừu và dê; từ bỏ nhận gia cầm và heo; từ bỏ nhận voi, ḅ, ngựa và ngựa cái; từ bỏ nhận ruộng nương và đất đai.

 

"He abstains from running messages... from buying and selling... from dealing with false scales, false metals, and false measures... from bribery, deception, and fraud.



Vị ấy từ bỏ nhận người môi giới hoặc tự ḿnh làm môi giới; từ bỏ buôn bán; từ bỏ các sự gian lận bằng cân, tiền bạc và đo lường; từ bỏ các tà hạnh như hối lộ, gian trá, lừa đảo.

 

"He abstains from mutilating, executing, imprisoning, highway robbery, plunder, and violence.



Vị ấy từ bỏ làm thương tổn, sát hại, câu thúc, bức đoạt, trộm cắp, cướp phá.

 

"He is content with a set of robes to provide for his body and alms food to provide for his hunger. Just as a bird, wherever it goes, flies with its wings as its only burden; so too is he content with a set of robes to provide for his body and alms food to provide for his hunger. Wherever he goes, he takes only his barest necessities along.



Vị ấy bằng ḷng (tri túc) với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát). Ví như con chim bay đến chỗ nào cũng mang theo hai cánh; cũng vậy, Tỷ-kheo bằng ḷng với tấm y để che thân, với đồ ăn khất thực để nuôi bụng, đi tại chỗ nào cũng mang theo (y bát).

 

"Endowed with this noble aggregate of virtue, he is inwardly sensitive to the pleasure of being blameless.



Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không lỗi lầm.

 

Sense Restraint



Hộ tŕ các căn

 

-"On seeing a form with the eye, he does not grasp at any theme or details by which — if he were to dwell without restraint over the faculty of the eye — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail him.


-On hearing a sound with the ear...
-On smelling an odor with the nose...
-On tasting a flavor with the tongue...
-On touching a tactile sensation with the body...
-On cognizing an idea with the intellect, he does not grasp at any theme or details by which — if he were to dwell without restraint over the faculty of the intellect — evil, unskillful qualities such as greed or distress might assail him.
Endowed with this noble restraint over the sense faculties, he is inwardly sensitive to the pleasure of being blameless.



-Khi mắt thấy sắc, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ khiến con mắt không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi, các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ con mắt, thực hành sự hộ tŕ con mắt.
-Khi tai nghe tiếng...
-Khi mũi ngửi hương...
-Khi lưỡi nếm vị...
-Khi thân cảm xúc...
Khi ư nhận thức các pháp, vị ấy không nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ khiến ư căn không được chế ngự, khiến tham ái ưu bi các ác bất thiện pháp khởi lên, vị ấy tự chế ngự nguyên nhân ấy, hộ tŕ ư căn, thực hành sự hộ tŕ ư căn.
Vị ấy thành tựu Thánh hộ tŕ các căn này, cảm giác lạc thọ thuộc nội tâm, không vẩn đục.

 

Mindfulness & Alertness



Chánh niệm & Tỉnh giác

 

"When going forward and returning, he acts with alertness. When looking toward and looking away... when bending and extending his limbs... when carrying his outer cloak, his upper robe, and his bowl... when eating, drinking, chewing, and tasting... when urinating and defecating... when walking, standing, sitting, falling asleep, waking up, talking, and remaining silent, he acts with alertness.



Vị ấy khi đi tới, khi đi lui đều tỉnh giác, khi nh́n thẳng, khi nh́n quanh đều tỉnh giác, khi co tay, khi duỗi tay đều tỉnh giác, khi mang y kép, y bát đều tỉnh giác, khi ăn, uống, nhai, nuốt, đều tỉnh giác, khi đi đại tiện, tiểu tiện đều tỉnh giác, khi đi, đứng, ngồi nằm, thức, nói, yên lặng đều tỉnh giác.

 

Abandoning the Hindrances



Đoạn trừ năm triền cái

 

"Endowed with this noble aggregate of virtue, this noble restraint over the sense faculties, this noble mindfulness & alertness, he seeks out a secluded dwelling: a wilderness, the shade of a tree, a mountain, a glen, a hillside cave, a charnel ground, a forest grove, the open air, a heap of straw. After his meal, returning from his alms round, he sits down, crosses his legs, holds his body erect, and brings mindfulness to the fore.



Vị ấy thành tựu Thánh giới uẩn này, thành tựu Thánh hộ tŕ các căn này, và thành tựu Thánh chánh niệm tỉnh giác này, lựa một chỗ thanh vắng, tịch mịch như rừng, gốc cây, khe núi, hang đá, băi tha ma, lùm cây, ngoài trời, đống rơm. Sau khi đi khất thực về và ăn xong, vị ấy ngồi kiết già, lưng thẳng tại chỗ nói trên, và an trú chánh niệm trước mặt.

 

"Abandoning covetousness with regard to the world, he dwells with an awareness devoid of covetousness. He cleanses his mind of covetousness. Abandoning ill will and anger, he dwells with an awareness devoid of ill will, sympathetic with the welfare of all living beings. He cleanses his mind of ill will and anger. Abandoning sloth and drowsiness, he dwells with an awareness devoid of sloth and drowsiness, mindful, alert, percipient of light. He cleanses his mind of sloth and drowsiness. Abandoning restlessness and anxiety, he dwells undisturbed, his mind inwardly stilled. He cleanses his mind of restlessness and anxiety. Abandoning uncertainty, he dwells having crossed over uncertainty, with no perplexity with regard to skillful mental qualities. He cleanses his mind of uncertainty.



Vị ấy từ bỏ tham ái ở đời, sống với tâm thoát ly tham ái, gột rửa tâm hết tham ái, từ bỏ sân hận, vị ấy sống với tâm không sân hận, ḷng từ mẫn thương xót tất cả chúng hữu t́nh, gột rửa tâm hết sân hận, từ bỏ hôn trầm thụy miên, vị ấy sống thoát ly hôn trầm thụy miên, với tâm tưởng hướng về ánh sáng, chánh niệm tỉnh giác, gột rửa tâm hết hôn trầm thụy miên, từ bỏ trạo cử hối quá, vị ấy sống không trạo cử, nội tâm trầm lặng, gột rửa tâm hết trạo cử, hối quá, từ bỏ nghi ngờ, vị ấy sống thoát khỏi nghi ngờ, không phân vân lưỡng lự, gột rửa tâm hết nghi ngờ đối với thiện pháp.

 

The Four Jhanas



Bốn tầng Thiền

 

"Having abandoned these five hindrances — imperfections of awareness that weaken discernment — then, quite withdrawn from sensual pleasures, withdrawn from unskillful mental qualities, he enters and remains in the first jhana: rapture and pleasure born from withdrawal, accompanied by directed thought and evaluation.



Vị ấy từ bỏ năm triền cái làm cho tâm ô uế, làm cho trí tuệ muội lược ly dục, ly pháp ác bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm có tứ.

 

"This, brahman, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, but a disciple of the noble ones would not yet come to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

"Then, with the stilling of directed thought and evaluation, he enters and remains in the second jhana: rapture and pleasure born of composure, one-pointedness of awareness free from directed thought and evaluation — internal assurance.



Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc, do định sanh, không tầm không tứ, nội tỉnh nhất tâm.

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, but a disciple of the noble ones would not yet come to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

"Then, with the fading of rapture, he remains in equanimity, mindful and alert, and physically sensitive of pleasure. He enters and remains in the third jhana, of which the noble ones declare, 'Equanimous and mindful, he has a pleasurable abiding.'



Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba.

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, but a disciple of the noble ones would not yet come to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

"Then, with the abandoning of pleasure and pain — as with the earlier disappearance of elation and distress — he enters and remains in the fourth jhana: purity of equanimity and mindfulness, neither-pleasure-nor-pain.



Lại nữa, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh.

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, but a disciple of the noble ones would not yet come to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai, nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

The Three Knowledges



Tam minh

 

"With his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, he directs and inclines it to knowledge of the recollection of past lives.3 He recollects his manifold past lives, i.e., one birth, two births, three births, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, one hundred, one thousand, one hundred thousand, many aeons of cosmic contraction, many aeons of cosmic expansion, many aeons of cosmic contraction and expansion, [recollecting,] 'There I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose there. There too I had such a name, belonged to such a clan, had such an appearance. Such was my food, such my experience of pleasure and pain, such the end of my life. Passing away from that state, I re-arose here.' Thus he recollects his manifold past lives in their modes and details.



Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Vị ấy nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây". Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết.

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, but a disciple of the noble ones would not yet come to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

"With his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, he directs and inclines it to knowledge of the passing away and re-appearance of beings. He sees — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma: 'These beings — who were endowed with bad conduct of body, speech, and mind, who reviled the noble ones, held wrong views and undertook actions under the influence of wrong views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the plane of deprivation, the bad destination, the lower realms, in hell. But these beings — who were endowed with good conduct of body, speech, and mind, who did not revile the noble ones, who held right views and undertook actions under the influence of right views — with the break-up of the body, after death, have re-appeared in the good destinations, in the heavenly world.' Thus — by means of the divine eye, purified and surpassing the human — he sees beings passing away and re-appearing, and he discerns how they are inferior and superior, beautiful and ugly, fortunate and unfortunate in accordance with their kamma.



Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ư, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến. Những người này sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. C̣n chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ư, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến, những người này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cơi Trời, trên đời này. Như vậy, vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng chúng sanh, người hạ liệt kẻ cao sang, người đẹp đẽ kẻ thô xấu, người may mắn kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, but a disciple of the noble ones would not yet come to the conclusion, 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

"With his mind thus concentrated, purified, and bright, unblemished, free from defects, pliant, malleable, steady, and attained to imperturbability, the monk directs and inclines it to the knowledge of the ending of the mental fermentations. He discerns, as it is actually present, that .
-This is stress... .
-This is the origination of stress....
-This is the cessation of stress....
-This is the way leading to the cessation of stress... .

-These are mental fermentations... .
-This is the origination of fermentations... .
-This is the cessation of fermentations... .
-This is the way leading to the cessation of fermentations.'



Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí.

-Vị ấy biết như thật: "Đây là Khổ", .
-Biết như thật: "Đây là Nguyên nhân của khổ", .
-Biết như thật: "Đây là sự Khổ diệt",.
-Biết như thật: "Đây là Con đường đưa đến khổ diệt", .
-Biết như thật: "Đây là những lậu hoặc", .
-Biết như thật: "Đây là nguyên nhân của lậu hoặc", .
-Biết như thật: "Đây là các lậu hoặc diệt", .
-Biết như thật: "Đây là con đường đưa đến các lậu hoặc diệt".

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata. A disciple of the noble ones has not yet come to conclusion, but he comes to the conclusion,4 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'5



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Nhưng vị Thánh đệ tử không đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

"His heart, thus knowing, thus seeing, is released from the fermentation of sensuality, the fermentation of becoming, the fermentation of ignorance. With release, there is the knowledge, 'Released.' He discerns that 'Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for this world.'



Vị ấy nhờ biết như vậy, nhờ thấy như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đă tận, phạm hạnh đă thành, việc cần làm đă làm, không có trở lui đời sống này nữa".

 

"This, too, is called a footprint of the Tathagata, a scratch mark of the Tathagata, a tusk slash of the Tathagata, and it is here that a disciple of the noble ones has come to conclusion: 'The Blessed One is rightly self-awakened; the Dhamma is well-taught by the Blessed One; the Sangha of the Blessed One's disciples has practiced rightly.'"



Này Bà-la-môn, như vậy gọi là dấu chân của Như Lai, dấu cọ xát của Như Lai, dấu cắt chém của Như Lai. Này Bà-la-môn, tới mức độ này, vị Thánh đệ tử đi đến kết luận: "Thế Tôn là bậc Chánh Đẳng Giác, Pháp được Thế Tôn khéo thuyết giảng, Chúng Tăng khéo hành tŕ".

 

When this was said, Janussonin the brahman said to the Blessed One: "Magnificent, lord! Magnificent! Just as if he were to place upright what was overturned, to reveal what was hidden, to show the way to one who was lost, or to carry a lamp into the dark so that those with eyes could see forms, in the same way has the Blessed One — through many lines of reasoning — made the Dhamma clear. I go to the Blessed One for refuge, to the Dhamma, and to the Community of monks. May the Blessed One remember me as a lay follower who has gone to him for refuge, from this day forward, for life."



Được nghe nói vậy, Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
– Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng lại những ǵ bị quăng ngă xuống, phơi bày ra những ǵ che kín, chỉ đường cho người bị lạc hướng, đem đèn sáng vào trong bóng tối để những ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả Gotama dùng nhiều phương tiện tŕnh bày, giải thích. Con xin quy y Tôn giả Gotama, quy y Pháp, và quy y chúng Tỷ-kheo Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử, từ nay trở đi cho đến mệnh chung, con trọn đời quy ngưỡng!

 

1. The Thai version of the Canon here reads va.lavaabhirathena, which seems to be a mixture of two readings recognized in the PTS Dictionary: va.labhi-rathena, "in a roofed chariot"; and va.lavaa-rathena, "in a chariot drawn by mares."

2. Vacchayana is Pilotika's clan name.

3. Lit: previous homes.

4. This is a pun. For an explanation, see the next note.

5. This stage in the practice would seem to correspond to reaching stream-entry, inasmuch as one of the standard definitions of stream-entry is direct vision of the four noble truths. It is also the stage at which one reaches unwavering conviction in the Buddha, Dhamma, and Sangha.

The sentence stating that the stream-enterer has come to a conclusion without coming to the finish appears to be a pun. The idiomatic expression for coming to a conclusion — ni.t.tha.m gacchati — can also mean coming to a finish, reaching completion, or coming to an end. To distinguish these two meanings, the text here uses the form ni.t.tha.ngato to mean having come to a finish, and ni.t.tha.m gacchati to mean coming to a conclusion.

This particular way of distinguishing the meanings, however, is not adhered to consistently across the Canon. On the one hand, Dhp 351 — like this sutta — uses the word ni.t.tha.ngato to describe an arahant. On the other, a series of suttas beginning at AN 6.131 (AN 6.124 in the Thai numbering), some lay disciples are each described as tathaagate ni.t.tha.ngato, which could either mean that they have come to a definite conclusion about the Tathagata or that they have finished their training under the Tathagata. Some of the disciples named in these suttas — such as Citta, Mahanama, Ugga, Anathapindika, and Jivaka Komarabhacca — are, in other parts of the Canon, described as stream-winners or non-returners. However, the description of their attainment here contains a mixture of terms, some normally associated with stream-entry, some with arahantship. The pattern of the suttas is this: "Endowed with six qualities, Tapussa the householder has come to conclusion in the Tathagata, seen the deathless, and goes about having realized the deathless. Which six? Verified confidence in the Buddha, verified confidence in the Dhamma, verified confidence in the Sangha, noble virtue, noble knowledge, noble release." Of these six qualities, the first four are normally associated with stream-entry, the last two with arahantship. It may be that the last two are meant here in a non-technical sense, which would mean that ni.t.tha.ngato here means simply coming to a definite conclusion about the Tathagata.

AN 10.63 plays with the two meanings of ni.t.tha in another way. The Buddha describes ten types of individuals, all of whom, he says, are "ni.t.tha.ngataa in me." In this case, ni.t.t.ha.ngato would simply mean having come to a definite conclusion. Of the ten types, he adds, the ni.t.thaa — or completion of the training — of five occurs (or will occur) here in the human realm, the ni.t.thaa of five occurs away from here. In the first five, he includes three types of stream-winners, once-returners (this item is omitted from the PTS translation), and those who attain arahantship in the present life. In the latter five, he includes five types of non-returners.

Thus, as with the suttas in AN VI, ni.t.tha.ngato here means simply coming to a definite conclusion about the Tathagata. And the lack of consistency surrounding this term in the suttas suggests that it is not a technical term. This would confirm the impression the two meanings of ni.t.tha are used more as an opportunity for word play, a game in which inconsistency is not a vice.

For more on word play in the Canon, see The Atthakavagga: An Introduction.

See also: MN 95