"Never before
have I seen or heard
from anyone
of a teacher with such lovely speech
come, together with his following
from Tusita heaven,1
as the One with Eyes
who appears to the world with its devas
having dispelled all darkness
having arrived at delight
all alone.

To that One Awakened —
unentangled, Such, un-
deceptive,
come with his following —
I have come with a question
on behalf of the many
here who are fettered.
For a monk disaffected,
frequenting a place that's remote —
the root of a tree,
a cemetery,
in mountain caves
various places to stay —
how many are the fears there
at which he shouldn't tremble
— there in his noiseless abode —
how many the dangers in the world
for the monk going the direction
he never has gone
that he should transcend
there in his isolated abode?
What should be
the ways of his speech?
What should be
his range there of action?
What should be
a resolute monk's
precepts & practices?2
Undertaking what training
— alone, astute, & mindful —
would he blow away
his own impurities
as a silver smith,
those in molten silver?"

Sàriputta:

Trước con chưa từng thấy,
Chưa ai từng được nghe,
Tiếng nói thật ngọt ngào,
Như tiếng bậc Ðạo Sư,
Từ cõi Ðâu-suất đến,
Xá-lợi-phất nói vậy.

Bậc có mắt xuất hiện,
Ðời này và thiên giới,
Quét sạch mọi u ám,
Ðộc cư, chứng an lạc.
Bậc Giác ngộ, độc lập,
Như thật, không man trá,
Ngài đến ở đời này,
Lãnh đạo các đồ chúng,
Từ nhiều người trói buộc,
Con đến với câu hỏi.

Vị Tỷ kheo nhàm chán,
Sống an tọa, trống không,
Tại gốc cây, nghĩa địa,
Hay núi rừng hang sâu.

Tại chỗ cao thấp ấy,
Có bao nhiêu sợ hãi,
Khiến Tỷ kheo không run,
Tại trú xứ vắng lặng?

Bao nguy hiểm ở đời,
Tỷ Kheo cần chinh phục,
Trong hướng đi bất tử,
Tại trú xứ xa vắng?

Ngôn ngữ và hành xứ
Của vị ấy là gì?
Có bao nhiêu giới cấm,
Tỷ Kheo cần tinh tấn?

Chấp nhận học tập gì,
Vị Tỷ Kheo nhất tâm,
Thông minh, giữ chánh niệm,
Tẩy sạch các cấu uế,
Trên tự ngã của mình,
Như thợ lọc vàng bạc?

 

The Buddha:

Thế Tôn:

 

"I will tell you
as one who knows,
what is comfort
for one disaffected
resorting to a remote place,
desiring self-awakening
in line with the Dhamma.
An enlightened monk,
living circumscribed,
mindful,
shouldn't fear the five fears:
of horseflies, mosquitoes, snakes,
human contact, four-footed beings;
shouldn't be disturbed
by those following another's teaching
even on seeing their manifold
terrors;
should overcome still other
further dangers
as he seeks what is skillful.

Touched
by the touch
of discomforts, hunger,
he should endure cold
& inordinate heat.
He with no home,
in many ways touched by these things,
striving, should make firm his persistence.

He shouldn't commit a theft,
shouldn't speak a lie,
should touch with thoughts of good will
beings firm & infirm.
Conscious of when
his mind is stirred up & turbid,
he should dispel it:
'It's on the Dark One's side.'

He shouldn't come under the sway
of anger or pride.
Having dug up their root
he would stand firm.
Then, when prevailing
— yes —
he'd prevail over his sense of dear & undear.
Yearning for discernment
enraptured with what's admirable,
he should overcome these dangers,
should conquer discontent
in his isolated spot,
should conquer these four
thoughts of lament:

'What will I eat,
or where will I eat.
How badly I slept.
Tonight where will I sleep?'

These lamenting thoughts
he should subdue —
one under training,
wandering without home.
Receiving food & cloth
at appropriate times,
he should have a sense of enough
for the sake of contentment.3
Guarded in regard to these things
going restrained into a village,
even when harassed
he shouldn't say a harsh word.
With eyes downcast,
& not footloose,
committed to jhana,
he should be continually wakeful.4
Strengthening equanimity,
centered within,
he should cut off any penchant
to conjecture or worry.
When reprimanded,
he should — mindful —
rejoice;5 should smash any stubbornness
toward his fellows in the holy life;
should utter skillful words
that are not untimely;
should give no mind
to the gossip people might say.

And then there are in the world
the five kinds of dust
for whose dispelling, mindful
he should train:
with regard to forms, sounds, tastes,
smells, & tactile sensations
he should conquer passion;
with regard to these things
he should subdue his desire.

A monk, mindful,
his mind well-released,
contemplating the right Dhamma
at the right times,
on coming
to oneness
should annihilate
darkness,"

the Blessed One said.

Này Sàriputta,

Thế Tôn bèn trả lời:
Với người biết nhàm chán,
Có gì là khoan khoái!
Khi sử dụng sàng tọa,
Tại chỗ tịnh trống không,
Với ai muốn giác ngộ,
Sống đúng với tùy pháp,
Ta sẽ nói người ấy,
Như Ta đã quán tri.

Vị Tỷ kheo có trí,
Chánh niệm sống biên địa,
Không có sợ năm điều,
Ðáng sợ hãi ở đời.
Các loại ruồi, mối bay
Cùng các loài bò sát,
Xúc chạm của loài người,
Cùng các loại bốn chân.

Vị ấy không nên sợ,
Tri kiến của người khác,
Khi đã được thấy biết,
Nhiều sợ hãi của chúng,
Bậc tìm đến chí thiện,
Thấy được các nguy hiểm
Cần phải lo khắc phục
Tất cả nguy hiểm khác.

Khi thọ lãnh bệnh hoạn,
Khi cảm xúc đói khổ,
Với lạnh và cực nóng,
Cần phải nhiếp phục chúng,
Bị chúng cảm xúc nhiều,
Kẻ không bỏ nhà cửa
Cần tinh tấn cần mẫn,
Lòng hết sức kiên trì.

Chớ ăn trộm, ăn cắp,
Chớ nói lời nói láo,
Hãy cảm xúc từ tâm,
Ðối kẻ yếu, kẻ mạnh,
Khi rõ biết tâm tư,
Trong tình trạng dao động,
Hãy gột sạch, tẩy sạch,
Phần hắc ám đen tối.

Chớ để bị chi phối,
Bởi phẫn nộ, quá mạn,
Hãy đào chúng tận gốc,
Và an trú như vậy,
Ðối những gì khả ái,
Hay đối không khả ái,
Hãy hoàn toàn nhiếp phục,
Chớ để bị chi phối.

Thiên trọng về trí tuệ,
Hoan hỷ trong chí thiện,
Hãy chận đứng loại bỏ,
Nguy hiểm ách nạn ấy,
Hãy khắc phục bất lạc,
Ðối trú xứ vắng lặng,
Hãy khắc phục bốn pháp,
Khiến sầu muộn khóc than..

Ta sẽ ăn những gì,
Và được ăn tại đâu.
Thật khó khăn ta ngủ,
Nay ta ngủ tại đâu?
Với những tư tưởng ấy,
Vị ấy có thể than,
Bậc hữu học, không nhà,
Hãy nhiếp phục trừ chúng..

Với đồ ăn, vải mặc,
Ðúng thời, thâu hoạch được,
Cần ước lượng vừa đủ,
Với mục đích thỏa mãn,
Chế ngự đối với chúng,
Sống nhiếp phục trong lòng,
Dầu phẫn uất, không nói,
Những lời độc thô ác..

Với mắt cúi nhìn xuống,
Chân không đi lang thang,
Chú tâm vào thiền định,
Với rất nhiều tỉnh giác,
Cố gắng tu tập xả,
Tự ngã khéo định tĩnh,
Hãy cắt đứt trừ khử,
Các nghi ngờ hối tiếc..

Bị buộc tội bằng lời,
Chánh niệm, tâm hoan hỉ,
Phá hoại sự cứng rắn,
Giữa các đồng Phạm hạnh,
Nói lên những lời nói,
Hiền thiện và đúng thời,
Không để tâm suy tư,
Các chủ thuyết người khác..

Lại nữa, năm loại vua,
Hiện có ở trên đời,
Hãy học nhiếp phục chúng.
Luôn luôn giữ chánh niệm.
Ðối với sắc và tiếng,
Ðối với vị và hương,
Cùng đối các cảm xúc,
Hãy chế ngự tham ái..

Hãy chế ngự ước muốn,
Ðối với những pháp ấy,
Vị Tỷ kheo chánh niệm,
Tâm tư khéo giải thoát,
Rồi đúng thời vị ấy,
Chơn chánh suy tư pháp,
Với chuyên tâm nhất trí,
Hãy đoạn tận hắc ám.
Thế Tôn nói như vậy.

 

Notes

1. The Buddha spent his next-to-last lifetime in the Tusita heaven, one of the highest levels on the sensual plane.

2. The fact that the Buddha answers this question in a straightforward manner illustrates the point that abandoning precepts and practices does not mean having no precepts and practices. See note 2 to Sn 4.13.

3. See AN 4.37 and AN 7.64.

4. See AN 4.37.

5. See Dhp 76-77.

See also: AN 5.77; AN 8.30.

^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

 | trở về đầu trang | Home page |