I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time Ven. MahaKaccana was living among the people of Avanti on Pavatta Mountain near the Osprey Habitat. And at that time the lay follower Sona Kotikanna was Ven. MahaKaccana's supporter. Then as Sona Kotikanna was alone in seclusion, this train of thought arose to his awareness: "According to the Dhamma Master MahaKaccana teaches, it's not easy living at home to practice the celibate life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?" |
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Mahàkaccàna trú ở giữa dân chúng Avanti, gần Kuraraghara, trên ngọn núi tên Pavatta. Lúc bấy giờ nam cư sĩ Sona Kotikanna là thị giả của Tôn giả Mahàkaccàna. Rồi nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền định, tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình". |
So he went to Ven. MahaKaccana and on arrival, having bowed down to Ven. MahaKaccana, sat to one side. As he was sitting there he said to Ven. MahaKaccana, "Just now, venerable sir, as I was alone in seclusion, this train of thought arose to my awareness: 'According to the Dhamma Master MahaKaccana teaches, it's not easy living at home to practice the celibate life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?' Give me the going-forth, Master MahaKaccana!" |
Nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Sona Kotikanna thưa Tôn giả Mahàakaccàna. - Thưa Tôn giả, ở đây trong khi con độc cư thiền tịnh tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thưa Tôn giả, Tôn giả hãy cho con xuất gia. |
When this was said, Ven. MahaKaccana said to Sona Kotikanna, "It's hard, Sona, the life-long, one-meal-a-day, sleeping-alone celibate life. Please, right there as you are a householder, devote yourself to the message of the Awakened Ones and to the proper-time [i.e., uposatha day] one-meal-a-day, sleeping-alone celibate life." And so Sona Kotikanna's idea of going-forth subsided. |
Nghe nói vậy, Tôn giả Mahàkaccàna nói với nam cư sĩ Sona Kotikanna: - Này Sona, thật khó thay đời sống Phạm hạnh, ăn một bữa ăn, nằm một mình cho đến trọn đời. Này Sona, tại đây hãy sống trong gia đình, chú tâm vào lời dạy của chư Phật, tạm thời hiện tại sống Phạm hạnh, ăn một ngày một bữa, nằm ngủ một mình. Như vậy lòng ham muốn xuất gia của nam cư sĩ Sona Kotikanna được giảm nhẹ bớt. |
Then a second time as Sona Kotikanna was alone in seclusion, this train of thought arose to his awareness: "According to the Dhamma Master MahaKaccana teaches, it's not easy living at home to practice the celibate life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?" |
Lần thứ hai, nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền định tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình". |
So he went to Ven. MahaKaccana and on arrival, having bowed down to Ven. MahaKaccana, sat to one side. As he was sitting there he said to Ven. MahaKaccana, "Just now, venerable sir, as I was alone in seclusion, this train of thought arose to my awareness: 'According to the Dhamma Master MahaKaccana teaches, it's not easy living at home to practice the celibate life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?' Give me the going-forth, Master MahaKaccana!" |
Lần thứ hai nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Sona Kotikanna thưa Tôn giả Mahàakaccàna. - Thưa Tôn giả, ở đây trong khi con độc cư thiền tịnh tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thưa Tôn giả, Tôn giả hãy cho con xuất gia. |
When this was said, Ven. MahaKaccana said to Sona Kotikanna, "It's hard, Sona, the life-long, one-meal-a-day, sleeping-alone celibate life. Please, right there as you are a householder, devote yourself to the message of the Awakened Ones and to the proper-time [i.e., uposatha day] one-meal-a-day, sleeping-alone celibate life." And so Sona Kotikanna's idea of going-forth subsided a second time. |
Lần thứ hai, Tôn giả Mahàkaccàna nói với nam cư sĩ Sona Kotipanna: - Này Sona, thật khó thay đời sống Phạm hạnh, ăn một bữa ăn, nằm một mình cho đến trọn đời. Này Sona, tại đây hãy sống trong gia đình, chú tâm vào lời dạy của chư Phật, tạm thời hiện tại sống Phạm hạnh, ăn một ngày một bữa, nằm ngủ một mình. Như vậy lòng ham muốn xuất gia của nam cư sĩ Sona Kotikanna được giảm nhẹ bớt. |
Then a third time as Sona Kotikanna was alone in seclusion, this train of thought arose to his awareness: "According to the Dhamma Master MahaKaccana teaches, it's not easy living at home to practice the celibate life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?" |
Lần thứ ba, nam cư sĩ Sona Kotikanna trong khi độc cư thiền định tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình". |
So he went to Ven. MahaKaccana and on arrival, having bowed down to Ven. MahaKaccana, sat to one side. As he was sitting there he said to Ven. MahaKaccana, "Just now, venerable sir, as I was alone in seclusion, this train of thought arose to my awareness: 'According to the Dhamma Master MahaKaccana teaches, it's not easy living at home to practice the celibate life totally perfect, totally pure, like a polished shell. What if I were to shave off my hair & beard, put on the ochre robes, and go forth from the household life into homelessness?' Give me the going-forth, Master MahaKaccana!" |
Lần thứ ba nam cư sĩ Sona Kotikanna đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đến đảnh lễ Tôn giả rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, nam cư sĩ Sona Kotikanna thưa Tôn giả Mahàakaccàna. - Thưa Tôn giả, ở đây trong khi con độc cư thiền tịnh tư tưởng như sau được khởi lên: "Như Tôn giả Mahàkaccàna thuyết pháp, thật không dễ dàng cho một người sống trong gia đình có thể thực hành một cách viên mãn Phạm hạnh thuần tịnh, trắng bạch như vỏ ốc. Vậy ta hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà sa, xuất gia từ bỏ gia đình, sống không gia đình. Thưa Tôn giả, Tôn giả hãy cho con xuất gia. |
So Ven. MahaKaccana gave Sona Kotikanna the going-forth. |
Rồi Tôn giả Mahàkaccàna cho nam cư sĩ Sona Kotikanna xuất gia. |
Now at that time the southern country of Avanti was short of monks. So only after three years — having gathered from here & there with hardship & difficulty a quorum-of-ten community of monks 1 — did Ven. MahaKaccana give full admission to Ven. Sona. Then, after having completed the Rains retreat, as he was alone in seclusion, this train of thought arose to Ven. Sona's awareness: "I haven't seen the Blessed One face-to-face. I have simply heard that he is like this and like that. If my preceptor would give me permission, I would go to see the Blessed One, the Worthy One, the Rightly Self-awakened One." |
Lúc bấy giờ, tại Avantisudakhhinàpatha, có ít Tỷ-kheo. Rồi Tôn giả Mahàkaccàna, sau ba kỳ an cư mùa mưa, một cách khó khăn, một cách mệt nhọc tụ tập được một nhóm mười Tỷ-kheo và trao Ðại giới cho Tôn giả Sona. Tôn giả Sona sau khi an cư mùa mưa cô độc thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Ta chưa được thấy tận mắt Thế Tôn, tuy rằng ta có nghe Thế Tôn là vị như vậy, như vậy. Nếu vị Giáo thọ sư của ta cho phép ta sẽ đi đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". |
So, leaving seclusion in the late afternoon, he went to Ven. MahaKaccana and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, he said to Ven. MahaKaccana, "Just now, venerable sir, as I was alone in seclusion, this train of thought arose to my awareness: 'I haven't seen the Blessed One face-to-face. I have simply heard that he is like this and like that. If my preceptor would give me permission, I would go to see the Blessed One, the Worthy One, the Rightly Self-awakened One.'" |
Rồi Tôn giả Sona vào buổi chiều từ độc cư thiền tịnh đứng dậy, đi đến Tôn giả Mahàkaccàna, sau khi đảnh lễ Tôn giả Mahàkacàna rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên Tôn giả Sona thưa với Tôn giả Mahàkaccàna: - Thưa Tôn giả, trong khi con độc cư thiền tịnh, tư tưởng sau đây được khởi lên: "Ta chưa được thấy tận mặt Thế Tôn, tuy rằng ta có nghe Thế Tôn là vị như vậy. Nếu vị Giáo thọ sư của ta cho phép, ta sẽ đi đến yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác". |
"Good, good, Sona. Go, Sona, to see the Blessed One the Worthy One, the Rightly Self-awakened One. You will see the Blessed One who is serene & inspires serene confidence, whose senses are calmed, who has attained the utmost tranquillity & poise, a Great One (naga) who is controlled, tamed, restrained in his senses. On seeing him, showing reverence with your head to his feet in my name, ask whether he is free from illness & affliction, is carefree, strong, & living in comfort, [saying: 'My preceptor, lord, shows reverence with his head to your feet and asks whether you are free from illness & affliction, are carefree, strong, & living in comfort.'"] 2 |
- Lành thay, lành thay Sona! Hãy đi này Sona, để yết kiến Thế Tôn, bậc A-la-hán, Chánh-Ðẳng-Giác. Này Sona, người sẽ thấy Thế Tôn khả ái, khởi dậy lòng tin, các căn an tịnh, tâm ý thanh tịnh, đã đạt được an chỉ chế ngự tối thượng, bậc long tượng được điều phục, hộ trì, các căn nhiếp phục. Sau khi thấy, hãy nhân danh ta, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não nhẹ nhàng, khoẻ mạnh, an ổn không! |
"As you say, venerable sir," replied Ven. Sona. Delighting in and approving of Ven. MahaKaccana's words, he got up from his seat, bowed down to Ven. MahaKaccana, circumambulated him, set his lodging in order, and taking his bowl & robes set off wandering toward Savatthi. Wandering by stages, he arrived at Savatthi, Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. He went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to the Blessed One, sat to one side. As he was sitting there, he said to the Blessed One, "Lord, my preceptor, Ven. MahaKaccana, shows reverence with his head to the Blessed One's feet and asks whether the Blessed One is free from illness & affliction, is carefree, strong, & living in comfort." |
- Thưa vâng, Tôn giả. Tôn giả Sona hoan hỷ tín thọ lời dạy của Tôn giả Mahàkaccàna, từ chỗ ngồi đứng dậy, đảnh lễ Tôn giả Mahàkaccàna, thân bên hữu hướng về Tôn giả dọn dẹp sàng tọa, cầm y bát bộ hành hướng về Sàvatthi, tiếp tục bộ hành đi đến Sàvatthi,Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika, đến chỗ Thế Tôn. Sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Sona bạch Thế Tôn: - Bậc giáo thọ sư của con, bạch Thế Tôn, cúi đầu đảnh lễ chân Thế Tôn, hỏi thăm có ít bệnh, ít não nhẹ nhàng, khoẻ mạnh, an ổn không? |
"Are you well, monk? Are you in good health? Have you come along the road with only a little fatigue? And are you not tired of alms-food?" |
- Này Tỷ-kheo, Thầy có kham nhẫn được không? Thầy có sống dễ dàng không? Ði đường đến đây có mệt mỏi không? Khất thực có mệt mỏi không? |
"I am well, Blessed One. I am in good health, Blessed One. I have come along the road, lord, with only a little fatigue and I am not tired of alms-food." |
- Bạch Thế Tôn, con có thể kham nhẫn! Bạch Thế Tôn, con có thể sống dễ dàng. Bạch Thế Tôn, con đi đường không có mệt nhọc! Khất thực không có mệt nhọc. |
Then the Blessed One addressed Ven. Ananda, [saying,] "Ananda, prepare bedding for this visiting monk." |
Rồi Thế Tôn bảo Tôn giả Ananda: - Này Ananda, hãy sửa soạn sàng tọa cho Tỷ-kheo mới đến này. |
Then the thought occurred to Ven. Ananda, "When the Blessed One orders me, 'Ananda, prepare bedding for this visiting monk,' he wants to stay in the same dwelling with that monk. The Blessed One wants to stay in the same dwelling with Ven. Sona." So he prepared bedding for Ven. Sona in the dwelling in which the Blessed One was staying. Then the Blessed One, having spent much of the night sitting in the open air, washed his feet and entered the dwelling. Likewise, Ven. Sona, having spent much of the night sitting in the open air, washed his feet and entered the dwelling. Then, getting up toward the end of the night, the Blessed One invited Ven. MahaSona, 3 [saying,] "Monk, I would like you to recite the Dhamma." |
Tôn giả Ananda suy nghĩ: "Thế Tôn bảo ta: "Này Ananda, hãy sửa soạn sàng tọa cho Tỷ-kheo mới đến này". Như vậy Thế Tôn muốn ở chung một chỗ với Tỷ-kheo ấy. Như vậy Thế Tôn muốn ở chung với Tôn giả Sona ấy". Nên chỗ nào Thế Tôn ở, tại chỗ ấy Tôn giả Ananda sửa soạn sàng tọa cho Tôn giả Sona. Rồi Thế Tôn, sau khi ngồi ở ngoài trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào tịnh xá. Tôn giả Sona, sau khi ngồi ngoài trời đã quá khuya, rửa chân và đi vào Tịnh xá. Rồi Thế Tôn, khi đêm đã gần sáng, thức dậy, Thế Tôn nói với Tôn giả Sona: - Hãy nói pháp cho các Tỷ-kheo. |
Responding, "As you say, lord," Ven. Sona chanted all sixteen parts of the Atthakavagga. The Blessed One, at the conclusion of Ven. Sona's chanting, was highly pleased [and said], "Good, good, monk. You have learned the Attakavagga [verses] well, have considered them well, have borne them well in mind. You have a fine delivery, clear & faultless, that makes the meaning intelligible. How many Rains [in the monkhood] do you have?" |
- Thưa vâng, bạch Thế Tôn. Tôn giả Sona vâng đáp Thế Tôn, đọc thuộc lòng mười sáu phần của phẩm tám một cách đầy đủ. Rồi Thế Tôn, sau khi Tôn giả Sona chấm dứt tụng đọc của mình, Thế Tôn cám ơn và nói: - Lành thay, lành thay Tỷ-kheo! Tỷ-kheo đã khéo nắm giữ, khéo tác ý, khéo thọ trì toàn bộ mười sáu phần trong phẩm thứ tám. Người được đầy đủ thiện ngôn, minh bạch, phát ngôn rõ ràng, ý nghĩa minh xác. Này Tỷ-kheo, Thầy có bao nhiêu tuổi an cư mùa mưa? |
"I have one Rains, lord." |
- Bạch Thế Tôn, con có một tuổi an cư mùa mưa. |
"But why did you take so long [to ordain]?" |
- Này Tỷ-kheo, vì sao Thầy lại để chậm như thế? |
"For a long time, lord, I have seen the drawbacks in sensual passions, but the household life is crowded with many duties, many things to be done." |
- Bạch Thế Tôn, đã lâu con thấy sự nguy hại trong các dục, sự bó buộc của đời sống gia đình, nhiều phận sự, nhiều công việc phải làm. |
Then, on realizing the significance of that, the Blessed One on that occasion exclaimed: |
Thế Tôn sau khi hiểu biết ý nghĩa này, ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng: |
Seeing the drawbacks of the world, knowing the state without acquisitions, a noble one doesn't delight in evil, in evil a pure one doesn't delight. |
|
Notes 1. Originally, a quorum of at least ten monks was required to ordain a new monk. In the version of this story given in the Vinaya (Mv.V.13.1-13), Ven. MahaKaccana sends requests to the Buddha via Ven. Sona that some of the Vinaya rules be relaxed outside of the middle Ganges valley, one of them being that the quorum required for ordination be reduced. As a result, the Buddha amended the relevant rule, stating that the quorum of ten was needed only within the middle Ganges valley, and that outside of the middle Ganges valley a quorum of five would be sufficient to ordain a new monk, provided that at least one of the five be knowledgeable in the Vinaya. 2. The passage in brackets is in the PTS edition, but not in the Thai edition. 3. This is the only point in the sutta where Ven. Sona has the prefix "Great" (Maha) added to his name. |
|
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com |
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006 Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp |
|