I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time a large number of monks, after the meal, on returning from their alms round, had gathered at the kareri-tree pavilion when this discussion arose: "Friends, an alms-collecting monk,1 while going for alms, periodically sees agreeable sights via the eye. He periodically hears agreeable sounds via the ear ... smells agreeable aromas via the nose ... tastes agreeable flavors via the tongue ... touches agreeable tactile sensations via the body. An alms-collecting monk, while going for alms, is honored, respected, revered, venerated, and given homage. |
Như vầy tôi nghe: Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn ông Anàthapindika. Lúc bấy giờ, nhiều Tỷ-kheo sau buổi ăn, sau khi đi khất thực trở về, ngồi hội họp tại rạp tṛn có cây kareri và câu chuyện sau đây được khởi lên: "Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi được nếm khả ái, thỉnh thoảng thân được cảm giác xúc khả ái. Thưa các Hiền giả, Tỷ-kheo khất thực được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi đi khất thực. |
"So, friends, let's become alms-collecting monks. Then we, too, while going for alms, will periodically get to see agreeable sights via the eye ... to hear agreeable sounds via the ear ... to smell agreeable aromas via the nose ... to taste agreeable flavors via the tongue ... to touch agreeable tactile sensations via the body. We, too, while going for alms, will be honored, respected, revered, venerated, and given homage." And this discussion came to no conclusion. |
Vậy này chư Hiền, chúng ta hăy là ngựi đi khất thực, thỉnh thoảng, mắt chúng ta được thấy sắc khả ái, thỉnh thoảng tai chúng ta được nghe tiếng khả ái, thỉnh thoảng mũi chúng ta được ngửi hương khả ái, thỉnh thoảng lưỡi chúng ta được nếm vị khả ái, thỉnh thoảng thân chúng ta được cảm giác xúc khả ái. Chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính khi chúng ta sẽ đi khất thực". Câu chuyện này giữa các Tỷ-kheo ấy chưa được nói xong. |
Then the Blessed One, emerging from his seclusion in the late afternoon, went to the kareri-tree pavilion and, on arrival, sat down on a seat made ready. As he was sitting there, he addressed the monks: "For what topic are you gathered together here? And what was the discussion that came to no conclusion?" |
Thế Tôn vào buổi chiều, từ Thiền định đứng dậy, đi đến rạp tṛn có cây kareri, sau khi đến ngồi trên chỗ đă soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo: - Này các Tỷ-kheo, này các Thầy ngồi ở đây nói câu chuyện ǵ? Và câu chuyện ǵ giữa các Thầy chưa được nói xong? |
"Just now, lord, after the meal, on returning from our alms round, we gathered here at the kareri-tree pavilion when this discussion arose: [They repeat what had been said.] " |
- Ở đây, bạch Thế Tôn, chúng con sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, chúng con ngồi hội họp tại rạp tṛn có cây kareri, và câu chuyện sau đây được khởi lên giữa chúng con: "Tỷ-kheo đi khất thực, thưa các Hiền giả, thỉnh thoảng mắt được thấy sắc khả ái... chúng ta cũng được cung kính, tôn trọng, đảnh lễ, cúng dường, tôn kính, khi chúng ta sẽ đi khất thực ". Bạch Thế Tôn đây là câu chuyện giữa chúng con chưa được nói xong th́ Thế Tôn đến. |
"It isn't right, monks, that sons of good families, on having gone forth out of faith from home to the homeless life, should talk on such a topic. When you have gathered you have two duties: either Dhamma-talk or noble silence."2 |
- Này các Tỳ-kheo, chuyện này thật không xứng đáng cho các Thầy, là những thiện nam tử, v́ ḷng tin xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, khi các Thầy nói lên câu chuyện như vậy. Khi các Thầy ngồi hội họp với nhau, này các Tỷ-kheo, có hai công việc cần phải làm: Nói pháp hay giữ im lặng của bậc Thánh!. |
Then, on realizing the significance of that, the Blessed One on that occasion exclaimed: |
Rồi Thế Tôn sau khi hiểu biết ư nghĩa này ngay trong lúc ấy, nói lên lời cảm hứng này: |
The monk going for alms, supporting himself and no other: The devas adore one such as this — if he's not relying on fame & praise. |
|
|
|
Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng. Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com |
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006 Kỹ thuật tŕnh bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp |
|