Mindfulness of In-&-Out Breathing

Nhập Xuất Tức Niệm

 

"Mindfulness of in-&-out breathing, when developed & pursued, is of great fruit, of great benefit. Mindfulness of in-&-out breathing, when developed & pursued, brings the four frames of reference to their culmination. The four frames of reference, when developed & pursued, bring the seven factors for Awakening to their culmination. The seven factors for Awakening, when developed & pursued, bring clear knowing & release to their culmination.

Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, đưa đến quả lớn, công đức lớn. Nhập tức xuất tức niệm, được tu tập, làm cho sung măn, khiến cho bốn niệm xứ được viên măn. Bốn niệm xứ được tu tập, làm cho sung măn, khiến cho bảy giác chi được viên măn. Bảy giác chi được tu tập, làm cho sung măn, khiến cho minh giải thoát (vijjavimutti) được viên măn.

 

"Now, how is mindfulness of in-&-out breathing developed & pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination?

Và này các Tỷ-kheo, như thế nào tu tập nhập tức xuất tức niệm ? Như thế nào làm cho sung măn? Như thế nào khiến cho bốn niệm xứ được viên măn ?

 

"There is the case where a monk, having gone to the wilderness, to the shade of a tree, or to an empty building, sits down folding his legs crosswise, holding his body erect, and setting mindfulness to the fore. Always mindful, he breathes in; mindful he breathes out.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đi đến khu rừng, đi đến gốc cây, hay đi đến ngôi nhà trống, và ngồi kiết-già, lưng thẳng và trú niệm trước mặt. Chánh niệm, vị ấy thở vô; chánh niệm, vị ấy thở ra.

 

"[1] Breathing in long, he discerns that he is breathing in long; or breathing out long, he discerns that he is breathing out long. [2] Or breathing in short, he discerns that he is breathing in short; or breathing out short, he discerns that he is breathing out short. [3] He trains himself to breathe in sensitive to the entire body, and to breathe out sensitive to the entire body. [4] He trains himself to breathe in calming the bodily processes, and to breathe out calming the bodily processes.

{1}Thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay thở ra dài, vị ấy biết : "Tôi thở ra dài".{2} Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". {3}"Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {4}"An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

 

"[5] He trains himself to breathe in sensitive to rapture, and to breathe out sensitive to rapture. [6] He trains himself to breathe in sensitive to pleasure, and to breathe out sensitive to pleasure. [7] He trains himself to breathe in sensitive to mental processes, and to breathe out sensitive to mental processes. [8] He trains himself to breathe in calming mental processes, and to breathe out calming mental processes.

{5}"Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {6}"Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {7}"Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {8}"An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

 

"[9] He trains himself to breathe in sensitive to the mind, and to breathe out sensitive to the mind. [10] He trains himself to breathe in satisfying the mind, and to breathe out satisfying the mind. [11] He trains himself to breathe in steadying the mind, and to breathe out steadying the mind. [12] He trains himself to breathe in releasing the mind, and to breathe out releasing the mind.

{9}"Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác về tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {10}"Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.{11} "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm định tĩnh, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {12}"Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

 

"[13] He trains himself to breathe in focusing on inconstancy, and to breathe out focusing on inconstancy. [14] He trains himself to breathe in focusing on dispassion [literally, fading], and to breathe out focusing on dispassion. [15] He trains himself to breathe in focusing on cessation, and to breathe out focusing on cessation. [16] He trains himself to breathe in focusing on relinquishment, and to breathe out focusing on relinquishment.

{13}"Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. {14}"Quán ly tham, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập "Quán ly tham, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.{15}"Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán đoạn diệt, tôi sẽ thở ra, vị ấy tập. {16}"Quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập.

 

The Four Frames of Reference

Bốn Niệm Xứ

 

"[1] Now, on whatever occasion a monk breathing in long discerns that he is breathing in long; or breathing out long, discerns that he is breathing out long; or breathing in short, discerns that he is breathing in short; or breathing out short, discerns that he is breathing out short; trains himself to breathe in... &... out sensitive to the entire body; trains himself to breathe in... &... out calming the bodily processes: On that occasion the monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — the in-&-out breath — is classed as a body among bodies, which is why the monk on that occasion remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

{1}Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thở vô dài, vị ấy biết : "Tôi thở vô dài". Hay khi thở ra dài, vị ấy biết "Tôi thở ra dài". Hay thở vô ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở vô ngắn". Hay khi thở ra ngắn, vị ấy biết : "Tôi thở ra ngắn". "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác cả toàn thân, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh thân hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thân trên thân, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các thân, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, vị Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

 

"[2] On whatever occasion a monk trains himself to breathe in... &... out sensitive to rapture; trains himself to breathe in... &... out sensitive to pleasure; trains himself to breathe in... &... out sensitive to mental processes; trains himself to breathe in... &... out calming mental processes: On that occasion the monk remains focused on feelings in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I tell you, monks, that this — close attention to in-&-out breaths — is classed as a feeling among feelings, which is why the monk on that occasion remains focused on feelings in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

{2} Khi nào, này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác hỷ thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác lạc thọ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm hành, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "An tịnh tâm hành tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán thọ trên các thọ, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, đối với các cảm thọ, Ta nói đây là một, tức là thở vô thở ra. Do vậy này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thọ trên các cảm thọ, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

 

"[3] On whatever occasion a monk trains himself to breathe in... &... out sensitive to the mind; trains himself to breathe in... &... out satisfying the mind; trains himself to breathe in... &... out steadying the mind; trains himself to breathe in... &... out releasing the mind: On that occasion the monk remains focused on the mind in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. I don't say that there is mindfulness of in-&-out breathing in one of confused mindfulness and no alertness, which is why the monk on that occasion remains focused on the mind in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

{3}Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Cảm giác tâm, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở vô", vị ấy tu tập. "Với tâm hân hoan, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm Thiền định, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Với tâm giải thoát, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán tâm trên tâm, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm, để chế ngự tham ưu ở đời. Này các Tỷ-kheo, sự tu tập nhập tức xuất tức niệm không thể đến với kẻ thất niệm, không có tỉnh giác. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán tâm trên tâm, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

 

"[4] On whatever occasion a monk trains himself to breathe in... &... out focusing on inconstancy; trains himself to breathe in... &... out focusing on dispassion; trains himself to breathe in... &... out focusing on cessation; trains himself to breathe in... &... out focusing on relinquishment: On that occasion the monk remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world. He who sees clearly with discernment the abandoning of greed & distress is one who oversees with equanimity, which is why the monk on that occasion remains focused on mental qualities in & of themselves — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world.

{4} Khi nào này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nghĩ : "Quán vô thường, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán vô thường, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. "Quán ly tham.... quán đoạn diệt... quán từ bỏ, tôi sẽ thở vô", vị ấy tập. "Quán từ bỏ, tôi sẽ thở ra", vị ấy tập. Trong khi tùy quán trên các pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo an trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời. Vị ấy, do đoạn trừ tham ưu, sau khi thấy với trí tuệ, khéo nh́n (sự vật) với niệm xả ly. Do vậy, này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán pháp trên các pháp, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời.

 

"This is how mindfulness of in-&-out breathing is developed & pursued so as to bring the four frames of reference to their culmination.

Nhập tức xuất tức niệm, này các Tỷ-kheo, được tu tập như vậy được làm cho sung măn như vậy, khiến cho bốn niệm xứ được viên măn.

 

The Seven Factors for Awakening

Bảy Giác Chi tu tập cho sự Giác Ngộ

 

"And how are the four frames of reference developed & pursued so as to bring the seven factors for Awakening to their culmination?

Và bốn niệm xứ, này các Tỷ-kheo, tu tập như thế nào, làm cho sung măn như thế nào, khiến cho bảy giác chi được viên măn ?

 

"[1] On whatever occasion the monk remains focused on the body in & of itself — ardent, alert, & mindful — putting aside greed & distress with reference to the world, on that occasion his mindfulness is steady & without lapse. When his mindfulness is steady & without lapse, then mindfulness as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

{1}Này các Tỷ-kheo, trong khi tùy quán thân trên thân, Tỷ-kheo trú, nhiệt tâm, tỉnh giác, chánh niệm để chế ngự tham ưu ở đời, trong khi ấy, niệm không hôn mê của vị ấy được an trú. Trong khi niệm không hôn mê của vi ấy cũng được an trú, này các Tỷ-kheo, trong khi ấy niệm giác chi được bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo, trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi. Trong khi ấy niệm giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên măn.

 

"[2] Remaining mindful in this way, he examines, analyzes, & comes to a comprehension of that quality with discernment. When he remains mindful in this way, examining, analyzing, & coming to a comprehension of that quality with discernment, then analysis of qualities as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

(2)Này các Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy. Này các Tỷ-kheo, trong khi trú với chánh niệm như vậy, Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy trạch pháp giác chi được bắt đầu khởi lên, với Tỷ-kheo. Trong khi ấy, Tỷ-kheo tu tập trạch pháp giác chi. Trong khi ấy trạch pháp giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên măn.

 

"[3] In one who examines, analyzes, & comes to a comprehension of that quality with discernment, unflagging persistence is aroused. When unflagging persistence is aroused in one who examines, analyzes, & comes to a comprehension of that quality with discernment, then persistence as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

{3}Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, sự tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên với vị Tỷ-kheo. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với trí tuệ suy tư, tư duy, thẩm sát pháp ấy, trong khi ấy sự tinh tấn không thụ động bắt đầu khởi lên với Tỷ-kheo ấy. Trong khi ấy tinh tấn giác chi được bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy Tỷ-kheo tu tập tinh tấn giác chi. Trong khi ấy, tinh tấn giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên măn. Hỷ không liên hệ đến vật chất được khởi lên nơi vị tinh tấn tinh cần.

 

"[4] In one whose persistence is aroused, a rapture not-of-the-flesh arises. When a rapture not-of-the-flesh arises in one whose persistence is aroused, then rapture as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

{4}Trong khi hỷ không liên hệ đến vật chất khởi lên nơi Tỷ-kheo tinh tấn tinh cần, trong khi ấy hỷ giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy hỷ giác chi được vị Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy hỷ giác chi được Tỷ-kheo tu tập đi đến viên măn.

 

"[5] For one who is enraptured, the body grows calm and the mind grows calm. When the body & mind of an enraptured monk grow calm, then serenity as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

{5}Thân của vị ấy được tâm hoan hỷ trở thành khinh an, tâm cũng được khinh an. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với ư hoan hỷ được thân khinh an, được tâm cũng khinh an, trong khi ấy, khinh an giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy, khinh an giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn. Một vị có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh.

 

"[6] For one who is at ease — his body calmed — the mind becomes concentrated. When the mind of one who is at ease — his body calmed — becomes concentrated, then concentration as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

{6}Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo có thân khinh an, an lạc, tâm vị ấy được định tĩnh, trong khi ấy định giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy định giác chi được Tỷ-kheo làm cho đi đến sung măn.

 

"[7] He oversees the mind thus concentrated with equanimity. When he oversees the mind thus concentrated with equanimity, equanimity as a factor for Awakening becomes aroused. He develops it, and for him it goes to the culmination of its development.

{7}Vị ấy với tâm định tĩnh như vậy, khéo nh́n (sự vật) với ư niệm xả ly. Này các Tỷ-kheo, trong khi Tỷ-kheo với tâm định tĩnh như vậy, khéo nh́n (sự vật) với ư niệm xả ly, trong khi ấy xả giác chi bắt đầu khởi lên nơi Tỷ-kheo . Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo tu tập. Trong khi ấy xả giác chi được Tỷ-kheo làm cho đến sung măn.

 

[Similarly with the other three frames of reference: feelings, mind, & mental qualities.]

"This is how the four frames of reference are developed & pursued so as to bring the seven factors for Awakening to their culmination.

{Giống như các cấu trúc trên cho: quán thọ trên các cảm thọ, quán tâm trên tâm ....)

Đây là như thế nào bốn niệm xứ được tu tập, được làm cho sung măn như vậy khiến cho bảy giác chi được sung măn.

 

Clear Knowing & Release

"And how are the seven factors for Awakening developed & pursued so as to bring clear knowing & release to their culmination? There is the case where a monk develops mindfulness as a factor for Awakening dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in relinquishment. He develops analysis of qualities as a factor for Awakening... persistence as a factor for Awakening... rapture as a factor for Awakening... serenity as a factor for Awakening... concentration as a factor for Awakening... equanimity as a factor for Awakening dependent on seclusion... dispassion... cessation, resulting in relinquishment.
"This is how the seven factors for Awakening, when developed & pursued, bring clear knowing & release to their culmination."
That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

MN 118

Giác Ngộ và Giải thoát

Và này các Tỷ-kheo, bảy giác chi tu tập như thế nào, làm cho sung măn như thế nào, khiến cho minh giải thoát được viên măn?. Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo tu tập niệm giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng đến xả ly; tu tập trạch pháp giác chi... (như trên)... tu tập tinh tấn giác chi... (như trên)... tu tập hỷ giác chi... (như trên)... tu tập khinh an giác chi... (như trên)... tu tập định giác chi... (như trên)... tu tập xả giác chi, liên hệ đến viễn ly, liên hệ đến ly tham, liên hệ đến diệt, hướng đến xả ly.
Này các Tỷ-kheo, bảy giác chi được tu tập như vậy, được làm cho sung măn như vậy, khiến cho minh giải thoát được viên măn.
Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

MN 118

 

Mindfulness of Death

(19) NIỆM CHẾT (1)

 

I have heard that at one time the Blessed One was staying at Nadika, in the Brick Hall. There he addressed the monks:

Một thời, Thế Tôn trú ở Nàdika, tại Ginjakàvasattha. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo :

 

"Monks!"

"Này các Tỷ-kheo"

 

"Yes, lord," the monks replied.

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said, "Mindfulness of death, when developed & pursued, is of great fruit & great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end. Therefore you should develop mindfulness of death."

Thế Tôn nói như sau : - Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn, có quả lớn, có lợi ích lớn, nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. Này các Tỷ-kheo, các Thầy hăy tu tập niệm chết.

 

When this was said, a certain monk addressed the Blessed One, "I already develop mindfulness of death."

Được nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con có tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death?

Này các Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

I think, 'O, that I might live for a day & night, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Mong rằng ta sống ngày và đêm tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, already develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death?

Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

I think, 'O, that I might live for a day, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Mong rằng ta sống trọn ngày tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death

Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

I think, 'O, that I might live for a day, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Mong rằng ta sống trọn ngày tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death?

Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

"I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to eat a meal, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.This is how I develop mindfulness of death.

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death?

Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up four morsels of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.This is how I develop mindfulness of death.

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death?

Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up one morsel of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

Then another monk addressed the Blessed One, "I, too, develop mindfulness of death."

Một Tỷ-kheo khác bạch Thế Tôn : - Bạch Thế Tôn, con cũng tu tập niệm chết.

 

And how do you develop mindfulness of death?

Này Tỷ-kheo, Thầy tu tập niệm chết như thế nào ?

 

I think, 'O, that I might live for the interval that it takes to breathe out after breathing in, or to breathe in after breathing out, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal.' This is how I develop mindfulness of death."

Ở đây, bạch Thế Tôn, con suy nghĩ như sau : "Cho đến khi nào, sau khi thở vào, ta thở ra, hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn". Con đă làm nhiều như vậy. Như vậy, bạch Thế Tôn, con tu tập niệm chết.

 

When this was said, the Blessed One addressed the monks:

Được nghe nói vậy, Thế Tôn nói với các vị Tỷ-kheo ấy :

 

Whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for a day & night that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'. Whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for a day, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'. Whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for the interval that it takes to eat a meal.that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'. Whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up four morsels of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal' — they are said to dwell heedlessly. They develop mindfulness of death slowly for the sake of ending the effluents.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : "Mong rằng ta sống ngày và đêm, tác ư đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đă làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : "Mong rằng ta sống trọn ngày tác ư đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đă làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : "Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn đồ ăn khất thực, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn. Ta đă làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : "Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn và nuốt bốn, năm miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn, ta đă làm nhiều như vậy".

 

But whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for the interval that it takes to swallow having chewed up one morsel of food, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal'.whoever develops mindfulness of death, thinking, 'O, that I might live for the interval that it takes to breathe out after breathing in, or to breathe in after breathing out, that I might attend to the Blessed One's instructions. I would have accomplished a great deal' — they are said to dwell heedfully. They develop mindfulness of death acutely for the sake of ending the effluents.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : "Mong rằng cho đến khi nào ta c̣n ăn một miếng đồ ăn, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn, ta đă làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo này tu tập niệm chết như sau : "Mong rằng cho đến khi nào sau khi thở vào, ta thở ra hay sau khi thở ra, ta thở vào, cho đến khi ấy, ta tác ư đến lời dạy của Thế Tôn, ta đă làm nhiều như vậy". Này các Tỷ-kheo, những Tỷ-kheo ấy được gọi là những vị sống không phóng dật, tu tập rất sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc.

 

Therefore you should train yourselves: 'We will dwell heedfully. We will develop mindfulness of death acutely for the sake of ending the effluents.' That is how you should train yourselves."

Do vậy, này các Tỷ-kheo, này các Tỷ-kheo, các Thầy cần phải tu học như sau : "Hăy sống không phóng dật ! Ta sẽ tu tập một cách sắc sảo niệm chết để đoạn diệt các lậu hoặc".

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

AN VI.19

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tỷ kheo hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn

AN VI.19

 

Mindfulness of Death

(IX) (20) NIỆM CHẾT (2)

 

I have heard that at one time the Blessed One was staying at Nadika, in the Brick Hall. There he addressed the monks,

Một thời, Thế Tôn trú ở Nàdika, tại Ginjakàvasatha. Tại đấy, Thế Tôn dạy các Tỷ-kheo :

 

"Monks, mindfulness of death — when developed & pursued — is of great fruit & great benefit. It gains a footing in the Deathless, has the Deathless as its final end. And how is mindfulness of death developed & pursued so that it is of great fruit & great benefit, gains a footing in the Deathless, and has the Deathless as its final end?

Niệm chết, này các Tỷ-kheo, được tu tập, được làm cho sung măn thời có quả lớn, có lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử. Tu tập niệm chết như thế nào, làm cho sung măn niệm chết như thế nào thời đưa đến quả lớn, lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử ?

 

There is the case where a monk, as day departs and night returns, reflects: 'Many are the [possible] causes of my death. A snake might bite me, a scorpion might sting me, a centipede might bite me. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me. Stumbling, I might fall; my food, digested, might trouble me; my bile might be provoked, my phlegm... piercing wind forces [in the body] might be provoked. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi ngày vừa tàn và đêm vừa an trú, suy tư như sau : "Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều : "Con rắn có thể cắn ta, con ḅ cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ trở ngại cho ta. Ta có thể vấp ngă và té xuống. Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, đàm có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta".

 

Then the monk should investigate: 'Are there any evil, unskillful mental qualities unabandoned by me that would be an obstruction for me were I to die in the night?' If, on reflecting, he realizes that there are evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die in the night, then he should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau : "Nếu ta c̣n có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau : "Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác.

 

Just as when a person whose turban or head was on fire would put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness to put out the fire on his turban or head, in the same way the monk should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities. But if, on reflecting, he realizes that there are no evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die in the night, then for that very reason he should dwell in joy & rapture, training himself day & night in skillful qualities.

Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau : "Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.

 

Further, there is the case where a monk, as night departs and day returns, reflects: 'Many are the [possible] causes of my death. A snake might bite me, a scorpion might sting me, a centipede might bite me. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me. Stumbling, I might fall; my food, digested, might trouble me; my bile might be provoked, my phlegm... piercing wind forces [in the body] might be provoked. That would be how my death would come about. That would be an obstruction for me.'

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi đêm vừa tàn và ngày vừa an trú, suy tư như sau : "Các nhân duyên đem đến cái chết cho ta rất nhiều : "Con rắn có thể cắn ta, con ḅ cạp có thể cắn ta, hay con rít có thể cắn ta. Do vậy, ta có thể mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta. Ta có thể vấp ngă và té xuống. Cơm ta ăn có thể làm ta mắc bệnh khi ăn, hay mật có thể khuấy động ta, hay đàm có thể khuấy động ta. Các gió như kiếm có thể khuấy động ta. Và như vậy có thể làm ta mệnh chung. Như vậy sẽ là chướng ngại cho ta"

 

Then the monk should investigate: 'Are there any evil, unskillful mental qualities unabandoned by me that would be an obstruction for me were I to die during the day?' If, on reflecting, he realizes that there are evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die during the day, then he should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy cần phải suy xét như sau : "Nếu ta c̣n có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung trong ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, nếu Tỷ-kheo trong khi suy xét như vậy, biết được như sau : "Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung ngày hôm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta", thời này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các pháp ác bất thiện ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy và tỉnh giác.

 

Just as when a person whose turban or head was on fire would put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness to put out the fire on his turban or head, in the same way the monk should put forth extra desire, effort, diligence, endeavor, undivided mindfulness, & alertness for the abandoning of those very same evil, unskillful qualities. But if, on reflecting, he realizes that there are no evil, unskillful mental qualities unabandoned by him that would be an obstruction for him were he to die during the day, then for that very reason he should dwell in joy & rapture, training himself day & night in skillful qualities.

Ví như, này các Tỷ-kheo, áo bị cháy hay đầu bị cháy, thời để dập tắt áo ấy hay đầu ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy, để đoạn tận các ác bất thiện pháp ấy, cần phải tận lực tác động ước muốn, tinh tấn, tinh cần, nỗ lực, không có thối chuyển, chánh niệm và tỉnh giác. Nếu Tỷ-kheo ấy, trong khi suy xét, biết được như sau : "Ta có những pháp ác bất thiện chưa được đoạn tận, nếu ta lỡ mệnh chung đêm nay, chúng có thể là chướng ngại cho ta". Này các Tỷ-kheo, vị Tỷ-kheo ấy cần phải sống hoan hỷ, hân hoan, ngày đêm cần phải học tập trong các thiện pháp.

 

This, monks, is how mindfulness of death is developed & pursued so that it is of great fruit & great benefit, gains a footing in the Deathless, and has the Deathless as its final end."

Này các Tỷ-kheo, niệm chết, tu tập như vậy, làm cho sung măn như vậy thời được quả lớn, được lợi ích lớn, thể nhập vào bất tử, cứu cánh là bất tử.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, the monks delighted in the Blessed One's words.

AN VI.20

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tỷ kheo hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn.

AN VI.20

 

And who is the person who, subject to death, is not afraid or in terror of death? There is the case of the person who has abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, and craving for sensuality... who has abandoned passion, desire, fondness, thirst, fever, and craving for the body... who has done what is good, what is skillful, has given protection to those in fear, and has not done what is evil, savage, or cruel... who has no doubt or perplexity, who has arrived at certainty with regard to the True Dhamma. When he comes down with a serious disease... he does not grieve, is not tormented, does not weep or beat his breast or grow delirious. This is another person who, subject to death, is not afraid or in terror of death.

— AN VI.184

Và những ai là người phải chịu sự chết, không hoảng sợ hay kinh hăi trong sự chết? Ở đây có những người đă từ bỏ t́nh dục, dục vọng, sự ưa thích, khao khát, kích thích, ḷng thèm muốn cho tính khoái lạc....Ai đă từ bỏ t́nh dục, dục vọng, sự ưa thích, khao khát, kích thích, ḷng thèm muốn cho thân.....ai đă làm những điều đó là tốt lành, là tài giỏi, là tự bảo vệ khỏi sự sợ hăi, và đă không làm những ǵ xấu hại, tàn ác, hay hung ác.... ai không nghi ngờ hay bối rối, ai đă đạt tới sự tin chắc quan tâm tới Chánh Pháp. Khi người đó thân hoại mệnh chung.... người đó không đau buồn, không đau khổ, không khóc lóc hay không đấm ngực hay không hôn mê nói sảng. Đây là người khi đối diện sự chết, th́ không hoảng sợ hay kinh hăi sự chết.

— AN VI.184

 

Now, based on what line of reasoning should one often reflect... that "I am subject to death, have not gone beyond death"? There are beings who are intoxicated with a [typical] living person's intoxication with life. Because of that intoxication with life, they conduct themselves in a bad way in body... in speech... and in mind. But when they often reflect on that fact, that living person's intoxication with life will either be entirely abandoned or grow weaker...
Now, a disciple of the noble ones considers this: "I am not the only one subject to death, who has not gone beyond death. To the extent that there are beings — past and future, passing away and re-arising — all beings are subject to death, have not gone beyond death." When he/she often reflects on this, the [factors of the] path take birth. He/she sticks with that path, develops it, cultivates it. As he/she sticks with that path, develops it and cultivates it, the fetters are abandoned, the obsessions destroyed.

AN V.57

Do duyên lợi ích như thế nào, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị chết, ta không thoát khỏi chết", là sự kiện cần phải thường xuyên quán sát bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia? Có những lời hữu t́nh đang sống, này các Tỷ-kheo, kiêu mạn trong sự sống. Do say đắm trong kiêu mạn ấy, thân làm ác, miệng nói ác, ư nghĩ ác. Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện này, sự kiêu mạn sự sống trong sự sống được hoàn toàn đoạn tận hay được giảm thiểu. Do duyên lợi ích này, này các Tỷ-kheo, "Ta phải bị chết, không thoát khỏi chết", cần phải thường xuyên quán sát như vậy bởi nữ nhân hay nam nhân, bởi tại gia hay xuất gia.
Nếu vị Thánh đệ tử, này các Tỷ-kheo, suy tư như sau: "Không phải chỉ một ḿnh ta già, không thoát khỏi già, nhưng phàm có những loài hữu t́nh nào có đến, có đi, có diệt, có sanh, tất cả loài hữu t́nh ấy phải bị già, không thoát khỏi già". Do vị ấy thường xuyên quán sát sự kiện ấy, con đường được sanh khởi. Vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn. Do vị ấy sử dụng con đường ấy, tu tập, làm cho sung măn nên các kiết sử được đoạn tận, các tùy miên được chấm dứt.

AN V.57

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^

 

^^^^^^

^^^^^^