Phổ Nguyệt
---o0o---
CHƯƠNG BA
TRI KIẾN PHẬT GIÁO
A- TỔNG QUÁT
Khi viết về Buđdha (Phật Thích Ca Mâu Ni) th́
Jaspers đối diện với một chủ đề xa lạ mà sự kiện cũng như tinh thần đều
thiếu sót cho một triết gia người Đức. Tuy nhiên không dễ ǵ, cho bất cứ
ai, ở đâu, thời điểm nào, để có thể nói về Buđdha mà không bị thiếu sót.
Suy luận với kiến thức nửa vời c̣n nguy hiểm hơn không có kiến thức; nhưng
một nửa kiến thức có một nửa cơ hội đến sự thật, c̣n không kiến thức th́
chỉ là u tối và ngu dốt. Với một đề tài như triết học của Buđdha không ai
có thẩm quyền để nói rằng họ có đầy đủ kiến thức.
Mở đầu, Jaspers công nhận một sự kiện lịch sử :không có một sự chắc chắn
nào về sử kiện đối với những ǵ mà Buđdha đă thuyết giảng. Nếu một ai đ̣i
hỏi một tiêu chuẩn chính xác cao độ về sử kiện th́ họ chỉ c̣n lại số
không. Cuộc đời, triết lư của Buđdha là một nửa huyền thoại, một nửa sử
tính. Buđdha được tái dựng lại bởi những thế hệ đàng sau nhiều hơn là con
người lịch sử nguyên thủy. Nhưng đó chính là thực tế của văn minh và lịch
sử nhân loại đối với những vĩ nhân.
Chủ thuyết của Buđdha là sự cứu rỗi bằng trí tuệ (redemption by insight),
Jaspers viết. ( Đâylà vấn đề của Jaspers khi mở đầu phần thảo luận về học
thuyết của Buđdha. Doctrine và Redemption ( cứu rỗi ) không phải là thuộc
về phạm trù khái niệm trong tư tưởng của Buđdha- mà là của Thiên Chúa giáo
Tây phương ). Chánh Kiến là sự cứu thoát cho sinh hữu. Chánh kiến của
Buđdha không phải kiến thức từ cảm quan hay vận động của lư luận; nhưng mà
nó là khởi lên từ một thể nghiệm bởi sự chuyển hóa của ư thức từ những
giai tŕnh thiền định.
Buđdha khởi đi và kiến tạo giáo lư trên căn bản của một nhà Yogi trong
truyền thống Ấ n Giáo. Mọi khả thể giải thoát, tri kiến hay giác ngộ đều
đến từ thiền định để khai mở tuệ nhăn. Từ đó, Buđdha mở đầu triết học bằng
một sự đ̣i hỏi lớn lao, vượt qua sự b́nh thường trong khả thể tính nhân
loại. Kiến thức và ư thức nhân loại, trên các lănh vực khoa học và triết,
chỉ vẫn c̣n nằm ở mức độ thế tục. Ư thức vẫn chỉ là một biến số. Lư tính
vẫn chỉ nằm trong giới hạn của không và thời gian. Phật Pháp như chúng ta
thường nghe và biết đến, là sâu thẳm, khó mà lănh hội, khó mà hiểu thấu,
đầy an lành, huy hoàng, không thể đến được bằng suy tưởng, vi tế; chỉ
những bậc đại trí mới có thể học được Pháp.
Và đó là vấn đề triết học của Buđdha :một hệ thống chứng ngộ cao cấp, chỉ
dành cho một thiểu số nhỏ, một giai tầng trí thức thượng đẳng của giới quư
tộc của giống dân đặc biệt của vùng Hy Mă Lập Sơn, trở thành cơ đồ tôn
giáo, tín ngưỡng và đạo học b́nh dân, phổ thông mang đầy màu sắc huyền
thoại và sử tính. Duy thức học Phật Giáo, nhánh sông triết học từ tư tưởng
của Buđdha, chẳng hạn, là một môn epistemology (Bản thể học của kiến thức)
thượng đẳng mà muốn lănh hội nó phải cần có một khả năng trí thức cao,
tương đương với tŕnh độ tiến sĩ hiện nay của giáo dục bằng cấp Tây Âu,
mới có thể hiểu thấu được. V́ vậy, Phật giáo khi, trở nên phổ thông và
b́nh dân hóa, đă chỉ c̣n là một hệ quả từ lịch sử đầy nhầm lẫn, hiểu lầm,
mà tinh hoa của những ǵ Buđdha rao giảng nay chỉ c̣n là gánh nặng của
chiều dài lịch sử mà thôi.
Jaspers cũng tŕnh bày đến những chủ thuyết căn bản của Buđdha: của Tứ
Diệu Đế, của Bát Chánh Đạo. Jaspers phiên giải những ǵ Buđdha kêu gọi
trên khuôn mẫu hiện sinh luận: Con người đối diện với Existenz (Hiện thể)
như là sự chọn lựa giữa khả thể tính Trở Nên. Trong suy lư, thiền định, và
niềm tin, con người phải đặt cho chính hắn mục đích sinh tồn tối hậu cho
hắn. Hắn vật vă, lao tác, như một kẻ leo núi. V́ thế mà Buđdha luôn kêu
gọi nỗ lực ư chí. Tất cả sinh lực của cá nhân phải được vận dụng. Cá nhân
phải tự đốt đuốc lên mà đi--và hắn phải đem ánh sáng từ ngọn lửa tri thức
do chính hắn đốt lên để mà đi sâu vào bóng tối tận trong góc cạnh tâm thức
u minh, sâu thẳm. Và chỉ có thể được như thế qua thiền định. Mệnh lệnh
toàn thể là vậy: đừng để bất cứ cái ǵ nằm yên, lẫn kín trong góc tối của
vô thức để chỉ nó có thể tác hành qua vọng tưởng; hăy hoàn toàn tĩnh thức,
giác ngộ trước tất cả hành động và nghiệm thể cho chính ḿnh.
Về sinh hiện, triết lư của Buđdha là truyền thống Ấn Độ mà nặng nhất trong
truyền thống nầy là khái niệm karma (nghiệp). Tất cả sinh hiện chỉ là tiến
tŕnh Trở Nên bị điều kiện hóa bởi nghiệp quả vốn phát xuất từ vô minh.
Cái chuỗi dài nhân quả nầy cần phải được chấm dứt. Tất cả đều đang bị đốt
cháy bởi ngọn lửa tham dục bởi năng lực tự ngă. Chấm dứt chuỗi dài nhân
quả nầy, theo Jaspers, là sự chấm dứt tất cả sinh hiện với những đau khổ
của nó.
Jaspers hỏi: Từ đâu mà cái vô minh nầy đến để từ đó là sự khởi đi cho tất
cả khổ đau? Theo Jaspers th́ câu hỏi đó chưa bao giờ được nêu lên. Jaspers
viết: Không có một sự thảo luận về sự sa ngă đầu tiên từ toàn thiện vĩnh
cửu vào trong vô minh, một biến cố mà đă có thể nhắc nhở đến sự vấp ngă
của con người trong truyền thống Judaeo-Christian. Một loạt những câu hỏi
nối tiếp nhau có vẻ như ám chỉ rằng một biến cố như vậy đă là nguyên khởi
cho tất cả những bi đát của thế gian nầy. Nhưng ở đây Phật Giáo ngừng câu
hỏi. Trí tuệ đă cung cấp sự chắc chắn về cứu rỗi và như thế là đủ rồi. Và
thế là không có tội lỗi ǵ có dính dáng đến biến cố mà khổ đau khởi sinh;
v́ ai có thể can tội? Khi Buđđha từ chối có một ai đó. Không có tự ngả,
không có ta, không có một định thể cá nhân. Tất cả đều là giả hợp trong
năng động cấu thành nghiệp quả.
Những vấn nạn mà Jaspers nêu lên đều là những vấn đề lớn của triết học
Buđđha. Trong duy thức học. Phât Giáo, qua Mă Minh và các triết gia lớn
của Phật Giáo về sau, cố khai phá một luận đề triết học về sự khởi đi của
vô minh và vai tṛ của tri thức trong tiến tŕnh Trở Nên của sinh hữu qua
sự tác động của nghiệp quả. Nhưng ở đây, Jaspers chỉ muốn nói về triết học
của Buđđha-- c̣n triết học Phật Giáo th́ là một chuyện khác vốn bao gồm cả
một lịch sử lâu dài.
Buđđha đă không muốn đưa ra một hệ thống triết học per se (chính nó) v́
chỉ gây thêm tranh luận vô ích. Mục đích của Buđđha là chỉ lối cho nhân
loại giải thoát khỏi ṿng sinh tử luân hồi. Đó là sứ mạng tín ngưỡng.
Buđđha tồn tại trong lịch sử nhân loại là nhờ vào một hệ thống tín điều về
khả thể vượt thoát khỏi hiện hữu trong cơi luân hồi. Jaspers kết luận:
Buđdha là hiện thân của một nhân thể vốn không công nhận một trách nhiệm
nào đối với thế gian, nhưng mà trong một thế gian vươn ra khỏi thế gian
nầy. Nhân thể nầy không tranh đấu hay chống cự. Nh́n vào chính ḿnh như là
một sinh hữu đă đi vào hiện thế qua vô minh, họ chỉ muốn cái hủy diệt,
nhưng ngay điều nầy cũng cực đoan rằng họ không muốn ngay cả cái chết, bởi
v́ họ t́m ra một trú quán vào thường hằng qua khỏi sinh và tử. (TC Triết
1, tr. 234-236)
B- TÁNH KHÔNG-DUYÊN KHỞI
Cho đến nay, dù trải qua mấy mươi thế kỷ được phổ truyền, đạo lư Tánh
Không của Bồ Tát Long Thọ vẫn c̣n diệu lực vượt thoát lên trên tất cả
những hạn cuộc của thế giới tri thức và luận lư tương đối của con người.
Tại sao? Bởi v́, đạo lư Tánh Không ấy không phải được xây dựng trên nền
tảng của tri thức và luận lư thuộc thế giới tỷ lượng hay biến kế chấp của
tâm phan duyên. Đạo lư Tánh Không mang trong nó nội dung mầu nhiệm của
năng lực chiếu sáng từ trí tuệ thực chứng chân lư hay cội nguồn tối hậu
của vạn hữu. Chính khả tính vi diệu của quang lực trí tuệ nầy mới có công
năng đẩy nhận thức và luận lư mà nó sử dụng xóa sạch vết tích trầm trệ cố
hữu trong tri thức và luận lư để lao vút vào cơi tịch lặng chân như...
(Lời giới thiệu cuốn sách Phủ Định Thức và Biện Chứng Pháp Trung Quán của
Viện Triết Lư VN và Triết Học Thế Giới)
Phần tŕnh bày Tánh Không của Bồ Tát Long Thọ được trích trong sách nêu
trên của B. K Martilal do Thượng Tọa Thích Viên Lư dịch.
Phái Trung Quán không tin vào thực tại của đa-nguyên-tánh thuộc hiện
tượng. Họ phủ nhận rằng chân lư tối hậu có thể là tương đối hoặc có thể
tùy thuộc vào bất cứ điều ǵ khác. Triết lư của họ vạch trần tính cách
không xác thực hoặc tính cách bất khả biện minh của trật tự đa-nguyên mà
chúng ta thường h́nh dung ra trong kinh nghiệm và ư tưởng. Về phương diện
nầy họ rất gần gũi với tinh thần của những người thuộc phái Bất Nhị Luận
(Advatin). Cả phái Trung Quán lẫn phái Bất Nhị Luận đều hướng về một loại
chủ thuyết triết học tuyệt đối nào đó. Nhưng phái Bất Nhị Luận có vẻ nhiệt
tâm hơn đối với một lập trường siêu h́nh học khi họ đánh giá những tư
tưởng và kinh nghiệm thông thường. C̣n phái Trung Quán th́ cố gắng duy tŕ
một thái độ thờ ơ về tồn hữu học.
Hai phái Trung Quán và Bất Nhị Luận có vẻ đồng ư về một điểm khác. Chân
lư tối hậu, dù đó là Không Tánh (sùnyatà) hay là Phạm Thiên ( Brahman ),
luôn luôn tiềm ẩn đối với kinh nghiệm thông thường và ư tưởng của chúng
ta; người ta có thể đạt đến chân lư tối hậu bằng kinh nghiệm trực tiếp và
hầu như là thần bí, qua nội quán thâm sâu hoặc qua trực giác của một loại
người đặc biệt nào đó. Vậy, có thể nhận xét rằng, cả hai trường phái trên
đều có khuynh hướng mở khóa cánh cửa đi vào chủ nghĩa thần bí của triết
học hay chủ nghĩa thần bí nhận tri (cognitive mysticism).
Muốn hiểu biết chính xác về loại chủ nghĩa tuyệt đối của phái Trung Quán
th́ cần phải đi vào trung đạo, giữa sự cả tin thái quá và hoài nghi thái
quá. Thật ra, chủ thuyết về Tánh Không chỉ muốn vạch trần cho chúng ta
thấy: người ta sai lầm về luận lư (hoặc về biện chứng pháp) nếu coi bất cứ
hệ thống siêu h́nh học nào đó là có giá trị tuyệt đối. Theo nhận xét của
T.R.V Murti để làm sáng tỏ việc nầy: Biện chứng pháp Trung Quán không phải
là sự phản luận... Phản luận là bác bỏ quan điểm của đối phương bởi một
người quan tâm tới việc thiết lập một quan điểm của chính họ. C̣n sự phê
b́nh là dùng lư trí để phân tích một cách khách quan.
Long Thọ vận dụng thuyết duyên khởi của Phật Giáo thời sơ khai để cho thấy
sự tương đối (nghĩa là sự tương lập lẫn nhau) của tất cả mọi quan niệm, và
do đó, Ngài nói rằng chúng không thể được coi là thực khi nh́n từ quan
điểm tuyệt đối. Ở đây rơ ràng là Ngài muốn nói rằng thực tại phải tự hổ
trợ, độc lập và tuyệt đối. Trong bộ Trung Quán Luận, Long Thọ khảo sát một
số quan niệm siêu h́nh học và phổ biến,như thời gian, không gian, sự
chuyển động, nhân duyên, và sanh và cho thấy rằng mỗi khái niệm đó sẽ dẫn
tới những mâu thuẫn và phi lư, nếu chúng ta coi chúng là thực một cách
tuyệt đối. Mô thức tổng quát của lối biện luận nầy có thể được tóm tắt như
sau : Nếu chúng ta giả thử một vật x nào đó là hiện hữu một cách độc lập,
th́ hoặc là chúng ta không thể thuyết minh một cách nhất trí (và hợp lư )
về vật đó--để tránh sự mâu thuẫn về luận lư --hoặc là giả thiết của chúng
ta về sự hiện hữu độc lập của nó sẽ dẫn tới một hậu quả phi lư nào đó,
trái với kinh nghiệm của chúng ta. Trong câu kệ thứ 18, phẩm thứ 24 của
Trung Luận, B.T Long Thọ thiết lập một liên hệ đồng nhất giữa những từ
ngữ không tánh, duyên khởi, và trungđạo:
Nhân duyên sở sanh pháp ngả thuyết tức thị không, Diệc vi thị giả danh
Diệc thị Trung Đạo nghĩa.
Bất cứ cái ǵ do nhân duyên sanh ra ta đều gọi là không,
Cái đó cũng được gọi là giả danh
Cái đó cũng có nghĩa là Trung Đạo
Theo giải thích của Nguyệt Xứng (Candrakirti ) về câu kệ nầy có thể thiết
lập như sau :
Duyên Khởi = Không Tánh = Giả Danh = Trung Đạo.
Trung Đạo mà Long Thọ nói đó là để tránh hai cực đoan của chủ nghĩa hư vô
và chủ nghĩa thường hằng. Thật ra có thể truy nguyên tư tưởng nầy từ bài
thuyết pháp của đức Phật với Kàtyayàna. Long Thọ viện dẫn bài thuyết pháp
và Nguyệt Xứng ghi chú rằng nó xuất hiện trong những bộ kinh A Hàm. Nguyệt
Xứng cho rằng không tánh--là cái không có nguyên thủy tự nhiên của
nó--được coi là Trung Đạo v́ nó dẫn tới xa ĺa hai cực đoan là hiện hữu
hoặc sanh khởi và vô hiện hữu hoặc hủy diệt. Cái ǵ không có nguyên -thủy
của-chính-nó th́ không có sự hiện hữu hoặc sanh khởi hoặc hiển hiện, và
khi nó không có sự hiện ra th́ nó cũng không có sự biến mất hoặc hủy diệt
hoặc vô hữu. V́ vậy, không tánh có nghĩa là Trung Đạo.
Chúng ta cần bàn thêm về sự đồng nhất giữa duyên khởi và giả danh ( hoặc
quan niệm ). Tác giả A. Wayman giải nghĩa là Định danh khi có sự lệ thuộc.
Ông cũng lập một danh sách gồm những thí dụ để dẫn chứng những định danh
lệ thuộc từ những lời chú giải của Tson-kla-pa về phẩm thứ 6 trong sách
nhập môn Trung quán luận của Nguyệt Xứng.
Lệ thuộc vào duyên
1) ngũ uẩn - Ngă
2) Bộ bánh xe, trục xe,v,v---Xe
3) Hạt giống, v.v---- Mầm
4) Đất, nước, gió, lửa, không khí, không gian và ư thức-Người
5) Khúc dây thừng---Con rắn
6) Nhân và duyên---Không Tánh
Những thí dụ trên đây cho thấy ư niệm về giả danh (cái danh giả huyễn v́
lệ thuộc vào những duyên). Có thể nói duyên khởi và giả danh chỉ là hai
cách khác nhau để nói về cùng một ư niệm : Không-Tánh. Như sao hôm và sao
mai đều là tên của một thiên thể duy nhất nhưng có hai ư nghĩa khác nhau,
cho nên duyên khởi và giả danh đều chỉ là một cái tên giống nhau tuy rằng
chúng có thể có những ư nghĩa khác nhau.
Nguyệt Xứng giải thích duyên khởi là sự xuất hiện hoặc nổi lên của sự vật
nào đó (như cái mầm, nhận thức,v.v-- tùy thuộc vào nhân và duyên. Sự định
danh tùy thuộc (tức là giả danh) là hành động định danh (chỉ định một cái
tên) cho sự vật nào đó--thí dụ như cái xe--tùy thuộc vào các sự vật khác,
như bộ bánh xe, v.v. cả hai chữ duyên khởi và giả danh đều mô tả cùng một
thực thể: cái Tuyệt Đối của không tánh. Chữ duyên khởi (do nhân duyên mà
sanh ra) là đứng trên lập trường siêu h́nh học để h́nh dung sự tuyệt đối
của Không; c̣n chữ giả danh là đứng trên lập trường nhận thức luận để h́nh
dung cái đồng nhất bất nhị của Không. Nói khác, Duyên Khởi gạt bỏ siêu
h́nh học của nhân quả để thay vào đó bằng thuyết nhân duyên tương tác. C̣n
Giả danh th́ vạch trần tính cách vô hiệu quả của sự định danh bằng ngôn
ngữ, và do đó phủ định khả thể của bất cứ khái niệm tri thức nào về thực
tại, và thay vào đó bằng khái niệm về sự định danh tùy thuộc. Tất cả sự
định danh của chúng ta đều là tổng hợp, khi chúng ta Tổng Hợp những yếu tố
khác nhau thành một sự vật nào đó để định danh (đặt tên) cho nó. Tóm lại,
duyên khởi là một nguyên tắc thành lập giữa các đối tượng, c̣n giả danh
th́ thành lập giữa các đối tượng và nhận thức/ư thức của chúng ta về
chúng. Nhưng, trong cả hai trường hợp, chúng ta đều đi đến không-tánh, v́
chúng ta buộc ḷng phải nhận thấy sự thiếu vắng của sanh khởi độc lập hay
sanh khởi do chính bản chất của nó.Thứ nhất, sự thiếu vắng sanh khởi độc
lập dẫn tới không tánh; thứ nh́, vô sanh và sự thiếu vắng định danh tuyệt
đối cũng dẫn tới không tánh.
Long Thọ giải thích thuyết; Không Tánh của Ngài như là bao hàm hai giai
tầng của chân lư, đó là:tục đế (chân lư thế tục) và chân đế (chân lư tối
hậu, đệ nhất nghĩa đế, hay thắng nghĩa đế...). Tục đế kiến lập trên những
giả thiết và tiền đề chưa được khảo nghiệm. Nếu khảo sát những tiền đề nầy
qua những phạm trù luận lư được chấp nhận ở giai tầng thế tục th́ sẽ thấy
rằng chúng có những mâu thuẩn nội tại. Chúng ta không thể lănh hội chân đế
bằng ngôn ngữ. (Điều nầy chính là một giáo điều căn bản của Phật giáo mà
Long Thọ từng đề cập). Nhưng đồng thời, nếu không dùng ngôn ngữ th́ chúng
ta không có cách nào khác để thuyết giảng về chân đế. V́ vậy, ngôn ngữ thế
gian được sử dụng để vạch ra sự thiếu khả năng của ngôn ngữ trong việc bày
tỏ chân đế. Và Long Thọ trông mong rằng phương cách nầy sẽ dẫn chúng ta,
một cách gián tiếp, tới một điểm mà chúng ta có thể lănh hội được chân đế
(là cái không thể diễn tả). Long Thọ cũng cảnh giác người ta đừng vội vàng
cho rằng ḿnh đă hiểu được thuyết không tánh của ông: giống như nắm bắt
con rắn ở phía đuôi hoặc áp dụng khoa học sai lầm; sự hiểu lầm không tánh
có thể gây nguy hại cho người kém thông minh. Hơn nữa, ông c̣n nói: Khi
hiểu được không tánh th́ có thể hiểu tất cả chư pháp; nếu không hiểu được
không tánh th́ không thể hiểu được chư pháp.
Hai Giai Tầng của Chân Lư: Phật giáo đặt căn bản trên chủ thuyết về hai
chân lư: chân lư ẩn dấu hay chân lư thế tục và chân lư tối hậu hay tuyệt
đối. Những ai không hiểu được sự phân biệt giữa hai chân lư th́ không hiểu
được tinh nghĩa--hay ư nghĩa thâm thúy--của Phật giáo (theo Long Thọ trong
Trung Quán Luận). V́ thế cả những lời thuyết giảng của đức Phật có thể
được phân loại thành tuyệt đối hay tối hậu, và thực dụng hay thế tục
Thuyết giáo về thế tục được gọi là samvrti hay lloka-sanvrti. Nguyệt Xứng
đề nghị ba cách giải thích từ ngữ samvrti, căn cứ vào nguyên ngữ học: (1)
Sự che đậy hoàn toàn hoặc cái màn của vô minh che đậy chân lư; (2) chỉ
hiện hữu nhờ tùy thuộc các nhân duyên; (3) hành vi thế tục hay ngôn ngữ
liên quan tới giả danh và cái được giả danh (đặt tên), tới cái tri nhận và
cái được tri nhận. Cách giải thích thứ ba có vẻ đưa ra kiến giải hữu dụng
về bản chất của thế tục. Những ǵ được bày tỏ trong hành vi ngôn ngữ của
chúng ta cùng với chính hành vi ngôn ngữ cấu thành cảnh giới của thế tục,
tức là cảnh giới tùy tục và thực dụng. Cái gọi là giả danh, hoặc dùng văn
tự hay danh tánh, tùy thuộc vào sự gán ghép của một số điều kiện hoặc phẩm
chất. Một cái ǵ đó trở thành đối tượng của ư thức qua một h́nh thức nào
đó mà chúng ta có thể gọi là điều kiện để gán cho nó một cái tên. V́ vậy
sự giả danh đặt cơ sở trên sự áp đặt của một điều kiện hoặc một phẩm chất,
khiến cho vật được giả danh trở thành một huyền thoại cấu tạo bởi điều
kiện hay phẩm chất đó. Nhưng Nguyệt Xứng nhận thấy rằng lănh vực của giả
danh và cái được giả danh, túc là lănh vực của tri thức và những đối tượng
của nó, giống như thế giới tùy tục, có một giá trị thực dựng lớn lao. BT
Long Thọ nói: Không thể mô tả chân lư tối hậu, nếu không dùng ngôn ngữ tùy
tục. Và nếu không thể hiểu được chân lư tối hậu th́ không thể chứng quả
Niết Bàn. (Trung Quán Luận).
Tính Cách Bất Xác Định của Thế Giới Hiện Tượng : Trong phần nầy chúng ta
sẽ thảo luận về ư niệm bất xác định của thế giới hiện tượng. Như Sriharsa
đă nhận xét đúng, một người thuộc phái Bất Nhị Luận tuyệt đối, sẽ tán đồng
với một người thuộc phái Trung Quán về quan điểm coi thế giới hiện tượng
như là có đặc tính bất khả xác định. Hiểu theo một ư nghĩa nào đó, một
hiện tượng là một sự kiện được cảm nhận và do đó chúng ta không thể nào
coi nó Chỉ Là hư cấu, hiểu theo nghĩa rằng chúng ta không thể coi người
con của một phụ nữ tuyệt sản là một hư cấu. V́ vậy, chúng ta phải chấp
nhận rằng thế giới hiện tượng có sự hiện hữu tạm thời. Nói cho đúng, nếu
thế giới hiện tượng chẵng phải là một thực thể th́ tất cả những sinh hoạt
thực tế của chúng ta sẽ không thể thi hành được; và ngay cả những kỷ luật
đạo đức và tinh thần cũng sẽ mất hết ư nghĩa. V́ vậy, thế giới hiện tượng
nầy được coi là không thật mà cũng không giả, nhưng nó là bất khả xác định
và bất khả minh chứng trên phương diện luận lư. Theo ngôn ngữ của Long
Thọ, tính cách bất xác định nầy của thế giới hiện tượng được gọi là đặc
tánh duyên khởi của chư pháp hoặc là không tánh của chư pháp.
Ở đây, chúng ta thực sự đối diện với một nghịch lư hiễn nhiên và rất lư
thú. Mỗi hiện tượng đều là bất xác định về luận lư; chúng ta không thể nói
nó hiện hữu và không thể nói nó không hiện hữu, hoặc vừa hiện hữu vừa
không hiện hữu. Khi các trường hợp nầy đều bị phủ định th́ hiện tượng trở
thành bất xác định, tức là trống không, nghĩa là không có bất cứ giá trị
tuyệt đối nào. Vật tối hậu đó cũng là bất xác định và cũng không thể mô
tả. Thật ra, cái tối hậu chính là không-tánh của mọi vật, mọi hiện tượng.
Đi theo lối phân tích nầy, chúng ta sẽ hiểu rơ nghĩa hơn về ư nghĩa thâm
sâu trong câu kệ sau đây của Long Thọ :
Thế gian không có ǵ khác Niết Bàn,
Và Niết Bàn không có ǵ khác với thế gian.
Giữa thái cực của Niết Bàn và thái cực của thế gian, không có một chút
khác nhau nào cả.
Tuyệt đối và hiện tượng không khác nhau. Khi đứng trên điều kiện duyên
khởi và lập trường đa nguyên tánh để xét thế gian nầy, bảo rằng nó có tính
cách hiện tượng hay thế tục. Nhưng khi chúng ta không qui chiếu vào duyên
khởi và đa nguyên tánh để xét thế gian th́ nó được coi là Niết Bàn, là cái
tối hậu. Cho nên, chúng ta thấy, thật ra việc chỉ trích phái Trung Quán về
chuyện họ phân chia chân lư thành hai giai tầng là điều không công bằng.
Hiện tượng chính là h́nh thức che dấu của tối hậu, nhưng nó không khác ǵ
tối hậu. V́ vậy cần phải nhấn mạnh rằng thuyết không-tánh không bao hàm sự
phủ nhận thế giới hiện tượng, mà chỉ bao hàm thái độ vô chấp đối với những
hiện tượng, và không chấp nhận bất cứ lư thuyết nào nói rằng thế giới hiện
tượng là thực một cách tối hậu.
Nghịch Lư của Không Tánh.- Không -tánh dẫn đến lư thuyết về tánh bất khả
xác định của thế giới hiện tượng. Nhưng, bản thân lư thuyết nầy (về tánh
bất khả xác định của thế giới hiện tượng ) không phải là một lư thuyết.
Bạn đừng nên coi câu nói nầy chỉ là một tṛ chơi chữ nghĩa, v́ nó có thể
cho thấy một ư nghĩa hợp lư về câu nói không tánh dẫn đến lư thuyết về
tánh bất khả xác định của thế giới hiện tượng. Lư thuyết về không tánh bản
thân nó không phải là lư thuyết, v́ nó không thể phủ định một cách thành
công.
Ư niệm của tánh bất khả xác định là người ta có thề khẳng định một định đề
có vẻ nghịch lư : Cái bất khả xác định chẳng phải là bất xác định, đồng
thời là bất khả xác định. V́ vậy sự phủ định của cái bất khả xác định cũng
trở thành bất khả xác định. Câu nói nầy rơ ràng là trái ngược với ư tưởng
của chúng ta về luận lư. Nhưng chúng ta hăy cố gắng liễu tri ư nghĩa của
nó.
Chủ Nghĩa Thần Bí của Phái Trung Quán.- Người ta không ngạc nhiên khi thấy
biện chứng pháp của Long Thọ đă trở thành một cội nguồn phong phú của chủ
nghĩa thần bí của Đông Phương.
Hai dặc tánh chủ yếu của triết học Trung Quán rất gần gũi với những ǵ mà
chúng ta có thể gọi là những điểm phổ quát của tất cả các loại chủ nghĩa
thần bí. Thứ nhất, có sự tin tưởng vào khả thể của loại kiến thức mà chúng
ta gọi là khải thị, trực giác, hoặc thậm chí sự trực diện với thực tại. Có
người biện luận rằng những loại kiến thức khác, tức là kiến thức qua các
giác quan, lư trí, và phân tách chỉ hoạt động ngoài bề mặt, chỉ ở tầng
diện thế tục, và nó che đậy chân lư tối hậu; cho nên, loại kiến thức thứ
nh́ nầy nằm ở giai tầng thấp hơn đối với loại kiến thức thứ nhất. Trực
giác là vị trọng tài duy nhất của chân lư tối hậu, v́ nó không lệ thuộc
vào bất cứ quan điểm nào, và cũng không nhờ cậy vào bất cứ kư hiệu nào
(thuộc về ngôn ngữ hay những ǵ khác). Loại trí thức thấp tùy thuộc vào
quan điểm mà chúng ta bị đặt vào, hoặc chỉ là những giả thiết của chúng
ta, và tùy thuộc vào những kư hiệu mà chúng ta dùng để tự bày tỏ. Đặc điểm
thứ nh́ của phái Trung Quán là tin tưởng vào sự nhất thống; sự nhất thống
nầy có khuynh hướng bác bỏ tất cả những phân hóa và dị biệt, v́ coi rằng
chúng là những hiện tượng hư ảo. Phái Trung Quán cho rằng tất cả những đa
nguyên nầy chỉ là cái màn che dấu thực tướng của chân lư tối hậu, duy nhất
và vô nhị. Tuy nhiên, quan niệm về Thực tướng bất nhị nầy được đặt cơ sở
những biện luận luận lư để cố gắng cho thấy sự bất khả đắc của tự tánh
(own nature), tự ngả hoặc nhân quả.
Một ư niệm trọng yếu khác của tất cả các triết gia thần bí là ư niệm về
cái "không thể bày tỏ". Chân lư tối hậu không thể bày tỏ, nhưng có thể
liễu ngộ bằng trực giác. Ư niệm nầy cũng xuất hiện trong triết học của
phái Trung Quán. V́ sự hiểu biết hay tư tưởng của chúng ta luôn luôn vượt
xa ngôn ngữ--là thứ chỉ đại diện cho những điều chúng ta hiểu biết--do đó
sự liễu ngộ bằng trực giác nầy có một gía trị giáo dục rất lớn trong triết
học.
C.-CHƠN KHÔNG DIỆU-HỮU
1). Chơn lư tuyệt đối.- Một thực thể không lệ thuộc nhơn quả, duyên
sanh, thoát ngoài đối đăi là chơn lư tuyệt đối.Không thuộc nhơn quả nên
không sanh diệt vô thường. Không thuộc duyên sanh nên không hợp tướng giả
dối. Thoát ngoài ṿng đối đăi nên không trị liệu so sánh, không bàn luận,
không suy nghĩ đến được. Thực tế nầy không lệ thuộc thời gian, không bị
chi phối của không gian, vượt ngoài mọi đối tượng của vũ trụ. Chính nó là
sinh mạng là mạch sống của chúng sinh, mà chúng sinh không nhận ra nó. Nó
hiển nhiên hằng có mặt nơi chúng ta, mà chúng ta lăng quên nó một cách
đáng thương. Nó là thể chẳng sanh chẵng diệt, vĩnh cửu trường tồn của
chúng ta, chúng ta không biết đến nó, đi nhận cái sanh diệt tạm bợ làm
ḿnh. Bỏ quên thực tế nầy là vô minh, là si mê, nhận được nó là giác ngộ,
là trí tuệ. Bỏ quên nó, đi theo sanh diệt là luân hồi, nhận sống với nó là
vô sinh giải thoát. Bởi thực tế nầy hệ trọng dường ấy, nên chúng ta phải
biết : nó tên ǵ? Làm sao nhận ra nó? Nhận được nó có ích ǵ? Chúng tôi sẽ
theo thứ tự giải quyết những thắc mắc nầy.
Thực thể nầy nguyên không có tên, trong Phật Pháp tùy công dụng gắng gượng
đặt rất nhiều tên. Kinh Kim Cang gọi là Kim Cang Bát Nhă Ba La Mật, tức là
trí tuệ cứu cánh như kim cang. Bởi v́ trí tuệ nầy không có ǵ phá hoại
được nó, mà nó hay phá hoại tất cả, như chất kim cang. Kinh Viên Giác gọi
là Viên Giác Tánh, là tánh tṛn đầy, v́ đối với các chơn lư, chúng ta nhận
được từng phần chơn lư nào th́ giác ngộ phần chơn lư ấy, nên gọi là phần
giác. Chỉ nhận được chơn lư tuyệt đối nầy mới gọi là giác ngộ viên măn.
Kinh Pháp Hoa gọi là Tri Kiến Phật hay Phật Thừa. Kinh Hoa Nghiêm gọi là
Trí Huệ Phật. Kinh Lăng Nghiêm gọi là Chơn Tâm hay Như Lai Tàng. Nó là tâm
thể chơn thật hay là kho tàng Như Lai của chúng sanh. Kinh Duy Ma Cật gọi
là Pháp Môn Bất Nhị. V́ nó vượt ra ṿng đối đăi hai bên. Thiền Tông gọi là
Chơn Tánh. Nó là tánh chơn thật của tất cả chúng sanh. Lại c̣n có những
tên thông dụng là: Chơn Như, Phật Tánh, Pháp Thân, Đạo, Bản Lai Diện
Mục..., không thể kể xiết.
Tạm biết tên thể nầy là một cách khái quát rồi, chúng ta cần phải nhận ra
mặt mày của nó mới là điều thiết yếu. Song phàm có nói năng tŕnh bày đều
thuộc tương đối, làm sao diễn đạt khiến người chưa hiểu nhận được. Đây quả
là điều thiên nan vạn nan. Tuy nhiên, chúng tôi cũng gắng gượng trước tạm
đặt những nguyên tắc kế dẫn lời Phật dạy trong kinh, sau cùng nhắc lại
những phương tiện của thiền sư, họa chăng quư độc giả có nhận được phần
nào chăng.
Phàm cái ǵ có h́nh tướng đều do duyên hợp là hư giả, cái ǵ có tác động
là sanh diệt cái ǵ đối đăi không thật. Ngược lại cái không h́nh tướng,
không tác động, không đối đăi là chơn thật thường c̣n vô sanh. Cái ǵ
không h́nh tướng th́ không giới hạn chỗ nơi trong ngoài. Vừa đặt câu hỏi
t́m chỗ nơi nó là sai. Cái không tác động th́ không sanh diệt, không bị vô
thường theo thời gian. Đặt vấn đề thời gian với nó là sai. Cái không đối
đăi th́ không c̣n so sánh phân biệt. Đặt vấn đề so sánh phân biệt với nó
là sai. Nó là thực thể của tri giác, không phải đối tượng giác trí. Nếu
khởi nghĩ cầu biết nó là sai. Nó không h́nh tướng, không tác động, không
đối đăi, mà có mặt ba nơi ấy. Cho nên nghĩ ly khai h́nh tướng, tác động,
đối đăi để t́m nó là sai. Nếu chỉ nhận ra nó là tự ta trực nhận thầm nhận.
Lời Phật dạy, phương tiện Tổ chỉ đều là đập cỏ rắn sợ, hay vỗ nước cá đau
đầu mà thôi. Chúng ta muốn nhận ra nó phải khéo nh́n theo tinh thần ngón
tay chỉ mặt trăng. Mặt trăng không nằm tại đầu ngón tay, khéo nương theo
ngón tay thấy mặt trăng ở tận trong hư không. Hoặc nh́n theo tinh thần soi
gương. Nhơn thấy bóng trong gương, biết được mặt thật của ńnh, đừng chấp
bóng là thật, đợi khi xoay gương mất bóng la hoảng lên mất ḿnh.
Đây là phương tịện tạm đặt những nguyên tắc nương nó khả dĩ thấy được thực
thể của chính ḿnh.
Thực thể nầy biểu lộ thường xuyên nơi sáu cơ quan (mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, ư) của chúng ta, mà không lệ thuộc hoàn toàn sáu cơ quan ấy. Dễ nhận
thấy nhất là ở mắt và tai. V́ thế Đức Phật khi muốn chỉ thực thể chẳng
sanh chẳng diệt ấy thường dùng phương tiện chỉ ngay nơi mắt và tai của
chúng ta. Một thí dụ trong kinh Lăng Nghiêm có đoạn:... Phật bảo La Hầu La
đánh một tiếng chuông, hỏi A Nan: Hiện giờ ông nghe chăng? A Nan và đại
chúng đồng thưa: Chúng con nghe. Tiếng chuông bặt dứt, Phật lại hỏi: Hiện
giờ các ông nghe chăng? A Nan và đại chúng đồng đáp: Chẳng nghe. La Hầu
lại đánh một tiếng chuông, Phật hỏi: Hiện giờ các ông nghe chăng? A Nan và
đại chúng đáp đồng đáp: Nghe. Phật hỏi A Nan: Ông tại sao nghe? Tại sao
chẳng nghe? A Nan và đại chúng đồng bạch Phật: Nếu đánh tiếng chuông th́
chúng con được nghe. Đánh lâu tiếng bặt âm vang dứt hết th́ gọi không
nghe.
Phật lại bảo La Hầu La đánh chuông, hỏi A Nan: Hiện giờ có tiếng chăng? A
Nan và đại chúng đồng thưa: Có tiếng. Đợi giây lâu tiếng bặt, Phật lại
hỏi: Hiên giờ có tiếng chăng? A Nan và đại chúng đáp: Không tiếng. Giây
lâu La Hầu La lại đánh tiếng chuông. Phật hỏi: Hiện giờ có tiếng không? A
Nan và đại chúng đồng đáp: Có tiếng.Phật hỏi A Nan: Nói thế nào là có
tiếng, thế nào là không có tiếng? A Nan và đại chúng đồng bạch: Nếu đánh
chuông th́ gọi có tiếng, đánh lâu tiếng bặt âm vang dứt hết th́ gọi không
tiếng. Phật quở A Nan và đại chúng: Hôm nay tại sao các ông tự nói rối
loạn? Đại chúng và A Nan đồng thời hỏi Phật: Thế nào hôm nay chúng con nói
rối loạn? Phật bảo: Tôi hỏi các ông nghe th́ các ông đáp nghe, tôi hỏi các
ông tiếng th́ các ông đáp tiếng, chính nghe với tiếng mà đáp không nhất
định. Tại sao như thế chẳng gọi là rối loạn? Này A Nan, tiếng bặt không
c̣n âm vang ông nói không nghe, nếu thật không nghe th́ tánh nghe đă diệt,
giống như cây khô, lại đánh tiếng chuông th́ ông làm sao mà biết? Biết có
biết không chính là thinh trần ( tiếng ) hoặc có hoặc không, đâu phải tánh
nghe kia là có là không. Nếu tánh nghe thật không th́ ai biết nó không?
Thế nên,A Nan, tiếng ở trong tánh nghe tự nó sanh diệt, chẳng phải tánh
nghe của ông do có tiếng không tiếng mà nó thành có thành không. Ông c̣n
điên đảo nhận lầm tiếng làm cái nghe đâu c̣n lạ ǵ chẳng mê lầm cho cái
thường làm đoạn. Trọn không nên nói ĺa các thứ động tịnh thông bít mà bảo
không có tánh nghe...
Thí dụ 2: Không nghĩ thiện nghĩ ác, cái ǵ là Bản Lai Diện Mục của Thượng
Tọa Minh? của Lục Tổ là bài thuyết pháp ngắn gọn phản ảnh trung thực một
sự nghiệp to tác của Tổ vừa lănh hội nơi Ngũ Tổ và đang mang nó vào phương
nam. Chính đó cũng là bản hoài của chư Phật.
Bản lai diện mục là: Bộ mặt thật xưa nay của chúng ta, nó là tên khác của
Đạo, của Pháp thân, của Phật tánh, của Chơn tâm... Chúng ta có mặt thật
muôn đời không đổi, mà tự bỏ quên nó, bám vào thân h́nh tạm bợ cho là thật
ḿnh. Cái thân ḿnh đang chấp giữ là thật ḿnh, nó thay đổi từng phút từng
giây, hợp tan không nhất định. Thế th́ lấy ǵ bảo chứng cho nó là thật?
Quả thật một h́nh tướng biến thiên, một hợp thể tạm bợ. Nó có mà không
thật có v́ luôn luôn đổi thay, c̣n mà không thật c̣n v́ hợp tan chẳng
định. Nếu chấp chặt nó là ta, thật là cái ta tạm bợ làm sao! Hoặc có người
biết thân nầy giả dối, chính cái tâm biết thiện, biết ác, biết phải biết
quấy, tốt xấu...mới thật là ta. Song cái tâm phân biệt hai, cũng là thay
đổi tạm bợ. V́ vừa dấy nghĩ về lành, dữ th́ nó đă sanh diệt rồi. Nếu buông
hết mọi vấn đề đối đăi, t́m lại nó th́ tung tích vắng tanh. Thế là ta ở
đâu? Mất rồi sao? Thật bối rối vô cùng, nếu chấp cái suy nghĩ làm ta, chỉ
v́ chấp thân tạm bợ, tâm giả dối làm ta nên muôn kiếp trôi lăn trong sanh
diệt, gọi là luân hồi.
Ngay nơi thân tạm bợ, tâm giả dối, chúng ta nhận ra Bộ mặt xưa nay của
chúng ḿnh và sống hẳn với nó, ḍng sanh diệt ngay đây liền dừng, kiếp
luân hồi đến đây giải thoát. Bộ mặt xưa nay chưa từng bị sanh diệt, một
thực thể không do duyên hợp, làm ǵ bị đổi thay, tan hợp. Nó vẫn có và
thường c̣n mà chúng ta quên đi, gọi là Vô Minh. Nhận ra nó không c̣n lầm
quên nữa gọi là Giác Ngộ.
Muốn chỉ Bộ Mặt Xưa Nay cho người không có cách kỳ diệu nào bằng câu Không
nghĩ thiện, không nghĩ ác, cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh?
của Lục Tổ. Người ta cứ thắc mắc cái ǵ là bản lai diện mục của Thượng Tọa
Minh mà chẳng nhớ không nghĩ thiện, không nghĩ ác là tối quan trọng. Chính
khi không nghĩ thiện, nghĩ ác là bản lai diện mục của Thượng Tọa Minh chứ
ǵ. Bởi khi tâm b́nh thường, tĩnh táo, không dấy nghĩ thiện ác, phải
quấy... là động, là chạy theo sanh diệt bộ mặt thật xưa nay bị khuất lấp
mất rồi. Cho nên qua câu nói nầy, Thượng Tọa Minh khéo thấy được bộ mặt
thật xưa nay của ḿnh, gọi là ngộ đạo. (Tự Gia Bảo,tr 17 - 29)
ĐẶC ĐIỂM CỦA CHƠN TÂM
Ngộ Tánh Giác: Thần Tú viết bài kệ để tŕnh chỗ tâm Ngài thấy được:
Thân là cội Bồ Đề
Tâm như đài gương sáng
Luôn luôn phải lau chùi,
Chớ để dính bụi bặm.
Trong khi đó Huệ Năng, qua bài thơ, chỉ cho tánh giác của ḿnh:
Bồ Đề vốn không cây,
Gương sáng cũng chẳng đài,
Xưa nay không một vật.
Chỗ nào dính bụi bặm?
Bồ Đề chỉ Tánh Giác, Tánh Giác không có h́nh tướng th́ không phải là cây,
đây là bác câu thân thị Bồ Đề thọ. Ngài Thần Tù nói thân nầy là cây Bồ Đề,
Ngài Huệ Năng nói trái lại: Bồ Đề là Tánh Giác, tánh giác đâu có h́nh
tướng mà nói là cây. Câu thứ nhất bác h́nh thức cây Bồ Đề. Đến câu thứ hai
Ngài Thần Tú nói: Tâm như đài gương sáng, như vậy đài gương sáng là gương
sáng hay đài sáng? Nếu nói đài gương sáng thành ra nhấn mạnh chữ đài.
Gương là tự nó sáng không cần có đài mới sáng, nếu nói đài gương sáng là
đă lầm cái h́nh thức thứ hai. Đến câu thứ ba Bổn lai vô nhất vật, tức là
chỗ chân thật đó xưa nay không một vật huống nữa là dính bụi bặm? Ngài
Thần Tú nói luôn luôn phải lau chùi, nhưng xưa nay không dính một vật th́
chùi cái ǵ? Đă không có một vật th́ có ǵ dính bụi? Như thế rơ ràng Ngài
Huệ Năng thấy được cái bản tánh xưa nay không có một h́nh trạng không có
một tướng mạo, chính bản tánh đó tự thanh tịnh, không cần lau chùi mới
thanh tịnh, phải không? Đó là Ngài đă thấy được, c̣n Ngài ThầnTú không
thấy được, cho nên Ngài Thần Tú suy nghĩ theo lối tu nặng nề về h́nh thức
: cái gương có bụi dính nay rán chùi cho hết bụi, đó là chưa thấy được bản
tánh thực v́ tánh giác đó không tướng mạo, đă không tướng mạo th́ có ǵ
nhiễm, có ǵ dính được nó, thấy rơ được như vậy th́ không bao giờ lầm,
không phải lau chùi ǵ cả, phải không? Lau chùi là cái chỉ h́nh thức bên
ngoài, chứ tánh giác không có tướng mạo nên nó hằng thanh tịnh, hằng thanh
tịnh th́ chỗ nào dính bụi mà phải lau chùi? Như vậy qua bài kệ nầy mọi
người thấy rơ là Ngài đă vô cửa : ngộ được tánh giác.
Ngộ Thực Thể Bản Tâm :Ngài Huệ Năng khi nghe Ngũ Tổ nói kinh Kim Cang, đến
câu Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, ngay lời đó Ngài đại ngộ, thấy tất cả
muôn pháp chẳng ĺa tự tánh, mới thưa rằng:
Đâu ngờ tự tánh vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tánh vốn không sanh diệt,
Đâu ngờ tự tánh vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tánh vốn không dao động,
Đâu ngờ tự tánh hay sanh muôn pháp.
Khi trước nghe đọc câu Kim Cang Ngài Huệ Năng đă ngộ rồi? Tại sao tới đây
Ngài ngộ nữa? Như thế lần ngộ trước và lần ngộ sau khác nhau ở điểm nạ?
Cái ngộ trước là Ngài thấy Bản lai vô nhất vật, nghĩa là thấy thể tánh đó
không có một h́nh tướng, không có một vật tượng, chỉ là một thể tánh rỗng
lặng, v́ thấy được chỗ đó nên được vào cửa. Đến chỗ nầy Ngài thấy thế nào?
Ngài nói : Đâu ngờ tâm ḿnh thanh tịnh, đâu ngờ tâm ḿnh chẳng sanh diệt,
nó tự đầy đủ, nó không dao động, nó hay sanh muôn pháp. Như thế đến đây
Ngài mới thấy thực thể của bản tâm. Khi trước Ngài chỉ mới thấy chỗ không
có vọng đó là tánh không, bởi thấy được tánh không nên mới được vào cửa.
Vào cửa chưa phải là xong việc, phải thấy được cái đầy đủ, thanh tịnh,
chưa từng sanh diệt, không dao động và hay sanh muôn pháp, thấy tột cái đó
mới gọi là thấy được bản tánh của ḿnh.. Như vậy qua đoạn nầy, chúng ta
mới thấy rơ người học đạo không phải ngộ một lần là xong. Trong nhà thiền,
thường nói rằng đại ngộ ít ra cũng 3, 4 lần, c̣n tiểu ngộ th́ vô số.
Tiểu ngộ là sao? Tỉ dụ chúng ta nghe một thời giảng, chúng ta có lóe sáng
một điều ǵ ḿnh thích, ḿnh thấy điều đó từ trước đến nay ḿnh chưa từng
biết, nay ḿnh biết, đó là tiểu ngộ. C̣n đại ngộ là một lần nhận ra được
th́ vui cả 5, 7 ngày, nghĩa là điều đó là một việc lớn mà từ trước đến nay
chưa bao giờ ḿnh phát minh được, nay ḿnh phát minh được, đó là đại ngộ.
Nhưng một lần cũng chưa xong, phải đôi ba lần như thế. Thế nên người học
đạo phải có ngộ chứ không ngộ th́ khó vào đạo. Ngài Thần Tú chưa ngộ, Ngài
hiểu lư kinh mà chưa ngộ đạo nên vào cửa không nổi.
( Kinh Pháp Bảo Đàn, tr 45 - 47 ).
TRUNG KHÔNG DIỆU HỮU
Về nguyên lư Không, kinh sách Phật giáo tŕnh bày rất nhiều khía cạnh qua
nhiều kinh nghiệm khác nhau. Mỗi khía cạnh có một kinh nghiệm độc đáo nhằm
mục đích lột trần được chân giá trị của nguyên lư Không. Nhờ những kinh
nghiệm độc đáo nói trên, Phật giáo trở nên phong phú về mặt tư tưởng. Tư
tưởng về nguyên lư Không, tuy rằng được nhiều kinh sách tŕnh bày tường
tận, nhưng tóm lược không ngoài bốn lănh vực sau đây: Hư Không, Huyễn
Không, Nhân Không và Chân Không.
1).Hư Không (Không Đại): Hư Không là không gian, khoảng cách, không khí
hay môi trường sống. Hư Không, theo Phật giáo có nghĩa là môi trường sống
của vạn pháp. Nguyên v́ Hư Không là một trong bảy yếu tố quan trọng
(Thất Đại) để sanh khởi vạn pháp, nên gọi là Không Đại. Thất Đại gồm có:
Địa Đại, Thủy Đại, Hỏa Đại, Phong Đại, Không Đại, Kiến Đại và Thức Đại
(Kinh Lăng Nghiêm, quyển 3).
Vạn pháp sở dĩ được hiện hữu, được phát triển, được tồn tại trong vũ
trụ đều nhờ Hư Không bao trùm, che chở, bảo vệ và nuôi dưỡng. Đặc biệt hơn
nữa sự hiện hữu, sự phát triển và sự tồn tại của vạn pháp, tất cả đều thể
hiện ở phía trong nội tâm của Hư Không. Giả sử Hư Không nếu không được
thành lập th́ vạn pháp nhất định không có mặt trong thế gian, cho nên Đức
Phât ghép Hư Không vào một yếu tố quan trọng gọi là Không Đại, một trong
Thất Đại. Theo Kinh Lăng Nghiêm, quyển 3 của dịch giả Thích Chơn Giám, Đức
Phật giải thích Hư Không có hai loại : Tánh Hư Không và Tướng Hư Không.
a) Tánh Hư Không: Tánh Hư Không Đức Phật giải thích : A Nan! Ngươi phải
biết trong Tạng Như Lai, Tánh Giác tức là thiệt hư không, Hư Không tức là
thiệt tánh giác thanh tịnh bản nhiên, đầy khắp pháp giới...
Theo Đại Thừa Khởi Tín, Ngài Mă Minh nói: Tâm chơn Như là cái tâm tánh bất
sanh bất diệt. Thể và tướng nó to lớn bao trùm tất cả các pháp (Nhứt pháp
giới đại tổng tướng pháp môn thể). Hai đoạn kinh trên cho thấy, Tánh Giác
của Tạng Như Lai ở bên kinh Thủ Lăng Nghiêm giải thích chính là Tâm Chơn
Như của Đại Thừa Khởi Tín tŕnh bày, nguyên v́ Tạng Như Lai theo Đại Thừa
Khởi Tín là h́nh tướng của Tâm Chơn Như. Tánh Giác của Tạng Như Lai và Tâm
Chơn Như, cả hai đều bao trùm cả pháp giới. Hơn nữa Tánh Giác tức là tánh
Hư Không. Thế nên Tánh Hư Không không ngoài Tâm Chơn Như, đều thuộc môi
trường sống của vạn pháp, có công năng bao trùm cả thế giới Chơn Như và cả
thế giới mê vọng; bởi lư do đó muôn loài chúng sanh trong mười pháp giới.
Bởi lư do trên, đức Phật mới gọi Tánh Hư Không là Không Đại.
b) Tướng Hư Không: Tướng Hư Không, cũng theo kinh Thủ Lăng Nghiêm, quyển
3, đức Phật giải thích: Chẳng qua theo nghiệp của chúng sanh, mà phát hiện
ra đó thôi. Tướng Hư Không nầy như một giống hư không, ứng lượng của chúng
sanh... đầy khắp mười phương. Chỗ nào có phương hướng xứ sở là chỗ đó có
Tướng Hư Không.
Điều đáng chú ư, Tánh Hư Không của Tâm Chơn Như không phải là Tướng Hư
Không của tất cả chúng sanh trong ba cơi. Tướng Hư Không của tất cả chúng
sanh trong ba cơi sở dĩ khác nhau là do bởi nghiệp tướng của mỗi loại
không giống nhau tạo nên. Nhưng đặc biệt nhất, Tướng Hư Không của tất cả
chúng sanh trong ba cơi thảy đều thể hiện ở phía trong Tánh Hư Không của
Tâm Chơn Như và được Tánh Hư Không của Tâm Chơn Như che chở với h́nh thức
bao trùm. Giá trị trên đưa đến nhận thức, Tướng Hư Không của tất cả chúng
sanh trong ba cơi không thể t́m thấy ngoài Tánh Hư Không của Tâm Chơn Như.
Ngược lại Tánh Hư Không của Tâm Chơn Như cũng không thể t́m thấy ngoài
Tướng Hư Không của tất cả chúng sanh trong ba cơi. Nguyên do trong vọng có
chơn, và trong chơn có vọng, cũng như trong lư tánh có sự tướng và trong
sự tướng có lư tánh tàng ẩn, tất cả đều không ngăn ngại với nhau.
Về Không Đại, đức Phật phân làm hai loại Hư Không: Tánh Hư Không và Tướng
Hư Không. Theo đức Phật, Tánh Hư Không thuộc về Tâm Chơn Như sanh khởi và
Tướng Hư Không th́ thuộc về nghiệp chướng sanh khởi. Nhưng giá trị cả hai
đều là môi trường sống của các bậc Thánh Đế Giác Ngộ và cũng như của các
hạng chúng sanh phàm phu trong ba cơi.
2) Huyễn Không: Huyễn là giả tạo, không thật thể. Huyễn Không nghĩa là
đứng về phương diện nguyên lư không, vạn pháp hoàn toàn không có thật thể.
Huyễn Không c̣n có tên khác nữa là Ngoang Không. Ngoang Không nghĩa là
đứng về phương diện nguyên lư Không, vạn pháp hoàn toàn trống rỗng không
lưu lại chút dấu vết nào cả. Huyễn Không là danh từ dùng để chỉ cho những
sự vật thuộc về đối tượng của huyễn hữu.
a) Huyễn Hữu: nghĩa là vạn pháp hiện có mặt (hiện hữu) trong thế gian đều
là giả tạo, mang tánh chất nhân duyên sanh và không có thật thể. Vạn pháp
sở dĩ được góp mặt trong thế gian là do Ngũ Uẩn tạo thành. Vạn pháp thật
sự không có danh nghĩa. Danh của vạn pháp là do Ư Tưởng tưởng tượng đặt
tên cho dễ phân biệt. Nghĩa của vạn pháp là do Ngũ Uẩn kết hợp và xây dựng
nên. Ư tưởng nếu như không tưởng tượng để đặt tên th́ vạn pháp không có
Danh để gọi. Ngũ Uẩn nếu như không kết hợp với nhau để xây dựng th́ vạn
pháp nhất định không bao giờ có mặt trong thế gian. Không có Ngũ Uẩn là
không có con người, không có Ngũ Uẩn th́ không có địa cầu, không có hành
tinhv.v... Chúng ta nếu như tách rời Ngũ Uẩn riêng rẽ từng loại một th́
không thấy vạn pháp. Ngũ Uẩn là những yếu tố tạo nên vạn pháp. Cho nên vạn
pháp được gọi là vạn hữu.
b) Huyễn Không: Vạn pháp đă không thật thể về mặt Huyễn Hữu và cũng không
thật về mặt Huyễn Không. Riêng về phương diện nguyên lư Không, vạn phápchỉ
có h́nh bóng với tánh cách Nghiệp Tướng được lưu lại trong Tâm Thức.
Nghiệp Tướng gồm có Ngă Tướng và Pháp Tướng, gọi tắt là Ngă Pháp. Nghiệp
Tướng một khi bị xóa đi th́ vạn pháp không c̣n dấu vết nào cả. Cho nên về
mặt nguyên lư Không, vạn pháp cũng hoàn toàn không có thật thể nên gọi là
Huyễn Không.
3). Nhân Không.- Nhân là nguyên nhân, tức là chỉ cho hạt giống của các yếu
tố và cũng được gọi là nhân tố.Không là ở trạng thái không, nghĩa là các
nhân tố sanh ra vạn pháp đều nằm ở trong trạng thái Không. Các nhân tố gồm
có Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, và Thức. Các nhân tố ở trạng thái Không được
thấy trong nội dung của quyển Bát Nhă Tâm Kinh.
4). Chân Không.-Trong kinh Bát Nhă Ba La Mật Đa có câu; Thị chư pháp không
tướng, bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm cho đến
câu: Vô trí diệc vô sở đắc được tŕnh bày nguyên lư Chân Không của thế
giới Niết Bàn Tịch Tịnh và thế giới đây hoàn toàn không có hạt giống
Nghiệp Tướng của chư pháp. Nguyên lư Chân Không theo Ngài Long Thọ gọi là
Trung Không Diệu Hữu. Trung Không Diệu Hữu nghĩa là trong nguyên lư Chân
Không, thế giới Niết Bàn hiện hữu một cách mầu nhiệm.
Các pháp hoàn toàn không có thật tướng, nên không sanh, không diệt, không
nhơ, không sạch, không tăng,không giảm. Đại ư nói thế giới Chân Không
không có Nghiệp Tướng của các pháp, cho nên không có vấn đề sanh diệt, nhơ
sạch, tăng giảm.
Chữ Tướng ở đây chỉ cho Nhân Tướng và Quả Tướng của các pháp. Nhân Tướng
và Quả Tướng của các pháp trong Tam Tế của kinh Lăng Già Tâm Ấn và Luận
Đại Thừa Khởi Tín gọi là Nghiệp Tướng. Tam Tế gồm có Nghiệp Tướng, Chuyễn
Tướng và Hiện Tướng. Chuyễn Tướng và Hiện Tướng vạn pháp đều thưộc về Quả
Tướng. C̣n Nhân Tướng của vạn pháp thuộc về Nghiệp Tướng.
Thế giới Chân Không th́ hoàn toàn không có dấu vết Nghiệp Tướng của vạn
pháp. Cho nên trong Bát Nhă Tâm Kinh, Bồ Tát Quán Tự Tại nói: Thị chư pháp
Không Tướng. Vạn pháp v́ có Nghiệp Tướng làm nhân nên có bị sanh, bị diệt,
bị nhơ, bị sạch, bị tăng và bị giảm. Ngược lại thế giới Chân Không nguyên
do không có Nghiệp Tướng của vạn pháp cho nên không bị chi phối bởi vấn đề
sanh diệt, nhơ sạch, tăng giảm. Bởi nguyên lư trên, Bồ Tát Quán Tự Tại
trong Bát Nhă Tâm Kinh xác định tánh chất và giá trị của thế giới Chân
Không là Bất sanh, bất diệt, bất cấu, bất tịnh, bất tăng, bất giảm.
Thật tướng Chân Như Pháp Tánh th́ không có Nhân Tướng của Ngũ Uẩn và
Nghiệp Tướng của vạn pháp nên gọi là Chân Không. Thật Tướng Chân Như Pháp
Tánh là thế giới chơn thật thường tại của chư Phật an trụ ở trạng thái
Chân Không. Thế giới Chân Như Pháp Tánh nầy không có vấn đề sanh, diệt,
cấu, tịnh, tăng, giảm, cũng không tất cả nghiệp tướng hư vọng và cũng
không tất cả pháp tướng phương tiện. Chân Tâm nơi Pháp Thân của chư Phật
trong thế giới Chân Như Pháp Tánh sinh hoạt dung thông và hiểu biết không
bị ngăn ngại. Các kinh thường gọi thế giới Chân Như Pháp Tánh là thế giới
Vô Dư Niết Bàn. ( Bát Nhă Tâm Kinh Qua Cái Nh́n Của Duy Thức, tr 55-74)
D.- TÀNG THỨC
Từ Thực Tại Luận đến Giải Thoát Luận trongTriết Học DuyThức (Như Hạnh)
Duy Thức là một trong những tông phái chính yếu của Phật Giáo Đại Thừa Ấn
Độ phát triển mạnh vào những thế kỹ đầu công nguyên cho đến khi Phật Giáo
bị suy thoái ở Ấn Độ ( khoảng thế kỹ 11 ) và cũng là một trong những hệ
thống triết học / tôn giáo, tri thức luận chính yếu của tư tưởng Ấn Độ.
Duy Thức sản sinh ra những tư tưởng gia lớn của Phật Giáo và của tư tưởng
Ấn Độ nói chung như Maitreyanatha (c. 270 - 350 ), Asanga (c. 310-90,
Văsubandhu ( c. 320- 400 ), v.v... Một nghiên cứu của hệ thống về Tàng
Thức (Alayavijnana) sẽ đem đến cho chúng ta những hiểu biết về ư nghĩa của
khái niệm nầy trong tư tưởng Duy Thức (Duy Thức Học: Yogacara). Đọc cẩn
thận những bộ luận (sastra) nhắm hệ thống hóa giáo lư Phật Giáo, như đa số
các bộ luận nền tảng của Duy Thức, chúng ta sẽ nhận ra rằng các nhà tư
tưởng Duy Thức không bao giờ ư thức được một cơ cấu thuyên thích nội tại
(unplicit hermeneutical structure) ở các giáo lư khác nhau được ghi chép
trong nhiều kinh điển dị biệt. Cơ cấu nầy đă được giải thích rơ ràng trong
những trước tác nầy. Do đó, bất chấp là chúng ta c̣n cách xa một kiến thức
đích xác về sự phát triển niên đại / văn học của thành ngữ Tàng Thức bao
nhiêu đi nữa, nghiên cứu một cách hệ thống về khái niệm nầy sẽ chiếu rọi
thêm ánh sáng vào một số vấn đề chính của thế giới quan Duy Thức.
1).- Phân Tích Tàng Thức
1.1.1: Sự phát triển của Tàng Thức trong thế giới quan Duy Thức: Tàng Thức
thường được xem như là khái niệm then chốt đại biểu cho tông phái Duy
Thức. Nói cách khác,, Tàng Thức thường được xem là khái niệm nền tảng của
triết học Duy Thức cũng như khái niệm Tính Không (sunyata) là nền tảng của
triết học Trung Quán.
1.1.2: (Madhyamaka). Tàng Thức quả thật là một khái niệm nền tảng trong
triết học Duy Thức (vijnaptimatra) của Asanga và của Vasubandhu. Song hẳn
là quá giản lược và thậm chí sai lầm nếu chúng ta xem Tàng Thức như là một
khái niệm mà các tư tưởng gia Duy Thức dùng để thay thế cho sunyata, bởi
v́ Duy Thức cũng chấp nhận giáo lư Tánh Không, nghĩa là, giáo lư dạy rằng
tất cả các sự vật đều không có tự tánh ( svabhava ). Thật ra, toàn thể
Thực Tại Luận Duy Thức chỉ được thiết lập để giải minh ư nghĩa của Tính
Không mà thôi.
1.2 : Cơ Cấu Thuyên Thích Nội Tại của thế giới quan Duy Thức: so sánh giữa
các trước tác được xem là của Maitreyanatha và các trước tác của Asanga
chúng ta nhận thấy rơ ràng hai xu hướng khác nhau. Ở đây, vắn tắt về cơ
cấu thuyên thích nội tại trong thế giới quan Duy Thức mà rơ rệt là những
tư tưởng gia của tông phái nầy cùng chia sẻ.
Thực Tại Luận và Giải Thoát Luận của Duy Thức dựa trên nhận thức về thực
tại. Nói cách khác, đối với các tư tưởng gia Duy Thức, liên hệ của chúng
ta với thực tại là một liên hệ nhận thức (và giải thích). Do đó, trong
Thực Tại Luận Duy Thức bản tính của Phật (tức là một sinh linh giác ngộ)
và bản tính của chúng sanh hay con người b́nh thường tức là (những sinh
linh chưa giác ngộ) cũng như dị biệt giữa Phật và con người, cốt yếu được
qui định bằng những phạm trù nhận thức. Sự dị biệt giữa Phật và con người
chính yếu là sự dị biệt giữa hai thể cách tri nhận thực tại.
Tri thức của Phật được định nghĩa là vô phân biệt trí, một thể cách nhận
thức vượt trên dự kiến, nằm ngoài sự qui kỹ (nonegocentric), tri nhận thực
tại như chính nó, nghĩa là trong thực tính của nó. Do đó, Phật - tính --
hay từ một viễn cảnh tri thức luận, Phật-Tâm (hay Phật-Trí tức là thể cách
nhận thức của sinh linh đă giác ngộ) - cũng được đề cập đến như là Tâm
[nhận thức] thực tại chân thực. Trong hầu hết các kinh luận Đại Thừa, Tâm
(Phật) được mô tả là thanh tịnh và trong sáng tự bản tánh
(cittaprakrtiprabhasvara).
Tri giác thực tại của con người, trái lại, là một thể cách nhận thức qui
kỹ và do đó bị giới hạn. Thể cách nhận thức nầy có xu hướng tri nhận thực
tại như là gồm có một chủ thể nhận thức tự hữu (pudgala) và các thành tố
cấu tạo thực tại-- tức là các đối tượng-- cũng hiện hữu một cách độc lập
(dharma). Trong ngôn ngữ của Duy Thức, đây chính là sự áp đặt tự tính
(svabhava) lên pudgala
(chủ thể, tức là phương diện chủ thể) và dharma (các hiện tượng, tức là
phương diện khách thể) mà Duy Thức xem là một tiến tŕnh kiến lập giả
tưởng. Thứ Duy Thực Luận Phác Tố (naĩve realism) này tự căn bản đă mâu
thuẩn với giáo lư nền tảng của Phật Giáo về duyên khởi, theo đó th́ thực
tại thuần túy tức là cái thực tại trước khi có sự áp đặt của bất cứ những
ư nghĩa giới hạn nào đó, là một sản phẩm của một màng lưới của những tác
động hỗ tương (có tính cách liên hệ) nhân của những thành tố tâm lư và vật
lư. Nói cách khác, tất cả mọi hiện tượng đều hiện hữu một cách hổ tương hệ
thuộc và do đó không có tự tính hay không (sunya) trong thuật ngữ của
Phật Giáo.
Theo Duy Thức, chỉ có Phật-Tâm hiện hữu trên mặt cứu cánh (ultimately),
bởi v́ đó là thể cách nhận thức thực tại một cách chân thực. Tri giác của
con người th́ sai lầm bởi v́ được dựa trên sự kiến lập giả tưởng, và do đó
chỉ có một hiện hữu tạm thời. Tri giác sai lầm nầy có thể nhận ra một cách
trung thực, và cái thực tại mà tri giác nầy kiến lập có thể được giải
kiến. Đây là điều có thể thực hiện được bởi v́ theo Duy Thức tất cả con
người đều có tiềm năng tri nhận chân lư. Trong ngôn ngữ Duy Thức, tất cả
con người đều có sẵn Phật Tính hay Phật-Tâm. Lư do mà họ chưa nhận ra được
điều nầy là bởi v́ họ bị cản trở bởi một quan điểm qui kỹ (egocentric) dựa
trên thái độ duy thực phác tố cố hữu áp đặt tự tính lên chủ thể nhận
thức(pudgala) và đối tượng (pháp).
Lưu ư rằng trong khuôn khổ giải thoát luận nầy, Duy Thức và Phật Giáo Đại
Thừa nói chung chia sẻ một chủ đề hầu như phổ quát trong tư tưởng triết
học / tôn giáo Ấn Độ rằng bản tính chân thật của con người (được gọi tùy
theo truyền thống khác nhau như atman, jiva, purusa, v.v...) vốn đồng nhất
với thực tại tuyệt đối (cũng được gọi bằng những tên khác nhau tùy theo
truyền thống khác nhau). Như thế, giải thoát trong khuôn khổ nầy chỉ có
thể là khôi phục lại chân tính của con ngưởi chớ không phải là đạt được
hay trở thành cái ǵ mới cả. Diễn dịch ra b́nh diện hiện sinh th́ giải
thoát có nghĩa là sống trong nhận thức đúng về thực tại. Một cách hết sức
giản lược, sự dị biệt chính yếu giữa quan điểm Ấn Độ và quan điểm
Do-Thái-Thiên-Chúa-Islam, là theo quan điểm Ấn Độ, nguyên nhân gốc rễ của
sự ác (evil) là vô minh (ignorance) chứ không phải là tội lỗi (sin).
Nói tóm, toàn thể con đường của Duy Thức là để tri nhận Phật Tâm và phân
tích sự kiến lập của thái độ duy thực phác tố kia, tức là phân tích nền
tảng và cơ cấu tác động của nó. Sự thành tựu lưỡng diện nầy gọi là
Tattvartha (tri nhận thực tại). Mục tiêu tâm linh chính yếu trong Duy
Thức là : tri nhận thực tại đưa chúng ta đến thành tựu giải thoát. Đây
chính là thế giới quan được tŕnh bày một cách hệ thống trong tư tưởng Duy
Thức (yogacara) của Maitreyanatha được chấp nhận bởi Asanga và Vasubandhu.
1.3.: Sự Chuyển Hướng Tư Tưởng từ Maitreyanatha đến Asanga: Nghiên cứu sự
phát triển của tư tưởng Duy Thức chúng ta nhận thấy sự dị biệt chính yếu
giữa Maitreyanatha và Asanga là ở thể cách tiếp cận thực tại của họ. Về
mặt phương pháp luận, Maitreyanatha dường như lưu ư nhiều hơn đến cơ cấu
thuyên thích của Phật Giáo, trong khi Asanga (và sau đó Vasubandhu) lại
nghiên về phía thẩm xét chiều kích hiện sinh (existential), thực tiễn.
Trong sự phân tích của ông về thể cách quán sát thực tại của Duy Thức,
Maitreyanatha đặt sự giải thích của ông trên thực tại tuyệt đối, trong khi
Asanga khởi sự giải thích của ông bằng sự phân tích nền tảng của thực tại
hiện tượng. Sự chuyển hướng khái niệm nầy đă đưa đến những giải thích mới
hay phối hợp những khái niệm mới vào hệ thống Duy Thức của Asanga. Để minh
giải điểm nầy, tôi xin đưa ra một giải thích vắn tăt về hệ thống Duy Thức
của Maitreyanatha.
1.3.1.: Cittaprakrtiprabhasvara (Tâm thanh tịnh tự bản tính) và Cittamatra
(Duy Tâm) trong tư tưởng của Maitreyanatha: Thực Tại Luận (Ontology) của
Maitreyanatha khởi sự từ quan điểm chung của Phật Giáo Đại Thừa rằng từ
nguyên thủy, hay từ viễn cảnh của thực tại cứu cánh (ultimate reality),
th́ tất cả con người đều sở hữu Phật tính. Chuyển dịch phát biểu nầy sang
ngôn ngữ của tri thức luận, nó có nghĩa là tự nguyên thủy tâm thức của con
người đều có bản tính thanh tịnh, tâm thức của con người trong thực tính
của nó không khác ǵ với Phật tâm, tức là trong sáng và thanh tịnh tự bản
tính. Bởi v́ những tạp nhiễm (phiền năo) tạo nên bởi lối suy nghĩ mê mờ
đến che phủ cái tâm thanh tịnh tự bản tính nầy mà con người không tri nhận
được sự thật nầy và bị lạc trong một thế giới huyễn tưởng.
Trong tư tưởng của Maitreyanatha hai phạm trù thực tại luận nầy được đề
cập đến hai thành ngữ Cittaprakrtiprabhasvara và Cittamatra. Trước khi
giải thích hai thành ngữ nầy, cần vắn tắt ư nghĩa của chữ citta (tâm)
trong hệ thống Duy Thức của Maitreyanatha. Đối với Maitreyanatha th́ tâm,
vốn thanh tịnh và trong sáng tự bản tính (tức là, Phật-tâm hay Phật-tính
bản hữu, bản tính cứu cánh của tất cả con người), đôi khi được giải thích
như là tâm mê mờ, nghĩa là từ viễn cảnh hiện tượng trong thể cách tri nhận
thực tại một cách hiện thực của con người. Điều nầy có nghĩa là nhận thức
(của một tâm thức) không giác ngộ luôn luôn bị vướng mắt nào đó, với cái
thái độ duy thực phác tố kia, nh́n cả hai phương diện chủ thể và khách thể
của thực tại như thể là những thực thể (entities) hiện hữu sẵn, một cách
độc lập, với tự tính. Như thế, cittamatra có nghĩa là (thể nhận rằng) cái
thế giới của thái độ duy thực phác tố nầy không là ǵ khác hơn một sự kiến
lập sai lầm của citta hay tâm. Maitreyanatha phát biểu trong Dại Thừa
Trang Nghiêm Kinh Luận:
[VI.7] Sau khi thể nhận được rằng các đối tượng chỉ là giả danh [kiến lập
bởi ngôn ngữ], [bậc trí giả] trụ trong duy tâm (cittamatra) xuất hiện như
là những đối tượng. Rồi người ấy trực tiếp thể nhận được rằng Pháp Giới
(dharmadhatu) (chân lư) vốn vượt ngoài nhị nguyên tính
[sự kiến lập giả tưởng rằng thế giới nầy được cấu tạo bởi hai thực thể chủ
thể và đối tượng với tự tính].
[VI.8] Thể nhận trên b́nh diện trí thức rằng không có ǵ bên ngoài tâm
(citta), bậc trí giả từ đó nhận thức được rằng tâm [trên b́nh diện hiện
tượng] không hiện hữu [một cách tuyệt đối]. Nhận thức được rằng nhị nguyên
tính không hiện hữu, bậc trí giả trụ trong Pháp Giới vượt trên nhị nguyên
tính.
Theo Maitreyanatha cái thực tại được kiến lập theo nhị nguyên tính nầy bị
xem là các phiền năo hay tạp nhiễm ngoại lai (agantukaklesa) đến che mờ
cái tâm vốn thanh tịnh tự bản tính. Cái thực tại được kiến lập nầy không
thật từ quan điểm cứu cánh và có thể bị tiêu trừ bằng tu luyện tâm một
cách thích đáng. Sau khi những tạp nhiễm ngoại lai nầy được tẫy sạch, bản
tính thanh tịnh trong sáng của tâm được phục hồi. Maitreyanatha, thực tại
chân thật nầy, được định nghĩa là cittaprakrtiprabhasva, hiện hữu trước
tạp nhiễm (phiền năo) và sẽ tiếp tục hiện hữu măi măi khi tạp nhiễm được
tẫy sạch. Maitreyanatha phát biểu trong Đại Thừa Trang Nghiêm Luận
(Mahayanasutralamkara):
[XIII. 19] Sự thật là tâm vốn luôn luôn thanh tịnh tự bản tính kia nhuốm
bởi những tạp nhiễm ngoại lai. Sự thật là không có tâm nào khác ngoài tâm
[tri nhận] thực tại chân thực (dharmatacitta) luôn luôn trong sáng tự bản
tính.
Nói tóm, đối với Maitreyanatha th́ tâm vốn trong sáng tự bản tính và luôn
luôn hiện hữu như thế, mặc dầu tạm thời bị che phủ bởi những tạp nhiễm tạo
ra bởi tâm mê mờ, bởi v́ đó là thực tại chân thực duy nhất. Như thế có
nghĩa là cái tâm huyễn tưởng áp đặt tự tính lên pudgala (chủ thể nhận
thức) và dharma (các đối tượng của nhận thức) nơi thực tại tính của nó,
chính là tâm thanh tịnh nầy.Như thế, hiển nhiên rằng Maitreyanatha đặt nền
tảng của thực tại luận của ông trên thực tại cứu cánh. Theo quan điểm nầy,
chỉ có thực tại chân thực hiện hữu một cách tuyệt đối (nghĩa là trên
phương diện cứu cánh).
Thực tại hiện tượng như tâm thức không giác ngộ tri giác chỉ là một thực
tại mong manh, được kiến lập một cách giả tưởng áp đặt lên trên thực tại
chơn thực. Cái thực tại giả lập nầy, mặc dù có khả năng tạo ra những hậu
quả phiền năo và những trở ngại kiến thức, sẽ biến mất ngay khi chúng ta
thể nhận thực tại chơn thực.. Đó bởi v́ cái thực tại giả lập nầy vốn giả
tưởng tự bản chất và không thật một cách tuyệt đối. Thực tại sai lầm của
con người không là ǵ khác hơn thực tại chân thực bị nhận thức một cách
sai lầm. Do đó, theo Duy Thức th́ thực tại giả lập đặt nền tảng trong thực
tại chân thực. Cho nên theo Maitreyanatha, không cần phải thiết lập một
nền tảng tách biệt cho thực tại giả lập nữa.
1.3.2: Từ Cittamatra đến Vijnaptimatra: Asanga trái lại nấn mạnh nhiều
hơn vào chiều kích hiện sinh của thế giới quan Duy Thức. Nếu như Phật -
Tâm phải được thể nhận bằng cách giải kiến (deconstruct) thể cách nhận
thức (của tâm thức) không giác ngộ; nói cách khác, nếu thanh tịnh (thực
tại chân thực) phải được đạt đến bằng cách tẫy trừ tạp nhiễm (tức là cái
thực tại giả lập áp đặt lên thực tại chân thực), th́ điều thiết yếu là
phải giải thích nguồn gốc và nền tảng của cái thực tại nầy. Mặc dù rơ rệt
chấp nhận toàn thể thực tại luận của Maitreyanatha, Asanga dường như cảm
thấy cần thiết phải giải thích nguồn gốc và cơ cấu của cái mà con người
(tức là tâm thức không giác ngộ) tri nhận như là thực tại hiện tượng.
Dù là từ quan điểm tuyệt đối th́ tâm vốn thanh tịnh tự bản tính, song từ
từ quan điểm công ước, sự thể nhận tâm thanh tịnh được giải thích như là
sự giải thoát khỏi nhị nguyên tính huyễn tưởng về chủ thể và đối tượng, bị
xem như là những tạp nhiễm che mờ bản tính thanh tịnh của tâm. Như thế,
mặc dù Phật-tính hay chân lư không phải là một sản phẩm của những hoạt
động tạo tác (hữu vi), thế nhưng từ quan điểm công ước, sự thành tựu chân
lư phải được quan niệm như là một sự chuyển hóa của thế giới giả lập.
Trong khuôn khổ của của Duy Thức, đây chính là sự thanh tịnh hóa những tạp
nhiễm ngoại lai.
Do đó, đối với Asanga mục tiêu của toàn thể thực tại luận Duy Thức là để
giải thích nguồn gốc và cơ cấu của tạp nhiễm và sự chuyễn di (transition)
từ tạp nhiễm đến thanh tịnh. Theo Asanga phân tích thực tại luận phải dựa
trên sự thể nhận cơ cấu tác động và của nền tảng trên ấy cả tạp nhiễm và
tịnh hóa có thể được thiết lập. Chính trong khuôn khổ nầy mà Asanga phối
hợp các khái niệm Duy Thức
(Vijnaptimatra) và Tàng Thức (Alayavijnana) vào hệ thống Duy Thức.
Asanga giới thiệu khái niệm Duy Thức để giải thích những diện hiện tượng
và hiện sinh của nguồn gốc của thái độ duy thực phác tố. Trong khi
Maitreyanatha chỉ giản dị phát biểu rằng thái độ duy thực phác tố nầy chỉ
là sự kiến lập của tâm (tạp nhiễm) (cittamatra), Asanga muốn đưa ra một
giải thích cụ thể cơ cấu tác động của sự kiến lập nầy. Chính trong khuôn
khổ nầy mà Tàng Thức đóng một giai tṛ quan trọng.
1.3.3: Trisvabhava (Ba tự tính của sự vật) và Alayavijnana (Tàng Thức)
theo Asanga: Một chiều kích khác của Tàng Thức trong hệ thống Duy Thức của
Asanga có tính chất then chốt cho sự hiểu biết của chúng ta về khái niệm
nầy chính là sự liên hệ tàng thức và ba tự tính theo quan điểm của Asanga.
Như chúng ta đă thấy, từ quan điểm duy thực phác tố (tức là không giác
ngộ), chúng ta áp đặt tự tính (tức là sự hiện hữu độc lập với tính cách
riêng biệt) lên các sự vật. Theo Duy Thức th́ tự tính ấy chỉ là một sản
phẩm của ngôn ngữ và các phạm trù công ước, cho nên hoàn toàn không hiện
hữu. Đặc tính nầy được gọi là tự tính giả lập (parikalpita-svabhava, lối
dịch truyền thong gọi là biến kế sở chấp tự tính ). Tự tính nầy của sự vật
thật ra (nếu không bị nh́n một cách sai lầm) được kiến lập bởi nhân (các
nguyên nhân) và duyên (các điều kiện phụ thuộc đóng góp cho nhân), cho nên
tuy có hiện hữu (một cách tùy thuộc vào nhân duyên), song không hiện hữu
theo thể cách (thực hữu với thực tính) mà tự tính áp đặt lên nó. Bởi v́ nó
hiện hữu tùy thuộc nhân duyên nên tự tính nầy được gọi là tự tính tùy
thuộc (paratantra -svabhava, lối dịch truyền thông gọi là ỏ y tha khởi tự
tính). Sau cùng, một khi chúng ta đă nhận thức được thể cách hiện hữu
thuần túy của tự tánh hệ thuộc (thoát khỏi các tự tính áp đặt lên nó bởi
tự tính giả lập), chúng ta tri nhận được thể cách hiện hữu thực sự của sự
vật, được gọi là tự tính tuyệt đối (parinispanna-svabhava, lối dịch truyền
thống gọi là viên thành thực tự tính). Nói tóm, đây chính là thể cách thể
hiện tính không của Duy Thức.
Trong Thực Tại Luận của Asanga, thực tại giả lập chỉ là thực tại chân thực
bị tri nhận một cách sai lầm. Nói cách khác, thực tại thuần túy
(bhavamatra) chính là tiến tŕnh kiến lập mà chúng ta không thể xem là
thật theo cái nh́n của duy thực phác tố chính là thể cách tri nhận thực
tại thông thường của chúng ta. Thực tại thuần túy nầy chính là cái được
gọi là abhutaparikalpa (hay tiến tŕnh kiến lập không thể được xem là thực
một cách cứu cánh) trong thuật ngữ của Maitreyanatha. Maitreyanatha phát
biểu trong câu kệ đầu tiên của bộ Madhyantavibhaga (Biện Trung Biên Luận):
[I.1 Có sự kiến lập không thật [một cách cứu cánh]. Song trong đó không có
nhị nguyên tính [chủ thể và đối tượng được giả lập là thật]. Trong [sự
kiến lập không thật] đó tính không hiện hữu [như là thực tính của nó], và
nó (tức là sự kiến lập không thật) cũng hiện hữu trong tính không (nghĩa
là có tính cách không như là nền tảng thực tính của nó).
Cũng trong Madhyantavibhaga, Maitreyanatha lại đề ra cái gọi là ba thực
tại (tattava) căn bản hay ba khái niệm thuyên thích để giải thích tất cả
các phạm trù của sự vật:
[ I.5 ] [Các Tự Tính] giả lập, tùy thuộc và tuyệt đối được phát biểu từ
những viễn cảnh của các đối tượng [giả lập], sự kiến lập không thật [một
cách cứu cánh] và sự phi hữu của nhị nguyên tính [ của chủ thể và đối
tượng giả lập].
Trong chương ba của bộ luận nầy, Maitreyanatha đưa ra một giải thích về ba
tự tính giản lược như sau: (thực tại của) thái độ duy thực phác tố là một
sản phẩm của tự tính giả lập, do đó, nó không hiện hữu trong ư nghĩa cứu
cánh. Thực tại tùy thuộc (vào nhân duyên) hiện hữu, mặc dù không một cứu
cánh, bởi v́ nó là tiến tŕnh kiến lập một thực tại thuần túy mà trong ư
nghĩa cứu cánh vượt ngoài cái nhị nguyên tính áp đặt lên nó bởi tự tính
giả lập. Tự tính tuyệt đối hiện hữu trong ư nghĩa cứu cánh, bởi v́ nó hiện
hữu như là chân tính của tự tính tùy thuộc, tự tính chân thực vượt ngoài
nhị nguyên. Trong một trước tác khác của Maitreyanatha đưa ra một phương
thức thực tiễn để nhận thức ba tự tính. Theo đó th́ tự tính giả lập là đối
tượng để tiêu trừ, tự tính tùy thuộc là đối tượng để tri nhận, và tự tính
tuyệt đối là đối tượng để thể hiện. Asanga dường như chấp thuận phương
thức về ba tự tính nầy của Maitreyanatha. Tuy nhiên, đối với ông ba tự
tính chỉ đề ra một khái niệm thuyên thích để tiếp cận tất cả các phương
diện khả tri của thực tại. Như thế có nghĩa là chúng ta vẫn cần một nền
tảng hiện thực/hiện sinh hay nhân quả để giải thích thực tại. Trong một
trước tác chính yếu của Asanga định nghĩa ba tự tính như là jneyalaksana
hay những đặc tính của thực tại khả tri (nghĩa là đây là ba phương diện
căn bản của thực tại, tri thức về chúng đưa dẫn chúng ta từ vô minh đến
giác ngộ), và tàng thức như là jneyasraya hay nền tảng của thực tại khả
tri. Điều nầy chứng tỏ rằng Asanga cảm thấy cần yếu phải thiết lập một nền
tảng cho sự kiến lập các thế giới duy thực phác tố của chúng ta. Do đó,
trong hệ thống của Asanga th́ tàng thức là nền tảng cho cả tạp nhiễm và
thanh tịnh.
1.4 : Asanga và Sự Phối Hợp Tàng Thức vào Thế Giới Quan Duy Thức: Lambrert
Schmithausen trong tác phẩm có thể nói là lần đầu tiên chuyên nghiên cứu
về khái niệm tàng thức vạch ra rằng tàng thức lần đầu tiên được viện đến
trong bộ Yogacara (Du Già Sư Địa Luận) chính yếu lien quan đến khái niệm
nirodhasamapatti (diệt tận định). Nói cách khác, theo Schmithausen tàng
thức chỉ được quan niệm như là một ư thức kéo dài, như thể một thứ nền
tảng duy tŕ sự liên tực của đời sống khi thiền giả ch́m trong thiền định
khi ấy tất cả các thức (consciousness) khác đều gián đoạn. Theo
Schmithausen Duy Thức sơ thời không hề liên kết tàng thức với triết lư duy
tâm (vijnaptimatra). Tuy nhiên, tàng thức được phát triển đồng thời với
những khái niệm then chốt khác và được hoạt định để phối hợp vào hệ thống
Duy Thức từ rất sớm bởi Asanga.
1.5 : Ư Nghĩa và Tác Năng của Tàng Thức trong Hệ Thống Duy Thức của
Asanga: Sau khi đă qui định khuôn khổ thuyên thích để tri nhận tàng thức
trong toàn thể hệ thống Duy Thức, bây giờ chúng ta có thể khảo xét các ư
nghĩa và tác năng căn bản của khái niệm nầy như đă được bày tỏ trong các
trước tác của Asanga.
1.5.1 Tàng Thức và Duyên Khởi. Theo các nhà Duy Thức và Đại Thừa nói
chung, dị biệt cốt yếu giữa thế giới quan Phật Giáo và những thế giới quan
khác là sự dị biệt giữa duyên khởi luận và duy thực luận phác tố: Duyên
khởi luận nhắm nh́n sự vật (cả tinh thần lẫn vật chất) như là những sản
phẩm của sự tương hệ nhân quả giữa các thành tố hiện hữu khác nhau. Chính
bởi v́ các sự vật xuất hiện tùy thuộc vào một tiến tŕnh duyên khởi bên
ngoài chúng, mà chúng được xem là không có tự tính (do đó gọi là không).
Duy thực luận phác tố trái lại xem thực tại như là gồm các sự vật hiện hữu
một cách độc lập với đặc tính cố định (tự tính).
Tóm lại, sự dị biệt chính yếu giữa thực tại luận duyên khởi của Phật Giáo
và duy thực luận phác tố được phát biểu như sau : đối với duy thực luận
phác tố th́ thực tại mà chúng ta đối diện gồm những thực thể hiện hữu sẵn.
Đó là thực tại mà thực tính của nó có thể được hiển lộ bằng một hệ thống
ngôn ngữ tự túc (autonomous) phản ánh nó trong mối liên hệ trực tiếp, giản
đơn, trong sáng giữa ngôn ngữ và sự vật. Đó là thực tại mà nguyên nhân tối
hậu của nó có thể được thiết lập, qua một tiến tŕnh thối lui và qui giảm,
trên một nguyên lư được thực hóa (reified). Duyên khởi luận giải thích
rằng cái thực tại mà chúng ta đối diện không ngớt được kiến lập qua cơ cấu
tác động của nguyên lư nhân quả. Asanga định nghĩa tàng thức như là nền
tảng của tiến tŕnh nầy. Tuy nhiên, ông thiết lập tàng thức như là nền
tảng nhân quả của thực tại để giải minh tiến tŕnh hiện hành của nó và để
chứng tỏ rằng tàng thức không thể được thực hóa, nghĩa là xem như một thực
thể tối hậu.
Chương đầu của bộ Mahayanasamgraha là để giải minh khái niệm tàng thức mà
Asanga gọi là nền tảng thực tại khả tri. Asanga giải thích rằng Bồ Tát
(nghĩa là những người chấp nhận giáo lư Phật Giáo và nỗ lực thực hiện giáo
lư ấy) trước tiên phải hiểu nguyên do của sự vật (dharmahetu), và để thực
hiện điều nầy, họ phải hiểu được giáo lư duyên khởi. Điều nầy có nghĩa là
nhận thức được rằng thực tại mà các tâm thức không giác ngộ tri nhận như
thể là gồm các thực thể thực hữu, th́ không thực trên phương diện tuyệt
đối, mà chỉ là sản phẩm dựa trên tàng thức như là nguyên do sinh khởi
(janakahetu). Do đó, tàng thức tượng trưng cho nền tảng (và cơ cấu tác
năng) từ đó thế giới kinh nghiệm của con người được kiến lập. Tàng thức là
trung tâm của tất cả yếu tố khách thể và chủ thể đóng góp vào sự kiến lập
một thế giới giả tưởng. Như thế, tàng thức bao hàm cơ cấu hiện hữu cũng
như thể cách kinh nghiệm thế giới của một tâm thức không giác ngộ.
1.5.2: Tàng Thức và Khuôn Mẫu Thực Tại Luận của Duyên Khởi: Cần phải ghi
nhận ở đây rằng sự phân biệt bởi Asanga giữa Khuôn Mẫu Thực Tại Luận
(ontological) của Duyên Khởi và khuôn mẫu cảm ứng (affective) của duyên
khởi. Trong khuôn khổ giải thích (interpretive framework) nầy, sự kiến lập
các sự vật dựa trên tàng thức tượng trưng cho khuôn mẫu thực tại luận của
duyên khởi. Đó bởi v́ tàng thức chính là nguyên nhân áp đặt các tự tính
lên các hiện tượng (được phát sinh bởi duyên khởi). C̣n duyên khởi với
mười hai thành tố nền tảng kia chính là khuôn mẫu cảm ứng, bởi v́ nó cung
ứng nguyên do quyết định về hiện hữu tốt hay xấu trong các cơi hữu khác
nhau.
Như thế khuôn mẫu nhân quả (dựa trên) tàng thức là để phân tích cơ cấu tác
động của sự áp đặt các tự tín lên sự vật, tức là, để phân tích sự kiến lập
thế giới duy thực phác tố. Từ viễn cảnh chủ thể, đó là sự xác nhận một thế
giới của của những đối tượng hiện hữu độc lập với nhau. Trong khuôn khổ
thuyên thích nầy, tàng thức phù hợp với thực tại luận ba tự tính. Thực tại
luận nầy có mục đích giải thích sự thể nhận ư nghĩa đích thực của duyên
khởi (tức là tánh không) bằng cách phân tách ư nghĩa của tự tính từ các
viễn cảnh công ước lẫn tuyệt đối. Trong ư nghĩa nầy tàng thức đồng nhất
với duyên khởi. Một cách đặc thù hơn nữa, tàng thức là nền tảng cụ thể và
cơ cấu tác năng của những phương diện thực tại thuyên thích của duyên
khởi.
Cần phải lưu ư ở đây là tàng thức không chỉ đề cập đến tâm thức chủ thể
nhận thức, chính nó chỉ là một trong những kiến lập trong thế giới duy
thực phác tố nhị nguyên dựa trên tàng thức. Nói cách khác, tàng thức chính
là trung tâm của, và công cụ cho, sự kiến lập chủ thể và khách thể được
cho là thực hữu.
Trong thuật ngữ của Asanga, ṭan thể cơ cấu tác năng của tàng thức được đề
cập đến như là jneyasraya, nền tảng của đối tượng [của nhận thức]. Đối
tượng [của nhận thức] ở đây chỉ ba tự tính, bởi v́ theo những nhà Duy thức
th́ ba tự tính bao gồm tất cả cơ cấu thuyên thích khả hữu của thực tại.
Nghĩa là tàng thức đem lại thể chất cho toàn thể tiến tŕnh tri nhận thực
tại bao gồm trong ba tự tính. Nói tóm, ba tự tính là những phạm trù giải
thích trừu tượng để nhận thức thực tại như là đối tượng của tri thức,
trong khi tàng thức là nền tảng cung ứng những dữ kiện chất thể cho thực
tại. Như thế là bởi v́ tàng thức là nguyên do cho sự áp đặt các tự tính
lên thành tố chủ thể lẫn khách thể của thực tại. Khi các hoạt động huyễn
hóa được nhận thức, người ta đạt được thực tại chân thực.
1.5.3: Tàng Thức và Tự Tính Tùy Thuộc (Paratantra): Theo Asanga tri nhận
thực tại được đặt trên kiến thức về tự tính tùy thuộc hay duyên khởi. Tự
tính giả lập (parikalpita) chỉ thể cách tri giác trong ấy tự tính tùy
thuộc được thực hóa, trong khi tự tính tuyệt đối (parinispanna) chỉ ư thức
giác ngộ nh́n tự tính tùy thuộc một cách trung thực như là hiển lộ phi
thực tính của chủ thể và đối tượng. Do đó, trong Duy Thức tùy thuộc được
giải thích là không phải là hiện hữu mà cũng không phải là không hiện hữu.
Theo Asanga, tự tính tùy thuộc là thực tại thuần túy để chúng ta tri nhận,
trong khi tự tính giả lập và tự tính tuyệt đối tượng trưng cho hai thể
cách tri nhận thực tại nầy. Tóm lại, tự tính tùy thuộc chỉ duyên khởi
trong phương diện thực tại/tri thức của nó, trong khi tàng thức tượng
trưng cho nền tảng hiện thực và cơ cấu tác động của duyên khởi. Sự liên hệ
giữa tự tính tùy thuộc và tàng thức th́ hết sức là then chốt trong vai tṛ
mà tàng thức đóng trong giải thoát luận của Asanga.
1.5.4: Tàng Thức Như Là Kho Chứa Tất Cả Những Chủng Tử (Sarvabijaka) Hay
Nguyên Nhân Phát Sinh (Janakahetu) của thực tại kiến lập: Thế giới duy
thực phác tố dựa trên một nguyên lư được thực hóa (reified) và xem đó là
nguyên do cứu cánhcủa tất cả các sự vượt được xem là thực hữu. Mặc dù tàng
thức được xem là nguyên nhân phát sinh của tất cả các hiện tượng giả lập,
chúng ta không thể thực hóa nó thành nguyên nhân cứu cánh. Tàng thức chỉ
là một nền tảng năng động tàng trữ các chũng tử (bija) nhận thức hay ấn
tượng (vasana) và đăi lọc chúng trở lại trạng thái nhận thức hiện hành. Do
đó mà trong hệ thống Duy Thức của Asanga tàng thức được gọi là sarvabijaka
(kho chứa các chủng tử) và vipaka (thành thục), nghĩa là làm các chủng tử
chín mùi (thành thục) thành kinh nghiệm tri giác. Tàng thức được định
nghĩa như là nguyên nhân phát sinh của tất cả các hiện tượng giả lâp bởi
v́ nó luôn luôn hiện diện như là nguyên nhân của các hiện tượng nầy. Tuy
nhiên, tàng thức là một tiến tŕnh chứ không phải là một thực thể; tàng
thức chỉ là kho chứa các chủng tử nhận thức và ấn tượng nầy (chính chúng
lại là quả của hiện tượng tạp nhiễm). Điều nầy giải thích sự kiện rằng
Asanga nhấn mạnh rằng tàng thức đồng nhất với các chủng tử nhận thức. Tàng
thức cũng không phải là một nguyên nhân cứu cánh được thực hóa bởi v́ nó
sẽ ngưng hiện hữu khi người ta đạt được một kiến thức đúng về nhân quả.
Một cách vắn tắt, trên b́nh diện hiện tượng tàng thức chỉ hiện diện như là
nền tảng cụ thể cho sự kiến lập của chủ thể được xem là thực hữu (ngă) và
các đối tượng được xem là thực hữu (pháp). Khi chúng ta đạt đến mức độ nào
đó của nhận thức, mà trong khuôn khổ của con đường tu quán Phật Giáo gọi
là giải thoát (nghĩa là một nhận thức không c̣n chấp vào thực ngă và thực
pháp), tàng thức sẽ không c̣n hiện hữu nữa. Ít ra, đây là giải thích của
Vasubandhu.
1.5.4.1: Tàng Thức và Duy Thức (Vijnaptimatra): Duy thực phác tố (naĩve
realism) xem chủ thể và đối tượng như là những sự vật thực hữu sản sinh
bởi một nguyên nhân thực hữu. Tuy nhiên, theo Asanga th́ tất cả mọi sự vật
phát sinh tùy thuộc (vào nững sự vật khác nữa như là nhân duyên ad
infinitum) th́ không thực hữu một cách tuyệt đối. Những sự vật nầy chỉ là
vijnapti [các hiện tượng được đăi lọc theo nhận thức dựa trên ngôn ngữ và
tinh thần (Geist) tập thể qua h́nh thức những phạm trù công ước ]
(cognitively processed phenomena) dựa trên các chủng tử tàng trữ trong
tàng thức. Asanga dịnh nghĩa tự tính tùy thuộc hay duyên khởi như là
abhutaparikalpa (sự kiến lập không thực hữu một cách tuyệt đối) với ư
nghĩa là nó là nền tảng cho sự hiển hiện (abhasraya) của các sự vật phi
hữu và giả tưởng. Do đó những sự vật nầy là vijnapti (sự đăi lọc của tiến
tŕnh chuyển biến của nhận thức). Như thế, những sự phát sinh qua duyên
khởi chỉ là vijnaptimatra (duy thức), bởi v́ không có đối tượng thực hữu
bên ngoài thức (nghĩa là không có những đối tượng thực hữu sẵn, bất biến,
với tự tính bên ngoài tiến tŕnh chuyển biến của nhận thức).
Những sự vật xuất hiện như thể thực hữu môt cách tuyệt đối với các tự tính
thiệt ra chỉ phản ánh thể cách nhận thức (phi giác ngộ) của chúng ta về
chúng; chứ không nhứt thiết là những sự vật nầy được nhận thức chính xác
trong thực tính của chúng. Asanga đồng hóa duy thức (vijnaptimatra) với
tâm thức (vijnanamatra). Asanga cũng dùng ẩn dụ mộng để giải minh quan
điểm của ông: trong một giấc mộng, mặc dù chỉ có tâm thức, chứ không có
đối tượng (artha), song nhiều đối tượng xuất hiện. Do đó Asanga kết luận,
chúng ta biết rằng sự xuất hiện của các đối tượng (theo một thể cách nào
đó) không nhất thiết có nghĩa là chúng hiện hữu (đúng như thế) ngoài kia.
Như thế, theo Asanga, sự xuất hiện của các đối tượng trong nhận thức của
chúng ta không phản ánh bản tính chân thực của chúng ta mà chỉ là một sự
chuyển hóa hay hiện hành của vijnapti hiện hữu trong h́nh thức ấn tượng
nhận thức hay chũng tử trong tâm thức chúng ta. Đây chính là ư nghĩa của
lời phát biểu của Asanga rằng sự xuất hiện của những đối tượng (giả tưởng)
trong nhận thức của chúng ta không phản ánh thể cách hiện hữu chân thực
của chúng bên ngoài nhận thức của chúng ta mà chỉ là kết quả của khoảnh
khắc nhận thức đi trước (được tàng trữ trong tàng thức trong h́nh thức của
những chủng tử hay ấn tượng).
Một tiến tŕnh nhận thức (vijnapti) như thế gồm ở chỗ tàng trữ và hiện
hành các chủng tử nhận thức nầy; chính tác năng của tàng thức cùng với các
thể cách nhận thức khác dựa trên tàng thức. Do đó, tàng thức được định
nghĩa là một tâm tức tàng trữ tất cả các chũng tử và hiện hành hóa chúng
(nghĩa là làm cho các chũng tử nầy chính muồi). Như thế có nghĩa là tàng
thức là kho chứa; chứa những chủng tử nhận thức và duy tŕ sự liên tục của
thực tại hiện tượng (có nghĩa là thực tại tùy thuộc vào nhân duyên). Trong
tác năng thu thập các ấn tượng nhận thức đi trước nầy, Asanga đồng hóa
tàng thức với tâm (citta) trong thành ngữ ba nhánh tâm, ư, và thức. Tiến
tŕnh nhận thức nầy bao gồm không những sự thu thập và duy tŕ các chủng
tử nhận thức, mà cả sự hiện hành hóa chúng nữa. Do đó, tiến tŕnh nhận
thức nầy bao gồm các tác năng ở cả b́nh diện nhân lẫn b́nh diện quả: Ở
b́nh diện nhân th́ tàng thức (tâm) tàng trữ và cung cấp các chủng tử nhận
thức. Khi điều kiện hội đủ để (những) chủng tử nhận thức nào đó trở thành
một hành động nhận thức hiện hành (tức là ở b́nh diện quả), th́ chính
chuyển thức đóng vai tṛ hiện hành hóa hành động nhận thức nầy. Chuyển
thức ở đây bao gồm (năm h́nh thức của) thức cảm quan tri nhận những đối
tượng đặc thù, ư thức duy tŕ và khái niệm hóa những tri giác rời rạc gián
đọan của cảm thức, và ư hay sự suy tư tạp nhiễm (c̣n được gọi là mana hay
mạt na thức, theo lối dịch truyền thống) kiến lập một sở hữu chủ thường
hằng sở hữu những hành động nhận thức rời rạc và gián đoạn kia. (Do đó,
theo Duy Thức th́ ngă cũng là một kiến lập (construct) chứ không phải là
một thực thể tiên thiên). Trong thuật ngữ của Asanga,vijnaptimatra có
nghĩa là tác năng của cả tàng thức lẫn chuyển thức (pravrttivijnana) trong
h́nh thức của sự suy tư tạp nhiễm (mana)và các thức cảm quan.
Tóm lại, duy thức (vijnaptimatra) không hề có nghĩa là một thứ duy tâm chủ
quan (subjective idealism) xem thế giới ngoại tại chỉ là sản phẩm của tâm
thức chủ thể hay một thứ hư vô chủ nghĩa xem tâm là tạo hóa tạo ra mọi giá
trị. Thật ra, thực tại luận tàng thức dựa trên nền tảng ba tự tính chỉ
nhắm vạch ra rằng nền tảng trên ấy chúng ta đặt nhận thức về thực tại của
ḿnh, phân tích một cách rốt ráo, chẳng là ǵ khác hơn một giả lập. Nói
cách khác, Duy Thức không hề chối bỏ một thế giới ngoài kia, mà chỉ muốn
nói rằng khi nào mà nhận thức của chúng ta về thế giới c̣n dựa trên một
thái độ nhận thức sai lầm (nghĩa là trên sự giả lập của các phạm trù chủ
thể/khách thể được xem, một cách thiếu phê phán, là thực hữu) th́ khi ấy
nhận thức ấy không hề phản ánh chân thực cái thế giới kia mà chỉ là một
sản phẩm của tiến tŕnh chuyển biến của nhận thức (duy thức), do đó nhận
thức ấy không thể được xem là đúng.
1.5.5: Tàng Thức Như Là Sự Hiện Hành Hóa (Vipaka) Các Chủng Tử Nhận Thức
Hay Là Cơ Cấu Tác Động Của Duyên Khởi: Như thế tàng thức không những tàng
chứa các chủng tử nhận thức mà c̣n hiện hành hóa hay làm chín muồi các
chủng tử đă được tàng trữ nầy thành các hoạt động nhận thức hiện tại. Tiến
tŕnh này được gọi là hiện hành hóa (vipaka). Chính v́ thế mà tàng thức
cũng được gọi là vipakavijnana (thức có tác năng hiện hành hóa các chủng
tử nhận thức) trong tiến tŕnh chuyển hóa của vijnaptimatra. Đây là bởi v́
trong tiến tŕnh nhận thức nầy tàng thức với tư cách là kho chứa các chủng
tử nhận thức tác động như là nhân, trong khi chuyển thức tác động như là
quả trong ư nghĩa biến những chủng tử kia thành kết quả.
Vipaka ám chỉ tiến tŕnh trong ấy các ấn tượng của những hoạt động nhận
thức đi trước được hiện hành hóa bởi tàng thức. Tàng thức được cấu tạo bởi
các chủng tử hay ấn tượng của các hoạt động nhận thức đi trước được tàng
trữ như là nguyên nhân tiềm tàng cho các hoạt động nhận thức trong tương
lai. Rồi khi có các diều kiện nguyên nhân thích hợp, một tiến tŕnh kiến
lập nhận thức hiện tại được hiện hành bởi chuyển thức. Như thế theo quan
điểm Duy Thức, đời sống con người là tiến tŕnh những hành động nhận thức
tri giác thế giới qua lăng kính của các phạm trù giả tưởng của chủ thể và
đối tượng như là thực hữu, và bị xung động để đáp ứng lại các hiện tượng
giả tưởng được kiến lập bởi sự chuyển hóa của tàng thức nầy.
Điều quan trọng là chúng ta cần lưu ư rằng vipaka ám chỉ cả các tác năng
nhận thức lẫn sinh lư của tàng thức. Như thế có nghĩa là tàng thức không
những chỉ tàng trữ các chủng tử của thể cách suy nghĩ nhị nguyên và phục
sinh chúng trong thể cách tri nhận hiện sinh về chủ thể và đối tượng, mà
trên b́nh diện hiện sinh (existential), tàng thức cũng duy tŕ các chủng
tử, thiện hay ác, và hiện hành hóa chúng trong đời sống tương lai.
2.-Từ Thực Tại Luận Đến Giải Thoát Luận: Tàng Thức Và Chuyển Y
(Asrayaparavrtti):
2.1: Tàng Thức Như là Nền Tảng Cho Cả Tạp Nhiễm Lẫn Tịnh Hóa: Như thế tàng
thức là căn bản duy tŕ và cung cấp các chủng tử cho sự kiến lập (thế
giới) duy thực phác tố được hiện hành hóa trong các hoat động của chuyển
thức. Không có sự chống đở duy tŕ của tàng thức như thể là nguyên nhân
luôn luôn hiện diện th́ sẽ không có nền tảng cho các hiện tượng tạp nhiễm
đem lại bởi chuyển thức tự nó vốn gián đoạn. Do đó tàng thức được xem là
nền tảng của tạp nhiễm. Tàng thức lại cũng được xem là nền tảng của tịnh
hóa. Như thế bởi v́ tịnh hóa không là ǵ khác hơn sự tịnh hóa hết cái tạp
nhiễm kia.
Nói cách khác, sự thành tựu toàn tri, hay trong ngôn ngữ của
Maitreyanatha. Tâm (nhận thức) thực tại chân thực (dharmatacitta), nằm ở
chỗ tri nhận cơ cấu và tác năng của tàng thức. Như thế, nếu không có tàng
thức th́ không thể thành lập tạp nhiễm hay tịnh hóa được. (Lưu ư rằng điều
nầy hết sức then chốt là bởi v́ mục tiêu tối hậu của toàn thể thế giới
quan và con đường của Phật Giáo, cũng như tất cả các tôn giáo khác, nằm ở
chỗ thành tựu giải thoát--định nghĩa khác nhau tùy theo từng truyền thống.
Nói một cách hết sức tóm lược, trong thế giới quan Phật Giáo giải thoát có
nghĩa là khôi phục lại thanh tịnh cố hữu của tâm thức bị che mờ bởi tạp
nhiễm tạm thời ngoại lai. Cho nên dù là trên mặt tuyệt đối th́ tâm vốn
thanh tịnh tự bản tính, song ít ra trên mặt công ước chúng ta vẫn phải
giải thích nguyên do và cơ cấu của tạp nhiễm bởi v́ giải thoát chính là sự
tịnh hóa tạp nhiễm nầy. Nếu không hẳn chúng ta sẽ rơi vào một thứ hư vô
chủ nghĩa). Như thế có nghĩa là tàng thức là nền tảng cho cả sự thể hiện
thực tại lẫn thành tựu giải thoát trong tư tưởng Duy Thức của Asanga.
Chính v́ thế mà Asanga phát biểu rằng không có nền tảng nầy (tức là tàng
thức) tàng trữ tất cả chủng tử và tác động như là một tiến tŕnh hiện hành
hóa các chủng tử ấy, th́ không thể nào chúng ta thiết lập tạp nhiễm hay
tịnh hóa được. Không thể có tịnh hóa được bởi v́ không có nền tảng
(asraya) để chuyển hóa.
2.2: Tự Tính Tùy Thuộc (Paratantra) và Chuyển Y
( Asrayaparavrtti): Asanga định nghĩa thành tựu giải thoát sự thành tựu
giác ngộ (bodhi) là chuyển y. Asanga giải thích chuyển y từ viễn cảnh của
tự tính tùy thuộc lẫn tàng thức. Đó là bởi v́ chuyển y có thể được quan
niệm từ thuyên thích lẫn phương diện hiện sinh. Chúng ta đă biết rằng theo
Duy Thức th́ giải thoát hay một tri thức đúng về thực tại chỉ có thể đạt
được qua sự quán sát ba tự tính. Song, như đă đề cập, theo Asanga th́ tự
tính tùy thuộc là nền tảng của ba tự tính, cho nên giải thoát--được quan
niệm là sự xoay chuyển cái nền tảng (y chỉ) nhận thức của con người hay
chuyển y--phải được thành tựu nơi tự tính tùy thuộc. Trang bị với kiến
thức về sự liên hệ giữa tàng thức và tự tính tùy thuộc, trước tiên chúng
ta thử thẩm xét tự tính tùy thuộc và chuyển y.
Theo Asanga chuyển y là một tiến tŕnh nhận thức thực từ tất cả mọi phương
diện liên hệ đến kinh nghiệm của chúng ta. Trong thực tại luận của Asanga
tất cả mọi phương diện của thực tại được thu gọn trong ba tự tính đă được
giải thích vắn tắt ở trên. Ba tự tính nầy giải minh thể cách mà thực tại
sinh khởi (tự tính tùy thuộc), thể cách mà thực tại được tri giác bởi tâm
thức của con người dựa trên thái độ duy thực phác tố (tự tính giả lập), và
thực tính của thực tại sinh khởi kia (tự tính tuyệt đối).
Theo Asanga th́ tự tính tùy thuộc là thực tại thuần túy. Luân hồi
(samsara) và niết bàn (nirvana) là những phương diện tạp nhiễm và thanh
tịnh của cùng một thực tại. Tuy nhiên, như thế không có nghĩa là tự tính
tùy thuộc có hai phương diện dị biệt thực sự. Vấn đề chỉ là tự tính tùy
thuộc được tri giác sai hay đúng.Khi tự tính tùy thuộc được tri giác sai
lầm th́ chúng ta có --thay v́ một thế giới của những hiện tượng tùy
thuộc-- một thực tại giả tưởng của những chủ thể tự túc và các đối tượng
hiện hữu độc lập. Khi tự tính tùy thuộc được tri nhận đúng trong thực tính
của nó, nó hiển lộ thực tại chân thực (tự tính tuyệt đối) vượt trên nhị
nguyên tính giả tưởng của chủ thể và đối tượng. Trong ngôn ngữ tri thức
luận, thể cách tri nhận thực tại (tattvajnana) này được gọi là
nirvikalpajnana (vô phân biệt trí) hay sarvajnatva (toàn tri) trong Duy
Thức. Đây là thể cách nhận thức siêu việt tất cả những giới hạn của (thế
giới) của duy thực phác tố và trực tiếp nhận thức cơ cấu duyên khởi của
thực tại. Tự tính tùy thuộc do đó được định nghĩa là nền tảng lưỡng diện
bởi v́ nó là nền tảng cho tất cả thực tại tạp nhiễm lẫn thực tại thanh
tịnh cũng như hai thể cách nhận thức.
Do đó, chuyển y là một hành động lưỡng diện nằm ở chỗ gạt bỏ phương diện
tạp nhiễm của tự tính tùy thuộc và phục hồi lại phương diện thanh tịnh của
nó. Ở đây cần lưu ư rằng đối với các nhà Duy Thức th́ chuyển y, nh́n từ cả
hai viễn cảnh hiện tượng và tuyệt đối, chỉ thể cách hiện hữu của Phật (tức
tâm thức giác ngộ). Như thế trí (jnana) của Phật luôn luôn trụ trong tác
năng lưỡng diện đồng thời tri nhận thực tại hiện tượng và thực tại tuyệt
đối.
Điều nầy hiển lộ một phương diện lư thú của những hàm ngụ giải thoát hạnh
của Phật -trí.
2.3 : Tàng Thức Và Pháp Thân (Dharmakaya) Trong Chuyển Y Theo Asanga: Nếu
như [phương diện tạp nhiễm] của tự tính tùy thuộc tượng trưng cho cái nền
tảng trên ấy một thực tại giả lập được áp đặt và do đó cần bị gạt bỏ, th́
tàng thức tượng trưng cho nền tảng thể chất cho sự kiến lập của cái thực
tại qui kỷ, giả tưởng nầy. Do đó, chuyển y cũng liên hệ đến gạt bỏ hay
chuyển hóa tàng thức. Theo triết học Duy Thức, sự chuyển hóa tàng thức đem
lại sự thành tựu Pháp Thân (Dharmakaya) hay yếu tính của Phật.
Trong ngôn ngữ của giải thoát luận, giác ngộ hay thực tại chân thực với
tất cả những hàm ngụ giải thoát hạnh được bao gồm trong khái niệm về tam
thân của Phật. Tam thân là Pháp Thân (Dharmakaya), Báo Thân
(Sambhoga-kaya), và Hóa Thân (Nirmanakaya). Khái niệm tam thân này bao gồm
tất cả mọi khía cạnh thần luận (theological) của Duy Thức. Pháp Thân là
yếu tính của Phật hay giác ngộ hoàn toàn siệu việt. Song, tuy rằng trên
b́nh diện tuyệt đối th́ Phật (tức Pháp Thân) vượt trên tất cả phạm trù
hiện tượng, nên phương diện công ước Phật--được xem là kết quả của tiến
tŕnh tu tập trí huệ và đức hạnh--vẫn có thể được xem là hiện thân của
những đặc tính giác ngộ như toàn tri, từ bi,v.v. Đây chính là Báo Thân của
Phật. Sau hết, tuy rằng yếu tính của giải thoát là hoàn toàn siêu việt
(Pháp Thân), Phật có khả năng biểu hiện dưới vô vàn h́nh thức khác nhau
trong những hoàn cảnh khác nhau để thực hành những hành động giải thoát.
Đây chính là Hóa Thân của Phật. Pháp Thân là yếu tính và nền tảng trên đó
hai thân kia xuất hiện như là những biểu hiện và tác năng.
Trong thực tại luận của Asanga tàng thức là nền tảng trên ấy nhận thức của
con người kiến lập cái nh́n huyễn tưởng của ḿnh về thực tại công ước (tức
là sự áp đặt tự tính giả lập lên tự tính tùy thuộc). Tàng thức cung ứng
nền tảng cho thể cách nhận thức của con người b́nh thường. Đây là toàn
thể- thế- giới -sống (life-world) của con người. Như thế tàng thức được
xem là nền tảng của cho tất cả các thành tố đưa dẫn đến sự kiến lập một
cái nh́n qui kỷ dựa trên thái độ duy thực phác tố. Chính v́ thế mà Asanga
tuyên bố rằng nếu không quán sát tàng thức một cách rơ ràng chân thực,
người ta không thể mong đạt đến toàn tri (tức là bản tính của Phật- thể mà
Pháp Thân chính là nền tảng). Như thế có nghĩa là trừ phi người ta biết
rằng chủ thể và đối tượng được giả định là thật mà chúng ta tri nhận thực
tại hiện tượng chỉ phát sinh từ sự chuyển hóa nhân quả của các hiện tượng
nhận thức trong tàng thức, người ta sẽ chấp trước vào cái thực tại giả
tưởng của nó và do đó không thể đạt được toàn tri.
Do đó, sự thành tựu giác ngộ phải liên hệ đến sự chuyển hóa thế-giới-sống
nay thành Phật -giới (Dharmadhatu). Đây chính là sự chuyển hóa tàng thức
thành Pháp thân Phật. Pháp Thân nầy là nền tảng cho một nhận thức giác ngộ
vượt trên bất cứ giới hạn nào của lối suy nghĩ nhị nguyên dựa trên thái độ
duy thực phác tố. Pháp thân là nền tảng của toàn tri hay vô phân biệt trí.
Sự chuyển hóa này đưa đến không những sự gạt bỏ lỗi lầm nhận thức, mà quan
trọng không kém, sự gạt bỏ thể cách qui kỷ đối với thế giới bị qui định
bởi tham lam, gây hấn, sợ hăi, và vô minh--những phiền năo chính yếu đi
kèm quan điểm qui kỷ dựa trên tàng thức.
Bởi v́ tang thức là nền tang hiện sinh/hiện thực của hiện hữu trong cả
chiều kích nhận thức lẫn chiều kích sinh lư/tâm lư, sự chuyển hóa tàng
thức không những đem lại sự thành tựu về mặt nhận thức mà c̣n chuyển hóa
tất cả tiềm năng của con người thành các đặc tính Phật (hay giác ngộ). Do
đó, khi tàng thức được chuyển hóa, người ta đạt được Pháp Thân hay vô phân
biệt trí (toàn tri), phương diện nhận thức của Pháp Thân.
3. Kết Luận : Hi vọng rằng những nhận định trên mở ra một vài lối nh́n mới
về Duy Thức tông. Trước hết, không thể đồng hóa toàn thể thế giới quan Duy
Thức (Yogacara) với hệ thống vijnaptimatra của Asanga và Vasubandhu. Thật
ra, sự phối hợp của của tàng thức cùng với vijnaptimatra phản ánh một xu
hướng mới trong sự phát triển của thế giới quan Duy Thức. Đó là một thay
đổi về phương diện thuyên thích : một chuyển di từ thực tại cứu cánh sang
thực tại hiện tượng như là nền tảng (asraya) của cả thực tại luận lẫn giải
thoát luận. Đối với Asanga (và cả Vasubandhu), sự thành tựu giải thoát đạt
cao điểm ở chuyển y bao hàm một kiến thức đúng về cơ cấu của thực tại giả
lập lẫn sự giải kiến của nó. Chúng ta phải thẩm xét sự kiện rằng việc thay
đổi từ sự nhấn mạnh vào thực tại cứu cánh sang thực tại hiện tượng (hay
trong ngôn ngữ của Duy Thức, từ dharmatacitta hay tâm thực tại chân thực
sang alayavijnana (hay tàng thức) như là nền tảng của tạp nhiễm lẫn tịnh
hóa trong thực tại luận Duy Thức khởi xướng bởi Asanga cũng phản ánh luôn
giải thích của ông về tu tập.
Một kiến thức chính xác về sự phát triển trên phương diện lịch sử và ư
niệm của thực tại luận alayavijnana/vijnaptimatra cũng chiếu rọi ánh sáng
lên một vấn đề trong lịch sử Phật Giáo. Quả thật rằng sự phát triển triết
lư trong các tông phái khác nhau trong Phật Giáo không phải là một liên
tục đơn thuần mà thông thường hơn là một phát triển phê phán đối với các
tông phái đi trước. Song sự phát triển phê phán này không nhứt thiết có
tính cách bài bác như các truyền thống sau và nền nghiên cứu hiện đại giải
thích.
Cả các nhà Trung Quán lẫn các nhà Duy Thức đều nỗ lực giải thích duyên
khởi luận, Nagarjuna, người được truyền thống xem là sáng lập Trung Quán
tông, giải thích rằng duyên khởi luận có mục đích vạch ra rằng các sự vật
không có tự tính. Đây cũng là giáo lư trung đạo (madhyama-pratipad) của
Phật. Maitreyanatha dùng khái niệm ba tự tính để giải minh cả phương diện
lư thuyết lẫn thực tiễn của duyên khởi và trung đạo. Asanga dường như lại
cho rằng trong khi khái niệm ba tự tính đủ để giải minh trung đạo, tàng
thức cung ứng một nền tảng cụ thể cho sự tác thành của duyên khởi.
Ở đây, chúng ta có thể thấy rơ rằng sự phát triển của khái niệm tàng thức
(và vijnaptimatra) là một nỗ lực của Asanga để giải minh các vấn đề then
chốt trong triết lư Duy Thức. Nói một cách khác, đó là một sự phát triển
trong thế giới quan của Duy Thức chứ không có vẻ như là một phê b́nh
(critique) triết lư Trung Quán, đúng hơn c̣n là một phát triển bổ xung cho
Trung Quán. Chúng ta nhận thấy trong khi sunyata (tính không) chỉ có hàm ư
giải kiến (deconstructive implication) về duyên khởi th́ tàng thức nhắm
giải thích tiến tŕnh sinh khởi từ quan điểm duyên khởi. Tàng thức ngụ ư
rằng các sự vật được giả tưởng là có tự tính thật ra được tạo thành bởi
các tiến tŕnh nhận thức (vijnapti), và do đó không có cái tự tính giả
tưởng kia. Nh́n từ một viễn cảnh chính xác, khái niệm tàng thức cũng được
hoạch định để giải kiến thái độ duy thực phác tố. Do đó không hề có sự bất
nhất giữa tính không và tàng thức. Xem hai khái niệm tính không và tàng
thức như là tiêu biểu trọn vẹn cho Trung Quán và Duy Thức.
TRUYỆN NÀNG BHAĐDA
(Trích trong tập Truyện Cổ Phật Giáo do N.H. Lộc chép)
Thuở xưa, tại Vương Xá Thành có cô con gái, con quan đại thần, nàng mang
sắc đẹp lộng lẫy, thông minh và kiêu hảnh. Đến tuổi gieo cầu, không có vị
vương tôn công tử nào lọt vào cặp mắt xanh của nàng. Vă chăng, con tạo vốn
trớ trêu, nàng lại si t́nh một chàng trai vũ phu, có học nhưng lại là tên
cướp khét tiếng, can tội tử h́nh, không có ai giúp đỡ cho nàng trước mối
t́nh vô vọng ấy. Thế là Bhađda, tên nàng, nằm lăn trên giường bệnh.
Thương con, vị quan đại thần lo lắng chạy chữa thuốc thang nhưng thảy đều
vô hiệu.
--Cha ôi! Nàng nói thều thào--Buổi sáng con tim nó nói ǵ với cha?
--Nó nói rằng, nó xót xa lắm con ơi!
--Cha ôi! Buổi tối con tim nó nói ǵ với cha?
--Nó nói rằng con ơi! Con đau th́ nó cũng đau.
Yên lặng giây lát, một hạt lệ rỉ ra từ đôi mắt uyên ương, nàng th́ thầm :
Cha ôi! Con tim con cũng đau buổi sáng, buổi tối và cả ban đêm nữa. Th́
ích ǵ những thuốc thang hở cha?
-- Phải rồi, ích ǵ những thuốc thang này khi con tim nó đau! Nhưng mà nó
nói ǵ hả con?
Nàng Bhađda với nhập đề như vậy, với chuyển đề như vậy, rồi đưa vị cha
già nua vào một chiếc tḥng lọng :
--Nó có tâm sự riêng của nó chứ, phải vậy không hả cha?
--Phải lắm, nó có tâm sự của nó mà!
--Vậy th́ cha ôi! Nàng khóc lớn--khi mà chiếc đao tử thần rơi xuống đầu
Satthuka, tên cướp, th́ trái tim con vĩnh viễn bị tử thương không bao giờ
lành nữa!
Vị quan già nua thoát hiểu, đứng bật dậy, những sợi tóc dựng ngược trên
đầu.
--Con nói sao? Satthuka ư? Tên đại tướng cướp ấy? Và tim con...?
--Phải! nàng Bhađda cứng cỏi đáp: Cha ôi! Sự sống của chàng chính là sự
sống của con. Cha phải cứu chàng. Đôi mắt của vị quan đại thần đại diện
như mê sảng giây lát, nhưng v́ thương con, trái tim ông xót xa rung động.
--Nhưng mà con ơi! Sáng mai y lên máy chém rồi, ta làm sao cứu được?
Cô gái thấy cha mềm ḷng, bèn ngồi dậy, đôi mắt xanh tươi cười, khẻ ôm
chiếc đầu bạc phếu của cha.
-- Cha yêu quư! Tiền bạc bước lọt dễ dàng vào các cửa đóng kín. Nó làm hữu
lư những cái ǵ phi lư, nó là vị quan ṭa vạn năng, tha tội tử h́nh dẫu đă
bị tuyên án. Thương con, cứu con, cha chỉ quẳng cho quỷ ăn một chút xíu
linh hồn thôi mà! Vị đại thần rưng giọt lệ, tự nghĩ: Dẫu có mất môt nửa
linh hồn để đánh đổi sự sống cho con th́ cũng nên lắm, huống hồ là một
chút xíu thôi.
Sau đó, ông lấy tiền bạc đút lót cho quan ngục, và lính áp giải, tên cướp
Satthuka được thả ra môt cách dễ dàng.
Bhađda trang điểm rực rở chói ngời bằng bảy loại ngọc nụ cười dịu hiền
như đóa hoa nở trong cuộc gặp gỡ lần đầu với Satthuka. Tên cướp như mê đi,
nhưng bảy loại ngọc trang điểm trên người nàng Bhađda lại càng làm cho y
mê hơn. Đôi mắt của Satthuka không rời đi đâu được nữa. Một mưu kế thâm
hiểm đă đến với hắn. Y nói :
--Bhađda nàng hởi! Vinh quang thay là những hạnh phúc bất ngờ nầy. Số mệnh
của anh từ nay do em an bày. Em là Thượng Đế chí tôn của anh. Nhưng trước
khi chung hưởng hạnh phúc, em hăy hứa khả cho anh được thỏa một ước nguyện
chưa tṛn.
--Hăy nói đi! Satthuka! Con sư tử lông vàng của em. Bhađda hởi ḷng dạ,
trái tim nàng như nở ra trong nụ hoa màu hồng thắm. Satthuka là tên cướp
vũ phu nhưng có học, y hiểu tất cả những điều ấy bèn nói xa xôi:
--Mỗi người có quyền có một tín ngưỡng, hay có quyền không có một tín
ngưỡng nào phải thế không, nàng Bhađda trí tuệ?
--Phải rồi Satthuka?
--Như vậy mỗi người vốn có một vùng đất thánh ở bên trong tâm hồn hay ở
ngoài tâm hồn. Cái đó là tự do thiêng liêng chứ, phải không Bhađda--con
mèo diễm lệ của anh!
--Chí lư thay! Satthuka.
--Cho nên dẫu là một tên cướp, nhưng cũng có một vùng đất thánh thiêng
liêng để tôn sùng và ngưỡng mộ. Vùng đất ấy ở phía tây Vương Xá Thành, mọi
người thường gọi là Ḥn núi của kẻ trộm, nhưng đây là nơi tôn thờ vị tổ sư
của các anh, vị tổ sư đạo tặc.
--Và sao nữa Satthuka?
--Trước khi bị bắt, anh có phát thệ như sau, kính lạy vị tổ sư chí thiêng
chí kính! Con đang lâm nạn, Ngài hăy cứu con, Ngài hăy dùng mọi oai lực
làm cho con thoát khỏi tử h́nh, con sẽ đến lễ tạ Ngài 100 con cừu, 100 dê,
cùng vàng bạc 10 mâm, Bhađda yêu quư! Nếu thương anh, nếu muốn cùng anh
chung hưởng hạnh phúc, em hăy giúp anh thỏa nguyện lời hứa thiêng liêng
ấy!
--Hăy thực hiện đi, Satthuka, lời hứa của anh chính là lời hứa của em.
Vàng bạc không phải là hạnh phúc. Cái mà vàng bạc đánh đổi mới là hạnh
phúc.
Sau khi triết lư ba hoa như vậy chàng cùng nàng mang lễ vật lên đường. Đến
chân Ḥn núi của kẻ trộm, Satthuka cho tôi tớ trở về, chỉ có chàng và nàng
leo lên đỉnh núi cao. Suốt cuộc hành tŕnh Satthuka chẳng có một lời thân
ái với nàng. Đôi mắt của Satthuka như dán chặt vào bảy loại ngọc mà nàng
trang điểm trên người. Cho dầu nàng mệt lă hoặc vấp té mà Satthuka vẫn
không nh́n thấy huống hồ là một lời vỗ về an ủi. Một thoáng nghi ngờ khởi
lên, Bhađda hỏi:
--Satthuka, tại sao chàng lại cho chúng về? Vậy ai là người giữ cừu dê và
vàng bạc?
Satthuka lầm ĺ không nói. Nàng đâu có hiểu rằng thủ hạ của y đă làm việc
ấy. Đến đỉnh, sát môt bờ vực Satthuka quay lại:
--Bhađda hăy cởi áo ra!
Vị tiểu thơ con quan đại thần mặt tái ngắt, nói không ra lời:
--Satthuka! Anh... Anh định làm ǵ?
--Làm ǵ nữa! Người ngọc tuy quư, nhưng không quư bằng bảy loại ngọc mà
người ngọc đang mang trên người. Đừng hỏi nữa! Hăy cởi áo ra và gói tất cả
đồ trang điểm ấy lại.
Đến đây th́ Bhađda không c̣n lư do ǵ mà không hiểu, nhưng nàng cũng hỏi
:
--Satthuka, em có lỗi ǵ với chàng? Phải chăng yêu chàng là một cái tội hở
Satthuka? Bảy loại ngọc nầy...
--Nàng tưởng ta mang bảy loại ngọc đó là để cúng dường vị tổ cướp thiêng
liêng ở núi nầy chăng? Thông minh như nàng mà cũng có lúc ngu si mù quáng
vậy thay; vị tổ sư tướng cướp thiêng liêng ấy chính là ta đây Ha, ha,
ha...
Bhađda với t́nh yêu chết ngắt trong ḷng: Sự thông minh bừng sáng nơi nàng
như mặt trời vừa ra khỏi hang thẳm tối tăm. Trấn tĩnh phi thường, nàng
nói:
--Vậy th́ Satthuka chàng hởi! Bảy loại ngọc nầy phần nào của chàng và phần
nào của em?
--Của ta hết.
Bhađda giả vờ nh́n Satthuka một cách đắm đuối ngây dại, rồi thở dài nói:
--Vậy th́ chàng hởi! Dẫu thế nào em cũng yêu chàng cho đến chết. Trước khi
vĩnh biệt anh hăy cho em thỏa một ước nguyện cuối cùng.
--Hăy nói đi--Tên cướp bực bội nói lớn: Hăy nói đi cô gái si t́nh ngu ngốc
kia. Nói rồi chết.
Bhađda cất giọng thản nhiên:
--Chàng hăy cho phép em hôn chàng với nguyên vẹn bảy loại ngọc trang điểm
trên người.
Satthuka cười nhạt:
--Thôi nhanh đi!
Thế là nàng thực hiện được mưu kế. Nàng ôm hôn Satthuka dẫu như ôm cục đá
cũng phải tỏ ra dịu dàng âu yếm. Nàng hôn mắt, hôn má, rồi lần lượt hôn
đến tai đến gáy, phía sau lưng. Dù là tên tướng cướp đă mất hết nhân tính,
nhưng sự vuốt ve ṿng tay thơm hương của người ngọc, cũng làm cho y ngây
ngất. Lợi dụng cơ hội hiếm có ấy, Bhađda dùng hết sức b́nh sanh đẩy tên
cướp xuống vực thẳm trước mặt. Satthuka biết ra th́ đă muộn rồi. Thân thể
to lớn của y băng băng rơi xuống và đập đầu vào đá, cây vọng lên như tiếng
núi và một hồi chẳng c̣n tăm hướng rồi đời một tên cướp.
Một vị thiên trên núi chứng kiến từ đầu đến cuối câu chuyện, cảm thán thốt
lên bài kệ :
Mưu kế tự mưu kế
Kẻ ác phải đền tội
Nhân quả lạnh lùng thay,
Biết chăng thế gian hỡi!
Nàng Bhađda thấy ḷng ḿnh nguội lạnh như đóng tro tàn. Nàng ngỏ: Vô vọng,
dối trá, và rỗng không thay là ḷng người--là t́nh yêu! Trái đắng và mật
đen đă quyện lên đầu lưỡi ta. Đời người vui ít, khổ nhiều. Từ rày, ta
không c̣n mặt mũi nào trở lại gia đ́nh nữa.
Từ núi cao, quên bẳng ngoại giới, nàng ch́m trong tư duy suốt mấy ngày
đêm. Từ núi cao, cuộc phản tĩnh kỳ lạ đă chuyển hướng cuộc đời nàng. B́nh
minh hôm kia, nàng đứng bật dậy như loài mănh sư sau giấc ngủ ngàn năm,
nàng quăng bỏ y trang ngọc ngà châu báu, khoác manh áo vải tầm thường t́m
thầy học đạo.
Đầu tiên nàng đến một nhóm khổ hạnh phái Ni Kiền Tử
--Hăy cho tôi xuất gia!
Chúng ṭ ṃ nh́n cô gái trẻ tuổi dáng dấp tiểu thư khuê các một hồi rồi
nói:
--Phép tu khó lắm, nữ nhân tay yếu chân mềm như nàng làm sao kham nổi cuộc
đời gió mưa khổ ải?
--Tôi kham nhẫn được.
--Đến mức độ nào?
--Vào hạng tối thượng!
Nhóm khổ hạnh sư thấy vẻ mặt đanh rắn, ẩn tiềm một nghị lực sắt thép của
nàng, bèn chấp thuận. V́ nàng xuất gia vào hàng tối thượng nên chúng đă
nhổ từng sợi tóc của nàng thay v́ cạo bằng nứa.
Y áo rách rưới, mặt mày chân tay đầy máu me và bùn đất; nàng bắt đầu học
hỏi giáo lư và thực hành Con đường thoát khổ với ư chí tối thượng. Tuy
thế, một thời gian sau không c̣n học hỏi ǵ ở đây được nữa, các bậc thầy
của chúng bất lực và bối rối trước những câu hỏi của nàng.
--Chẳng có ǵ đặc biệt - nàng nghĩ. Cái mớ giáo lư lẫn thực hành nầy chỉ
đưa đến rỗng không và hạ liệt, nó không rành rẽ cho kẻ trí, nó chỉ rành
cho kẻ ngu.
Từ đây nàng Bhađda lang thang từ xứ nầy đến xứ khác để t́m kiếm, tham vấn
các bậc minh sư. Nàng xuất hiện trước họ như những ǵ sâu sắc của trí tuệ,
nói thẳng vào những tối tăm và ngu dốt của giới Bà La Môn truyền thống và
kinh viện. Không ai tranh luận nổi với nàng. Có những đóng cát được nàng
vun lên rồi cắm ở đây một nhánh diêm phù đề (nhành dương liễu) trên lối
vào các thành. Đấy là dấu hiệu thách thức khiêu chiến, luận tranh của nàng
đối với thiên hạ đạo học.
Suốt một tuần như thế, nhánh diêm phù đề vẫn sừng sững ngạo mạn. Chẳng có
vị giáo chủ minh sư nào dám nhổ lên để chấp nhận cuộc luận chiến nầy.
--Ở đây không có người-nàng nghĩ-Ôi! Thiên hạ mênh mông nhưng đâu là bậc
thầy tối thượng, soi sáng con đường thoát khổ cho ta?
Thế rồi, Bhađda lại nhổ lên...đi phương khác, trên lối đi vào thị trấn,
làng mạc, xứ nầy, xứ kia, nhánh diêm phù đề của nàng vẫn nghiễm nhiên bất
khả xâm phạm.
Đă ngày tháng tuyết sương ṃn mỏi, hôm kia nàng đă du hành Xá Vệ. Đức Thế
Tôn lúc đó đang thuyết giảng tại tịnh xá Kỳ Hoàn, chúng đệ tử vây quanh.
Buổi sáng tôn giả Xá Lợi Phất đắp y mang bát đi vào cổng thành. Thấy nhánh
diêm phù đề trên đóng cát trên cao, Ngài dừng chân lại.
--Của ai thế? Ngài hỏi một người.
--Của nàng Bhađda, một khổ hạnh Ta Bà Ni Sư tối thượng.
-Người ta trả lời.
Tôn giả đưa mắt t́m kiếm, không bao xa dưới cội cây một Ta Bà nữ đang ngồi
kiết già, với gậy với bát bên chân, dung sắc phi phàm, cao ngạo lạnh lùng.
Có xứng đáng cho ta nhổ nhánh cây để tranh luận chăng? Ngài Xá Lợi Phất
thầm nghĩ-Nhưng mà được ǵ? Ích lợi ǵ? Giáo lư tối thượng nầy không phải
để luận chiến, đấu khẩu hơn thua tại các ngă ba đường, nơi chợ búa, nơi
đám đông. Giáo lư nầy, giáo lư vô dục, tịch tịnh chỉ để dành cho nhân
duyên, kẻ có tai, mắt và trí tuệ. Nghĩ xong, tôn giả bước đi. Những kẻ
hiếu sự xung quanh la lên :
--Đệ tử ông Thích Ca Đại Sa Môn thua rồi!
--Ta Bà Ni Sư khổ hạnh nghiễm nhiên vô địch
Vẫn không quay lại, Tôn giả Xá Lợi Phất cất giọng điềm đạm với đám đông:
Chưa có ai dám đánh bại ta về tư tưởng, kiến thức, trí tuệ...lẫn sở
chứng... cho dẫu là các bậc minh sư, giáo chủ...cho dẫu là vua quan, chư
thiên, Phạm thiên...huống hồ Ta bà Ni nầy. Trên trời dưới đất, duy nhất
chỉ có Đức Tôn Sư của ta là bực thầy ưu việt và tối thắng. nhưng thật rỗng
không và vô vị là những cuộc tranh luận, khẩu tranh, được danh và mất danh
nầy chỉ tự ta biết là ta thắng hay bại mà thôi.
Tôn giả dươn chân bước đi, nhưng Ngài phải dừng lại. Nàng Bhađda đă để ư
đến vị Sa Môn trẻ tuổi từ khi Ngài xuất hiện. Nàng nghĩ: Chẳng có ai mang
vẻ đẹp khác phàm và thanh thoát đến thế! Chàng Sa Môn trẻ tuổi nầy đă làm
cho ta bị nhiếp phục bởi dung mạo, dáng đi, cử chỉ. Lại càng bị nhiếp phục
hơn bởi thái độ và ngôn ngữ. Vậy th́ người nầy, đấng nầy phải có một trí
tuệ phi thường?
--Đứng lại, ông Sa Môn! Nàng nói-Nếu ông không tự ư nhổ nhánh diêm phù đề
luận chiến th́ tự ta thách thức một cuộc luận chiến vậy.
--Để làm ǵ hởi Ta Bà Ni Sư?
Bhađda cất giọng như tiếng vua loài chim giữa núi cao:
--Này chàng Sa Môn đáng kính trọng, ta khao khát tri thức và hiểu biết,
lại càng khao khát hơn là những tri thức và hiểu biết dẫn đến tịch lặng và
chân phúc. Nhưng đă ṃn trán, ta bà khắp thế gian, chưa ai cho ta một câu
trả lời đúng đắn, hoàn hảo, chỉ là những tri thức phù phiếm rỗng không dẫn
đến ngu độn và hạ liệt. Ở nơi tôn giả, ta thấy toát ra cái ǵ khác thế,
biết đâu đó là hào quang trí tuệ thượng đẳng? Ta cần biết, vậy hăy luận
tranh cùng ta, Tôn giả Xá Lợi Phất tự nghĩ: Nghe nói rằng tri thức cùng lư
luận của nàng như lưỡi dao sắc nhọn đi đến xứ nầy xứ khác như chỗ không
người. Đức Thế Tôn đă giáng thế, khi mặt trời vừa lên, không c̣n ai mà cầm
đèn đi giữa ban ngày. Vậy hăy nhiếp phục nàng. Đặt nàng vào chánh đạo. Đặt
nàng vào quy giới. Đấy cũng là lợi ích cho nàng, tăng trưởng đức tin cho
tứ chúng và thắp lên ngọn đuốc trí tuệ của giáo pháp thù thắng vô địch.
Thế là tôn giả Xá Lợi Phất cho nhổ nhánh diêm phù đề, bá cáo một cuộc
tranh luận sẽ khởi vào buổi chiều.
Nàng Bhađda nghĩ rằng cuộc luận chiến sẽ không mang lại kết quả nếu như
không có sự tham dự đông đủ của Sa Môn, Bà La Môn, các tầng lớp gia chủ,
trưởng giả cùng quần chúng hâm mộ. Vă chăng đại danh đệ tử trưởng của Phật
cùng với lời đồn đăi về Ta Bà Ni Sư khổ hạnh đủ để tạo một cơn lốc hiếu kỳ
rầm rộ.
Với đại y ngang vai, tôn giả Xá Lợi Phất xuất hiện giữa đám đông như ngôi
sao rực rỡ, vàng chói, khuôn mặt b́nh an, tự tin đến độ làm cho nàng
Bhađda phải rung động.
Lần đầu tiên nàng cảm thấy sợ hăi trước một đối thủ trẻ tuổi. Tuy thế
nàng đă trấn tĩnh kịp thời, lấy lại bản lảnh để đi vào cuộc tranh luận có
mộtkhông hai nầy.
--Thưa tôn giả, nàng nói--Trước tiên tôi xin được hỏi cuộc tranh luận nầy
lập ngôn ở đâu? Lập ư ở đâu? Lập nghĩa ở đâu? Xin Ngài cho biết?
Chỉ một câu hỏi mở đầu, đám đông quần chúng đă nín thở, hồi hợp. Chỉ một
câu hỏi người ta đă tiên liệu cuộc đụng độ sẽ hào hứng cho tri thức và
luận lư dường bao. Chàng Sa Môn kia quá trẻ tuổi, quá non nớt, sợ rằng chỉ
một câu nầy thôi chàng sẽ xin rút lui, đầu hàng vô điều kiện.
Nhưng ḱa. Khuôn mặt vị Sa Môn vẫn b́nh an tự tại và dường như trên môi có
thoáng nụ cười.
--Này Ni Sư khổ hạnh -Tôn giả Xá Lợi Phất chậm răi đáp--Bần đạo xin được
trả lời.
--Ngôn lập tại ư, ư lập tại nghĩa, nghĩa lập tại ngôn. Nó tương quan,
lập, duyên khởi lập. Cái nầy sanh th́ cái kia sanh, cái nầy diệt, th́ cái
kia diệt, thưa bà.
Ồ! Mọi người chợt reo lên một tiếng thoải mái, bởi câu hỏi dường như
kiêu kỳ, tối tăm, khó hiểu. Câu trả lời không những chính xác mà làm cho
câu hỏi trở nên sáng nghĩa hơn. Nàng Bhađda giật thót ḿnh, nàng không
thấy một khe hở nào, dầu chỉ bằng sợi tóc để đả phá nó. Tuy thế, sẽ tung
ra những câu hỏi hóc búa, không có đường mà đón đở, nàng nghĩ:
--Tôn giả đă đáp rất tuyệt vời--nàng nói--Vậy giờ xin được hỏi :
--Tôi đang hân hạnh nói chuyện với ai đây? Đó là câu hỏi thứ hai.
--Câu hỏi này đáng lư bần đạo không trả lời--Ngài Xá Lợi Phất nói--v́
nó thuộc lư luận, phù phiếm luận, không đưa đến yếm ly giác ngộ thắng trí,
niết bàn. Nhưng Ta Bà Ni Sư đă hỏi, bần đạo sẽ trả lời cho tuyệt bặt mọi
tư duy tương tự, làm cho rỗng không mọi tri thức xa rời mục đích thực tế
của Sa Môn hạnh. Mọi câu hỏi đi sau cũng thế. Nàng Bhađda! Bây giờ bần đạo
xin được vào câu trả lời. Người ta gọi bần đạo là Xá Lợi Phất! Hăy nghe
cho kỹ đây! Giáo pháp của đức Thế Tôn soi rọi cái rỗng không của các pháp,
dẫu tâm hay vật, làm cho vô tự tính mọi thực tại tính, làm cho vô ngă tính
mọi hữu tồn dẫu là Atman, Brahman hay đại ngă. Hăy nghe cho kỹ đây!
Giáo lư ấy không trườn uốn như con lươn, không chẻ sợi tóc làm tư, không
sợ kẹt trên ngôn ngữ rằng đây là thường kia là đoạn, giáo lư ấy dành cho
người tu chứng, kẻ có trí nghe ắt hiểu. Hăy nghe cho kỹ đây! Không những
là Xá Lợi Phất, cái tên gọi giả danh nhằm chỉ vào cái thực. Nhưng mọi cái
thực ấy, dẫu là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức phải được nh́n cho rơ ràng
bằng trí tuệ như thực, như chơn là nó không phải ta, không phải là ta,
không phải của ta, không phải tự ngă của ta. Này nàng Bhađda! Câu hỏi của
nàng thuộc lư luận rỗng không phù phiếm, câu trả lời của bần đạo đă đặt
chúng trên thực tế, chánh đạo, hăy nghe và hăy thọ tŕ.
--Chưa ai dám tự tin như thế Nàng Bhađda thầm nghĩ. Người nầy đă có sẵn
những cái kết luận ở đâu đó, như từ một kho tàng, bây giờ chỉ việc đưa ra,
không cần dựa theo một suy luận nào đó của sở tri. Tuy thế mọi khe hở đều
được bịt kín. Y có tu chứng của ḿnh. Vậy th́ ta sẽ hỏi ngay nơi cái thực
ấy.
--Này ông Sa Môn! Câu trả lời của ông chẳng phải xa lạ ǵ. Ta đă từng
nghe những con vẹt cũng đă hót lên như thế, chỉ có điều ông tự tin và vững
chăi hơn, do ông có cái thực ở nơi sự tu chứng của ḿnh. Hăy nghe đây! Bây
giờ ta sẽ hỏi ngay chính nơi cái thực ấy. Hy vọng rằng ông không trườn uốn
như kiểu là không phải ta, không phải của ta. Hy vọng rằng ông trả lời
khác, giản dị và uyên áo hơn. Hăy nghe đây! Đây là câu hỏi thứ ba. Cái
thực ấy c̣n bị định luật nhân quả chi phối hay không, c̣n bị định luật
nhân quả chi phối? Hăy trả lời ngay đi. Hăy trả lời mà đừng hủy hoại ngôn
ngữ, như dao chém nước.
--Này nàng Bhađda!--Tôn giả Xá lợi Phất vẫn kiên định như phong thái
của con mảnh sư-- chẳng cần phải lớn lối như thế. Hăy nghe đây, nếu cái
thực ấy mà c̣n định luật nhân quả chi phối th́ cái thực ấy chỉ là khổ đau,
nhiệt năo, tử sanh. Nếu cái thực ấy không c̣n bị định luật nhân quả chi
phối th́ đồng nghĩa với hư vô, cái không thực hữu, cái vô tự tính, cái
ngoang không niết bàn.
Này nàng Bhađda, hăy nghe đây! Đây là cái dao chém nước như nàng muốn.
Cái thực ấy là cái sáng suốt, mặt trời đại huệ. Cái thấy từ tâm, trí, tư
tưởng trí mà có, từ tuệ, tuệ minh, cái tuệ minh ấy nó có trong tâm của bậc
giác ngộ, bậc A La Hán, kẻ đă đoạn tận lậu, hoặc giải thoát khổ đau và
phiền năo; này nàng Bhađda cứ như thế mà thọ tŕ!
--Chưa thể thọ tŕ được--Ta Bà Ni chợt hét lên như con thú bị tử
thương--Ta chưa chấp nhận điều ấy, hởi ông Sa Môn đại ngôn kia. Hăy nghe
đây! Đây không phải là câu hỏi thứ tư mà đây chỉ là phản vấn. Ông nói rằng
có một cái tuệ minh, xin lỗi tôi có lầm chăng, một cái tuệ minh? Vậy th́
giáo lư vô ngă, vô tự tính của Đức Tôn Sư của ông sẽ không c̣n chỗ đứng,
bất khả lập, bất khả thuyết, và nó đă mâu thuẫn tự tiền căn? Vậy phải trả
lời làm sao cho kẻ học nữ Ta Bà khổ hạnh nầy: một giáo thuyết thường kiến
vậy kia?
--Hăy b́nh tĩnh! Hăy b́nh tĩnh! Này nàng Bhađda đừng tự buộc vào ḿnh
những thằng thúc! Đừng tự bịt mắt trước ngọn đèn sáng suốt tự tâm. Hăy
nghe đây! Cho bần đạo hỏi một câu, với một câu thôi nàng sẽ tự giải quyết
cho chính ḿnh. Câu hỏi như thế nầy: Cáng của ngọn đèn trước mắt nó thường
hay nó đoạn.
--Chẳng phải thường--Nàng nghĩ--Thường sao được khi nó sinh diệt từng
giây từng khắc! Chẳng phải đoạn, đoạn sao được khi nó đang hiện hữu!
Thấy nàng Bhađda im lặng, tôn giả Xá Lợi Phất tung câu hỏi thứ hai :
--Này nàng Bhađda! đây là câu hỏi thứ hai nhằm gợi ư cho nàng để nàng
bước ra khỏi cái lẩn quẩn, loanh quanh của các luận lư Thường, đoạn, có,
không. Đây là câu hỏi: Thuở nàng 5 tuổi, nàng thấy một bông hoa. Thuở 30
tuổi nàng thấy một bông hoa. Nàng có thay đổi cái hoa dẫu có khác, quan
niệm đẹp xấu dẫu có khác, nhưng cái thấy của nàng có thay đổi không?
--Không thể thay đổi, thưa tôn giả.
-Nó chẳng phải là thường không?
--Bất khả thuyết--Nàng Bhađda buộc miệng trả lời như vậy rối tự nghĩ:
Ta đă tự trói ḿnh, vậy th́ hăy vùng vẫy khi c̣n vùng vẫy được. Gă Sa Môn
nầy đă bủa vây ta bằng một chiếc lưới quá kiên cố và quá chặt chẻ. Nhưng
dễ ǵ ta chịu hạ phong.
--Khá lắm, này ông Sa Môn hăy nghe đây! Ta sẽ chịu dừng với ông chung
một vùng đất. Mặt đối mặt để trổ tài sở tri Ta tạm thời chấp nhận cái
thuyết tuệ minh ấy, nhưng ta muốn hiểu cái sở tri về bậc A La Hán ở nhiều
phươngdiện khác nhau. Vị ấy làm thế nào bước ra khỏi gịng bộc lưu sanh
tử.
--Bước tới là lăn trôi. Dừng lại là ch́m đắm. Bậc A La Hán không bước
tới, không dừng lại, vị ấy ra khỏi gịng bộc lưu sanh tử! Này nàng Bhađda
cái đáp số ấy thậm thâm vi diệu, vi tế, vượt ngữ ngôn, vượt suy luận, dành
cho kẻ trí, kẻ thâm đại pháp, dành cho kẻ tu chứng. Có lên đường ai ăn mới
biết no, chứ không phải để cho nàng-kẻ ngoại giáo, kẻ đứng ngoài cuộc, kẻ
với tri thức thuần túy-muốn dùng cái hiểu biết nông cạn, cái tự ngă kiêu
căng và đa dục của ḿnh, để nắm bắt cái siêu việt không thời gian, cái bất
tử, cái chân phúc, cái niết bàn vô dục và tịch tịnh. Này nàng Bhađda!
Này nàng Bhađda! Nàng có kham nhẫn tịch lặng để lắng nghe những lời như
vậy không?
Ta Bà Ni Sư tức giận đến tím mặt, run lẩy bẩy, những lời những chữ kia
như lưỡi kiếm tàn bạo đục khoét vào tim cật nàng. Tuy thế, với trấn tĩnh
phi thường, nàng mĩm cười:
--Chớ có nương tay, thưa tôn giả--Nàng nói--Tạm thời ta chấp thuận rằng
điều đó là có thực, nhưng điều đó thuộc vùng đất khác, tư duy khác, quan
niệm khác, ta không biết lấy ǵ kiểm chứng. Bây giờ tôn giả có dám bước
qua vùng đất của tôi, thuộc giáo lư khác, để đi cho cùng tận chân trời sở
tri?
--Dám lắm--Ngài Xá Lợi Phất b́nh tĩnh trả lời--Là đệ tử của Đức Tôn Sư
vô năng thắng, ta sẵn sàng luận tranh, không khoan nhượng bất cứ một giáo
pháp nào trong thiên hạ. Im lặng th́ im lặng như chánh pháp, nói năng th́
nói năng như chánh pháp. Đây là chân ngôn của các đệ tử Đức Tôn Sư.
Thế là nàng Bhađda bắt đầu hỏi, Ngài Xá Lợi Phất tuần tự trả lời. Đầu
tiên nàng mang ra ba tập Phệ Đà, đặt những câu hỏi thuộc lănh vực tri thức
thuần túy. Từ chương kinh viện, truyền thống, ngay cả danh nghĩa lễ nghi,
giữ nguyên chú giải ngữ pháp, văn phạm, lịch sử. Người hỏi đă chứng tỏ một
tri thức quăng bác thâm sâu. Người trả lời lại càng chứng tỏ thông hội vấn
đề một cách minh bạch. Những điều thuận thế luận, đại nhân tướng, chiêm
tinh, thiên văn, địa lư, bùa chú. Ngài Xá Lợi Phất lại càng chứng tỏ cho
nàng Bhađda Thấy rơ sự nghèo nàn, hời hợt nông cạn, thô thiển của ḿnh.
Ngài không những hiểu qua danh lư mà c̣n là nhà bác học về chúng đến
cội nguồn. Hơn nữa điều quan trọng và đáng nói hơn, Ngài đă quẳng chúng mà
đi như quẳng một mớ giẻ rách... Từng vấn đề, từng vấn đề... từng lúc, từng
tế nhị, khó nắm bắt và khó lănh hội. Nó đi từ gần đến xa, xa đến vô tận.
Từ vô tận nó trở về và nhỏ lại như vi trần như mảnh lau vi trần, hư không,
tư tưởng tâm niệm, sát na...
Thính chúng bàng hoàng, ngơ ngẩn nàng Bhađda bàng hoàng ngẩn ngơ. Nàng
không biết hỏi ǵ nữa. Nàng không c̣n nh́n thấy một đốm lửa nào nữa khi
mặt trời kia đă chói lọi. Nàng đă hoàn toàn bị nhiếp phục.
Tôn giả Xá Lợi Phất với thiên nhản, Tha tâm thông, thấy rơ tâm địa
nàng, đưa ra một câu hỏi kết thúc. Một câu hỏi vứt bỏ sở tri để dẫn nàng
về với giáo lư thiết thực hiện tại.
--Bây giờ tới phiên ta hỏi, này nàng Ta Bà Ni Sư khổ hạnh : Thế nào gọi
là Một?
Thời gian lặng lẻ trôi qua khi câu hỏi được đặt xuống. Quần chúng nín
hơi, nghẹt thở. Vừng trán nàng Bhađda từng hạt mồ hôi to bằng hạt bắp
không ngớt tuôn ra. Mái tóc lún phún đă bắt đầu điểm bạc. Một triệu kiếp
tư duy cũng không trả lời được câu hỏi tầm thường, giản dị kia. Chỉ với
một câu hỏi mà nàng Bhađda của chúng ta đă già đi ngàn năm.
--Này nàng Bhađda! Nàng hỏi ta một câu, mười câu, trăm câu, ta đă trả
lời nàng đầy đủ cả chặng đầu, chăng giữa,chặng cuối, thế mà ta chỉ hỏi một
câu, nàng cũng không trả lời ta Một là ǵ? Một là thế nào? Mà nàng cũng
không hiểu, không biết. Thế mà nàng lại đ̣i biết cho kỳ được cổ kim thiên
hạ sự, đ̣i hiểu cho hết chuyện trên trời dưới đất. Kinh như núi, chữ như
rừng... thế đấy! Là trí tuệ của người đi cắm nhánh diêm phù đề khắp cả
thiên hạ.
Như thân cây bị chặt đứt, nàng Bhađda chợt phủ phục xuống bên chân bậc
trí tuệ bậc nhất.
--Kính lạy tôn giả con chịu thôi, không một câu hỏi nào mà con dám trả
lời nữa. Với một tự ngă kênh kiệu vô tư, con đă đi đánh trống khắp cửa mọi
nhà, để bây giờ biết rằng đất trời vô lượng. Tôn giả đă kham nhẫn, từ bi
soi sáng cho con, chỉ đường cho con, đem đèn vào trong bóng tối để ai có
mắt có thể nh́n thấy sắc. Cũng vậy, xin Ngài xá tội cống cao ngă mạn của
con, cho con trọn đời quy ngưỡng.
Nàng Bhađda phủ phục năm vóc sát đất. Quần chúng reo ḥ. Chư thiên hoan
hỷ. Ngài Xá Lợi Phất chợt đứng cao 10 tầm thốt nốt, tḥ tay đụng mặt trời,
mặt trăng, cất giọng phạm âm với tâm tuyệt hảo:
--Này hởi Bhađda! mừng thay cho nàng vứt bỏ được sở tri và tự ngă, mừng
thay cho nàng thức tĩnh sau đêm trường mộng, hé mở con mắt pháp để thấy rơ
giáo lư vô dục thực tiển, thậm thâm, có khả năng làm yên lặng khổ đau,
phiền năo. Hăy hướng đến Đức Tôn Sư của ta cùng tăng chúng thánh hạnh.Bậc
cao cả đang ở tại tịnh xá Kỳ Hoàn. Nàng hăy đến nghe pháp rồi quy y với
Ngài.
Sau đó nàng Bhađda đến kỳ viên đảnh lễ Đức Phật rồi ngồi nép một bên
phải lẻ. Thấy căn cơ nàng đă thuần thục, Đức Thế Tôn chỉ nói vắn tắt một
kệ:
Dầu nói ngàn câu kệ,
Nhưng không chút lợi ích
Tốt hơn nói một câu
Nghe xong được tịnh lạc.
Và tức khắc, ngay sát na ấy, nàng Bhađda đă chứng quả A La Hán với pháp
Tín Thọ, nghĩa là tín thọ.
Đức Thế Tôn tự thân trao đại giới cho nàng.Nàng Bhađda được biết là vị
tỳ kheo A La Hán im lặng, thiền duyệt và đi ta bà cả khắp quốc độ.
---o0o---
Mục
Lục
Phần 1:
Chương 1 |
2 | 3 | 4 |
5
Phần 2:
Chương 1 |
2 | 3
|
Kết luận &
phụ trang
---o0o---