Evamme sutaṃ.: ekaṃ samayaṃ bhagavà vesàliyaṃ viharati mahàvane kūṭāgàrasàlayaṃ. Tena kho pana yamayena bhagavà pubbanhasamayaṃ nivàsetvà pattacãvaraṃ àdàya vesàliṃ piṇḍàya pavisitukàmo hoti. Atha kho saccako nigaṇḍhaputto jaṅghàvihàraṃ anucaṅkamamàno anuvicaramàno yena mahàvanaṃ kūṭàgarasàlà tenupasaṅkami. Addasà kho àyasmà ànando saccakaṃ niganthaputtaṃ dūratova àgacchantaṃ. Disvàna bhagavantaṃ etadavoca: " ayaṃ bhante saccako niganthaputto àgacchati bhassappavàdiko piṇḍitavàdo sàdhusammato bahujanassa. Eso kho bhante avaṇṇakàmo buddhassa, avaṇṇakàmo dhammassa, avaṇṇakàmo saṅghassa. Sàdhu bhante bhagavà muhuttaṃ nisīdatu anukampaṃ upàdàyà"ti
 

 

.

Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn ở tại Vesali, rừng Ðại Lâm, tại giảng đường Trùng Các.
Lúc bấy giờ, Thế Tôn đắp y thật đầy đủ, cầm y bát, muốn vào Vesali để khất thực. Rồi Niganthaputta Saccaka tánh hay ngao du thiên hạ, trong khi đi khắp đó đây, đến tại Ðại Lâm, giảng đường Trùng Các. Tôn giả Ananda thấy Niganthaputta Saccaka từ xa đi lại, liền bạch Thế Tôn:
Bạch Thế Tôn, Niganthaputta Saccaka đang đến, tánh ưa luận chiến, biện luận thiện xảo, được số đông tôn kính. Bạch Thế Tôn, vị này ưa chỉ trích Phật, ưa chỉ trích Pháp, ưa chỉ trích Tăng. Bạch Thế Tôn, tốt lành thay nếu Thế Tôn vì lòng từ mẫn ngồi lại một lát.

 

I heard thus. At one time the Blessed One lived in the gabled hall in the Great forest in Vesàli. One day the Blessed One put on robes in the morning and taking bowl and robes was about to leave for the alms round. Then Saccaka the son of Nigan. tha walking and wandering for exercise approached the Great forest and the gabled hall. Venerable ânanda saw Saccaka the son of Nigan. tha coming in the distance and told the Blessed One: I see Saccaka the son of Nigan. tha coming in the distance. He is a clever disputant, considered wise and welcomed by many. Venerable sir, he desires to run down the Enlightened One, the Teaching and the Community of bhikkhus. Good if the Blessed One would sit a moment out of compassion.

 

Nisãdi bhagavà paññatte àsane. Atha kho saccako niganthaputto yena bhagavà tenupasaïkami. Upasaïkamitvà bhagavatà saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sàràrānīyaṃ vãtisàretvà ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho saccako niganthaputto bhagavantaṃ etadavoca: Santi bho gotama eke samaṇabràhmaṇā kàyabhàvanànuyogamanuyuttà viharanti. No cittabhàvanaṃ. Phusanti hi te bho gotama sàrãrikaṃ dukkhaṃ vedanaṃ. Bhūtapubbaṃ bho gotama sàrãrikàya dukkhàya vedanàya puṭṭhassa sato ūrukkhambhopi nàma bhavissati. Hadayampi nàma phàlissati, uṇhampi lohitaṃ mukhato uggamissati, ummàdampi pàpuṇissati cittakkhepaṃ. Tassa kho etaṃ bho gotama kàyanvayaṃ cittaṃ hoti, kàyassa vasena vattati. Taṃ kissa hetu? abhàvitattà cittassa. Santi pana bho gotama eke samaṇabràhm ṇà cittabhàvanànuyogamanuyuttà viharanti, no kàyabhàvanaṃ. Phusanti hi te bho gotama cetasikaṃ dukkhaṃ vedanaṃ. Bhūtapubbaṃ bho gotama cetasikàya dukkhàya vedanàya phuṭṭhassa sato ūrukkhambhopi nàma bhavissati, hadayampi nàma phàlissati, uṇhampi lohitaṃ mukhato uggamissati, ummàdampi pàpuṇissati cittakkhepaṃ.Tassa kho eso bho gotama cittanvayo kàyo hoti, cittassa vasena vattati. Taü kissa hetu? Abhàvitattà kàyassa. Tassa mayhaṃbho gotama evaṃ hoti: addhà bhoto gotamassa sàvakà cittabhà vanànuyogamanuyuttà viharanti, no kàyabhàvananti
 

 

.

Thế Tôn ngồi xuống trên chỗ ngồi đã soạn sẵn. Rồi Niganthaputta Saccaka đi đến chỗ Thế Tôn ở, nói lên những lời hỏi thăm, chúc tụng, xã giao với Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Sau khi ngồi xuống một bên, Niganthaputta Saccaka nói với Thế Tôn:
-- Tôn giả Gotama, có một số Sa-môn, Bà-la-môn sống chuyên lo tu tập về thân, không tu tập về tâm. Tôn giả Gotama, những vị này cảm khổ thọ về thân. Sự tình này đã xảy ra, này Tôn giả Gotama, do cảm khổ về thân, chân sẽ bị tê liệt, quả tim có thể tức bể, máu nóng có thể trào ra từ miệng, có thể bị điên cuồng loạn tâm. Tôn giả Gotama, sự tình này xảy ra đối với người mà tâm tùy thuộc thân, khi tâm chịu sự điều khiển của thân. Vì sao vậy? Vì tâm không được tu tập. Tôn giả Gotama, nhưng có một số Sa-môn, Bà-la-môn, sống chuyên lo tu tập về tâm, không tu tập về thân. Tôn giả Gotama, những vị này cảm khổ thọ về tâm. Sự tình này đã xảy ra, này Tôn giả Gotama; do cảm khổ thọ về tâm, chân sẽ bị tê liệt, quả tim có thể tức bể, máu có thể trào ra từ miệng, có thể bị điên cuồng loạn tâm. Tôn giả Gotama, sự tình này xảy ra đối với người mà thân tùy thuộc tâm, khi thân chịu sự điều khiển của tâm. Vì sao vậy? Vì thân không được tu tập. Này Tôn giả Gotama, rồi tôi suy nghĩ: "Thật sự, Thanh văn đệ tử của Tôn giả Gotama sống chuyên lo tu tập về tâm không tu tập về thân?"

 

The Blessed One sat on the prepared seat. Then Saccaka the son of Nigan. tha approached the Blessed One, exchanged friendly greetings, sat on a side and said thus:. Good Gotama, there are certain recluses and brahmins yoked to the development of the body and not the development of the mind. They experience bodily unpleasant feelings It happened that, to some who experienced these bodily unpleasant feelings even paralysis set in and even their hearts split and they vomited hot blood and sometimes their minds were deranged. Good Gotama, they have a mind, led by the body and over powered by the body. Why is that? Because the mind is not developed. Good Gotama, there are certain recluses and brahmins yoked to the development of the mind and not the development of the body. They experience mental unpleasant feelings. It happened that to some who experienced these mental unpleasant feelings, even paralysis set in and even their hearts split and they vomited hot blood and sometimes their minds were deranged. Good Gotama, they have a body led by the mind and over powered by the mind. Why is that? Because the body is not developed. It occurs to me, that the disciples of good Gotama abide yoked to the development of the mind and not the development of the body.

 

Kinti pana te aggivessana kàyabhàvanà sutàti? "Seyyathīdaṃ: nando vaccho, kiso saṅkicco makkhali gosàlo - ete hi bho gotama acelakà muttàcàrà hatthàpalekhanà, na ehi bhadantikà, na tiṭṭha bhadantikà, na abhihaṭaṃ na uddissakaṭaṃ na nimantaṇaṃ sàdiyanti. Te na kumbhimukhà patigaṇhanti, na kaḷopimukhà patigaṇhanti, na eḷakamantaraṃ, na daṇḍamantaraṃ, na musalamantaraṃ, na dvinnaṃ bhuñjamànànaṃ, na gabbhiniyà, na pàyamànàya, na purisantaragatàya, na saïkittīsu, na yattha sà upaṭṭhito hoti, na yattha makkhikà saṇḍacàrinã, na macchaṃ, na maṃsaṃ. Na suraṃ na merayaṃ na thusodakaṃ pivanti. Te ekàgàrikà và honti ekàlopikà, dvàgàrikà và honti dvàlopikà, sattàgàrikà và honti sattàlopikà. Ekissàpi dattiyà yàpenti, dvãhipi dattīhi yàpenti, sattahipi dantīhi yàpenti. Ekàhikampi àhàraṃ àhàrenti, dvãhikampi àhàraṃ àhàrenti, sattàhikampi àhàraṃ àhàrenti. Iti evarūpaṃ addhamāsikaṃ pi pariyāyabhattabhojanānuyogam-anuyuttā viharatīti
 

 

.

-- Này Aggivessana, Ông nghe tu tập về thân như thế nào? -- Như Nanda Vaccha, Kisa Sankicca, Makkhàli Gosàla, những vị này, này Tôn giả Gotama, sống lõa thể, sống phóng túng không theo lễ nghi, liếm tay cho sạch, đi khất thực không chịu bước tới, không nhận đồ ăn mang đến, không nhận đồ ăn đặc biệt nấu cho mình, không nhận mời đi ăn, không nhận đồ ăn từ nồi chảo, không nhận đồ ăn tại ngưỡng cửa, không nhận đồ ăn đặt giữa những cây gậy, không nhận đồ ăn đặt giữa những cối giã gạo, không nhận đồ ăn từ hai người, không nhận đồ ăn từ người đàn bà có thai, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang cho con bú, không nhận đồ ăn từ người đàn bà đang giao cấu, không nhận đồ ăn tại chỗ có chó đứng, không nhận đồ ăn tại chỗ ruồi bu, không ăn cá thịt, không uống rượu nấu, rượu men, cháo trấu. Những vị ấy chỉ nhận ăn tại một nhà, chỉ nhận ăn một miếng, hay vị ấy chỉ nhận tại hai nhà, chỉ nhận ăn hai miếng, hay vị ấy chỉ nhận ăn tại bảy nhà, vị ấy chỉ nhận ăn bảy miếng. Vị ấy nuôi sống chỉ với một bát, nuôi sống chỉ với hai bát, nuôi sống chỉ với bảy bát. Vị ấy chỉ ăn một ngày một bữa, hai ngày một bữa, bảy ngày một bữa. Như vậy các vị ấy sống theo hạnh tiết chế ăn uống cho đến nửa tháng mới ăn một lần.

 

Aggivessana, what have you heard about the development of the body. Good Gotama, Nanda Vaccha, Kisa Sankicca, and Makkhali Gosàla, go without clothes, without manners lick their hands. They do not accept an invitation, nor extend an invitation. Do not accept what is brought, or what is specially prepared. Do not accept from the rim of a pot or the rim of a cooking vessel, or when a goat is about the place. Do not accept across a stick or broom. Do not accept from two partaking food, from a woman bearing child, from a woman giving suck, from a woman gone with a man, from a defiled woman, or from where she is supported. Do not accept from a place where flies abound. Do not accept fish or meat, or intoxicating drinks or brewed drinks. They support themselves in one house, on one morsel, in two houses on two morsels, ----or in seven houses on seven morsels. Or they are supported on what is given by one woman, two women, ---- or even seven women. Or are supported on what is brought by one man, two men, --- or seven men. They are yoked to this method of partaking food for half a month-

 

Kiṃ pana te aggivessana tàvatakeneva yàpentīti?
"No hidaṃ bho gotama. Appekadà bho gotama uḷàràni uëàràni khàdanãyàni khàdanti. Uḷàràni uḷàràni bhojanãyàni bhuñjanti. Uḷàràni uḷàràni sàyaniyàni sàyanti. Uḷàràni uḷàràni pànàni pivanti. Te imaṃ kàyaṃ gàhenti nàma, brūhenti nàma, medenti nàmà"ti.
Yaṃ kho te aggivessana purimaṃü pahàya pacchà upacinanti, evaṃü imassa kàyassa àcayàpacayo hoti.
. Kinti pana te aggivessana cittabhàvanà sutàti? Cittabhàvanàya kho saccako niganthaputto bhagavatà puṭṭho samàno na sampàyàsi.
 

 

.

-- Này Aggivessana, họ có thể tự nuôi sống với mức độ như vậy chăng?
-- Không phải vậy, này Tôn giả Gotama. Thỉnh thoảng, này Tôn giả Gotama, họ ăn những món ăn thù thắng loại cứng, họ ăn những món ăn thù thắng loại mềm, họ nếm những vị ăn thù thắng, họ uống những đồ uống thù thắng. Họ nhờ các món ăn ấy gầy dựng thân lực, làm cho thân to lớn, làm cho thân béo mập.
-- Này Aggivessana, như vậy những gì ban đầu họ từ bỏ, về sau họ lại thọ dụng. Như vậy có tụ, có tán (có được, có mất) cho thân này. Này Aggivessana, Ông nghe tu tập về tâm như thế nào?
Niganthaputta Saccaka, được Thế Tôn hỏi tu tập về tâm, không có thể trả lời được.

 

What Aggivessana are they supported on that much only?
No good Gotama, on some days, they partake superior eatables and drinks and grow and develop their bodily powers.
Aggivessana, what they once give up, is taken up again, and there is increase and decrease to this body. Aggivessana, what have you heard about the development of the mind? When asked about the development of the mind, Aggivessana could not explain.

 

Atha kho bhagavà saccakaṃ kho tvaṃ niganthaputtaṃ etadavoca: yàpi kho te esà aggivessana purimà kàyabhàvanà bhàsità, sàpi ariyassa vinaye no dhammikà kàyabhàvanà. Kàyabhàvanaṃ hi1 aggivessana na aññàsi, kuto pana tvaṃ cittabhàvanaṃ jànissasi? Api ca aggivessana yathà abhàvitakàyo ca hoti abhàvitacitto ca, bhàvitakàyo ca bhàvitacitto ca, taṃ suṇàhi, sàdhukaṃ manasikarohi, bhàsissàmīti. Evaṃ bho'ti kho saccako paccassosi. Bhagavà etadavoca:niganthaputto bhagavato
Kathañca aggivessana abhàvitakàyo ca hoti abhàvitacitto ca?
Idha aggivessana assutavato puthujjanassa uppajjati sukhà vedanà. So sukhàya vedanàya phuṭṭho samàno sukhasàràgã ca hoti, sukhasàràgitañca àpajjati. Tassa sà sukhà vedanà nirujjhati. Sukhàya vedanàya nirodhà uppajjati dukkhà vedanà. So dukkhàya vedanàya phuṭṭho samàno socati kilamati paridevati urattàḷiṃ kandati, sammohaṃ àpajjati. Tassa kho esà aggivessana uppannàpi sukhà vedanà cittaṃ pariyàdàya tiṭṭhati abhàvitattà kàyassa. Uppannàpi dukkhà vedanà cittaṃ pariyàdàya tiṭṭhati abhàvitattà cittassa. Yassa kassaci aggivessana evaṃ ubhatopakkhaṃ uppannàpi sukhā vedanā cittaṃ pariyàdàya tiṭṭhati abhàvitattà cittassa, evaṃ kho aggivessana abhàvitakàyo ca hoti abhàvitacitto ca.
 

 

.

Rồi Thế Tôn nói với Niganthaputta Saccaka:
-- Này Aggivessana, thân tu tập mà Ông vừa mới nói đầu tiên ấy không phải là thân tu tập đúng pháp trong giới luật của bậc Thánh. Này Aggivessana, Ông còn không hiểu thân tu tập, làm sao Ông có thể hiểu tâm tu tập. Và này Aggivessana, như thế nào là thân không tu tập, tâm không tu tập; như thế nào là thân tu tập, tâm tu tập? Hãy nghe và khéo tác ý, Ta sẽ giảng.
-- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.
Niganthaputta Saccaka trả lời Thế Tôn. Thế Tôn thuyết giảng như sau:
-- Này Aggivessana, thế nào là thân không tu tập và thế nào là tâm không tu tập? Ở đây, này Aggivessana, kẻ vô văn phàm phu khởi lên lạc thọ. Người này được cảm giác lạc thọ, liền tham đắm lạc thọ và rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ. Người ấy, do cảm giác khổ thọ, nên sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh.
Này Aggivessana, lạc thọ ấy khởi lên cho người kia, chi phối tâm và an trú, do thân không tu tập. Khổ thọ ấy khởi lên chi phối tâm và an trú, do tâm không tu tập. Này Aggivessana, không luận người nào mà cả hai phương tiện đều có lạc thọ khởi lên, chi phối tâm và an trú, do thân không tu tập; khổ thọ khởi lên, chi phối tâm và an trú, do tâm không tu tập. Như vậy, này Aggivessana, người ấy là người có thân không tu tập và tâm không tu tập.

 

Then the Blessed One said to Saccaka the son of Nigan. tha, Aggivessana, what you earlier told as development of the body, is not the rightful development of the body in the dispensation of the noble ones. You do not know the development of the body, so from where could you know the development of the mind? Yet I will explain to you the undeveloped body and the undeveloped mind, the developed body and the developed mind. Attend carefully and listen. Saccaka the son of Nigan. tha agreed and the Blessed One said.
Aggivessana, how is the undeveloped body and the undeveloped mind. Here to a not learned ordinary man arises a pleasant feeling. Touched by that pleasant feeling he becomes greedy for pleasantness, then that pleasant feeling fades. With its fading arises unpleasant feelings. Touched by that unpleasant feeling he grieves, laments and beats his breast and comes to bewilderment of mind.
Aggivessana, to him, arisen pleasant feelings take hold of the mind completely and settle on account of the undeveloped body, and arisen unpleasant feelings take hold of the mind completely and settle on account of the undeveloped mind. Aggivessana, arisen pleasant feelings take hold of the mind completely and settle on account of the undeveloped body. Arisen unpleasant feelings take hold of the mind completely and settle on account of the undeveloped mind. This is the undeveloped body and the undeveloped mind. [1]

 

Kathañca aggivessana abhàvitakàyo ca hoti abhàvitacitto ca?
Idha aggivessana sutavato ariyasàvakassa uppajjati sukhà vedanà. So sukhàya vedanàya phuṭṭho samàno na sukhasàràgã ca hoti, na sukhasàràgitañca àpajjati. Tassa sà sukhà vedanà nirujjhati. Sukhàya vedanàya nirodhà uppajjati dukkhà vedanà. So dukkhàya vedanàya phuṭṭho samàno na socati na kilamati na paridevati na urattàḷiṃ kandati, na sammohaṃ àpajjati. Tassa kho esà aggivessana uppannàpi sukhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati bhàvitattà kàyassa. Uppannàpi dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati bhàvitattà cittassa. Yassa kassaci aggivessana evaṃ ubhatopakkhaṃ uppannàpi sukhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati bhàvitattà kàyassa, uppannàpi dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati bhàvitattà cittassa, evaṃ kho aggivessana bhàvitakàyo ca hoti bhàvitacitto càti.
 

 

.

Và này Aggivessana, thế nào là thân tu tập và tâm tu tập?
Ở đây, này Aggivessana, lạc thọ khởi lên cho vị Thánh đệ tử nghe nhiều. Vị này được cảm giác lạc thọ, nhưng không tham đắm lạc thọ, không rơi vào sự tham đắm lạc thọ. Nếu lạc thọ ấy bị diệt mất, do lạc thọ đoạn diệt, khởi lên khổ thọ, vị ấy cảm giác khổ thọ nhưng không sầu muộn, than van, khóc lóc, đập ngực, đưa đến bất tỉnh. Này Aggivessana, lạc thọ ấy khởi lên cho vị kia, không chi phối tâm và không an trú, do thân có tu tập; khổ thọ ấy khởi lên cho vị kia, không chi phối tâm và không an trú, do tâm có tu tập. Này Aggivessana, không luận người nào mà cả hai phương tiện đều có lạc thọ khởi lên, không chi phối tâm và không an trú, do thân có tu tập; khổ thọ khởi lên, không chi phối tâm và không an trú, do tâm có tu tập,

 

Aggivessana, how is the developed body and the developed mind?
Here, to the learned noble disciple arises a pleasant feeling, touched by that pleasant feeling does not become greedy for pleasantness. When that pleasant feeling fades unpleasant feelings arise. Touched by that unpleasant feeling he does not grieve, lament, and beat the breast and does not come to bewilderment of mind. Aggivessana, to him, arisen pleasant feelings do not take hold of the mind and settle on account of the developed body, and arisen unpleasant feelings do not take hold of the mind and settle on account of the developed mind. Aggivessana, to whomever arisen pleasant feelings do not take hold of the mind and settle on account of the developed body, and arisen unpleasant feelings do not take hold of the mind and settle on account of the developed mind. This is the developed body and the developed mind. [2]

 

Evaṃ pasanno ahaṃ bhoto gotamassa: bhavaṃ hi gotamo bhàvitakàyo ca bhàvitacitto cà"ti. Addhà kho te ayaṃ aggivessana àsajja upanãya vàcà bhàsità. Api ca te ahaṃ byàkarissàmi: yato kho ahaṃ aggivessana kesamassuṃ ohàretvà kàsàyàni vatthàni acchàdetvà agàrasmà anagàriyaṃ pabbajito, taṃ vata me uppannà và sukhā vedanā cittaṃ pariyādāya ṭhassati uppannā vā dukkhā vedanā cittaṃ pariyādāya ṭhassatīti n’etaṃ vijjatīti. " Na hanūna bhoto gotamassa uppajjati tathàrūpà sukhà vedanà yathàrūpà uppannà sukhà vedanà cittaṃ pariyàdàya tiṭheyedaya, na hanūna bhoto gotamassa uppajjati tathàrūpà dukkhà vedanà, yathàrūpà uppannà dukkhà vedanà cittaṃ pariyàdàya tiṭṭheyyāti”
 

 

.

-- Như vậy, tôi có lòng tin tưởng với Tôn giả Gotama. Tôn giả Gotama là vị có thân tu tập và có tâm tu tập.
-- Này Aggivessana, dầu cho lời nói của Ông có vẻ trịch thượng và khiêu khích, nhưng Ta sẽ trả lời cho Ông. Này Aggivessana, vì Ta đã cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình, lạc thọ thật sự khởi lên nơi Ta, chi phối tâm và an trú, hay khổ thọ thật sự khởi lên nơi Ta, chi phối tâm và an trú, sự tình như vậy không thể xảy ra.
-- Phải chăng, một lạc thọ không khởi lên nơi Tôn giả Gotama một cách khiến cho lạc thọ ấy không thể chi phối tâm và an trú, phải chăng một khổ thọ khởi lên nơi Tôn giả Gotama một cách khiến cho khổ thọ ấy không thể chi phối tâm và an trú?

 

I'm pleased, and sure that good Gotama is with developed body and developed mind. Indeed Aggivessana, you speak words close upon praise, yet I will tell you how, from the day I shaved head and beard, put on yellow clothes, left the household and became a homeless, how it was not possible that arisen pleasant feelings should take hold of my mind and settle, arisen unpleasant feelings should take hold of my mind and settle. Is it that such pleasant feelings do not arise to good Gotama to take hold of the mind and settle? Such unpleasant feelings do not arise, to take hold of the mind and settle?
Aggivessana, how could it not be?

 

Kiṃ hi no siyà aggivessana?
Idha me aggivessana pubbeva sambodhà anabhisambuddhassa bodhisattasseva sato etadahosi: sambàdho gharàvàso rajàpatho, abbhokàso pabbajjà. Nayidaṃ sukaraṃ agàraṃ ajjhàvasatà ekantaparipuṇṇaṃ ekantaparisuddhaṃ saṅkhalitkhitaṃ brhma cariyaṃ. carituṃ Yannūnàhaṃ kesamassuṃ ohàretvà kàsàyàni vatthàni acchàdetvà agàrasmà anagàriyaṃ pabbajeyyanti. So kho ahaṃ aggivessana aparena samayena daharova samàno susu kāḷakeso assumukhànaṃ rudantànaṃ kesamassuṃ ohàretvà kàsàyàni vatthàni acchàdetvà agàrasmà anagàriyaṃ pabbajiṃ.
 

 

.

-- Này Aggivessana, sao có thể không như vậy được? Ở đây, này Aggivessana, trước khi Ta giác ngộ, chưa chứng Chánh Ðẳng Giác, khi còn là Bồ-tát, Ta suy nghĩ như sau: "Ðời sống gia đình bị gò bó, con đường đầy những bụi đời. Ðời sống xuất gia như sống giữa hư không. Thật rất khó sống tại gia đình mà có thể sống hoàn toàn đầy đủ, hoàn toàn thanh tịnh đời sống phạm hạnh thuần tịnh. Hãy cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình".
Rồi này Aggivessana, sau một thời gian, khi Ta còn trẻ, niên thiếu, tóc đen nhánh, đầy đủ huyết khí của tuổi thanh xuân, trong thời vàng son cuộc đời, mặc dầu cha mẹ không bằng lòng, nước mắt đầy mặt, than khóc, Ta cạo bỏ râu tóc, đắp áo cà-sa, xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình.

 

Aggivessana, before my enlightenment, when I was not enlightened, yet a seeker of enlightenment, it occurred to me: The household life is full of troubles and defilements. It is not possible to lead the completely pure holy life while living in a household. What if I shaved head and beard, donned yellow clothes and went forth. Even in the prime of youth, with black hair, against the wish of mother and father, when they were crying with tearing eyes, I shaved head and beard, donned yellow robes leaving the household became homeless.

 

So evaṃ pabbajito samàno kiṅkusalagavesā anuttaraṃ pariyesamāno yena āḷāro kālāmo tenupasaṅkamiṃ Upasaṅkamitvà àḷàraṃ kàlàmaṃ etadavocaṃ: icchàmahaṃ àvuso kàlàma imasmiṃ dhammavinaye brahmacariyaṃ caritunti. Evaṃ vutte aggivessana àḷàro kàlàmo maṃ etadavoca: 'viharatàyasmà, tàdiso ayaṃ dhammo yattha viññū puriso nacirasseva sakaṃ àcariyakaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja vihareyyà'ti. So kho ahaṃ aggivessana nacirasse va khippameva taṃ dhammaṃ pariyàpuṇiṃ. So kho ahaṃ aggivessana tàvatakeneva oṭṭhapahatamattena lapitalàpanamattena ñàṇavàdañca vadàmi, theravàdañca. 'Jànàmi passàmi'ti ca pañijànàmi, ahañceva aññe ca.
. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: na kho àḷàro kàlàmo imaṃ dhammaṃ kevalaṃ saddhàmattakena sayaṃ abhiññā sacchikatvà upasampajja viharàmãti pavedeti. Addhà àḷàro kàlàmo imaṃ dhammaṃ jànaṃ passaṃ viharatīti. Ati khvàhaṃ aggivessana yena àḷàro kàlàmo tenupasaṅkamiṃ. Upasaṅkamitvà àḷàraṃ kàlàmaṃ etadavocaṃ: kittàvatà no àvuso kàlàma imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvà upasampajja pavedesãti? Evaṃ vutte aggivessana àḷàro kàlàmo àkiñcaññàyatanaṃ pavedesi:
. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: " na kho àḷàrasse va kàlàmassa atthi saddhà, mayhampatthi saddhà, na kho àḷàrasse va kàlàmassa atthi viriyaṃ, mayhampatthi viriyaṃ, na kho àḷàrasseva kàlàmassa atthi sati, mayhampatthi sati, na kho àḷàrasseva kàlàmassa atthi samàdhi, mayhampatthi samàdhi, na kho àḷàrasse va kàlàmassa atthi paññà, mayhampatthi paññà. Yannūnàhaṃ yaṃ dhammaṃ àḷàro kàlàmo sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharàmãti pavedeti, tassa dhammassa sacchikiriyàya padaheyyanti," so kho ahaṃ aggivessana na cirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja vihàsiṃ.
Atha khvàhaṃ aggivessana yena àḷàro kàlàmo tenupasaṅkamiṃ. Upasaṅkamitvà àḷàraṃ kàlàmaṃ etadavocaṃ: ettàvatà no àvuso kàlàma imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja pavedesīti. "Ettàvatà kho ahaṃ àvuso imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja pavedemã"ti. " Ahampi kho àvuso ettàvatà imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharàmī"ti.
"Làbhà no àvuso, suladdhaṃ no àvuso, ye mayaṃ àyasmantaṃ tàdisaṃsabrahmacàriṃ passàma: iti yàhaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja pavedemi, taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharasi. Yaṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvà upasampajja viharasi, tamahaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja pavedemi. Iti yàhaṃdhammaṃ jànàmi, taṃ tvaṃ dhammaṃ jànàsi. Yaṃ tvaṃ dhammaṃ jànàsi, tamahaṃ dhammaṃ jànàmi. Iti yàdiso ahaṃ, tàdiso tvaṃ. Yàdiso tvaṃ, tàdiso ahaṃ. Ehidàni àvuso, ubhova santà imaṃ gaṭaṃ pariharàmà"ti.
Iti kho aggivessana àḷàro kàlàmo àcariyo me samàno antevàsiṃ maṃ samànaṃ attano samasamaṃ ṭhapesi. Uḷàràya ca maṃ pūjàya pūjesi. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: nàyaṃ dhammo nibbidàya na viràgàya na nirodhàya na upasamàya na abhiññàya na sambodhàya na nibbànàya saṃvattati, yàvadeva àkiñcaññàyatanuppattiyàti. So kho ahaṃ aggivessana taṃ dhammaṃ analaïkaritvà tasmà dhammà nibbijja apakkamiṃ.
. So kho ahaṃ aggivessana kiṅkusalagavesã anuttaraṃ santivarapadaṃ pariyesamàno yena uddako ràmaputto tenupasaṅkamiṃ. Upasaïkamitvà uddakaṃ ràmaputtaṃ etadavocaṃ: icchàmahaṃ àvuso imasmiṃ dhammavinaye brahmacariyaṃ caritunti. Evaṃ vutte aggivessana uddako ràmaputto maṃ etadavoca: " viharatàyasmà. Tàdiso ayaṃ dhammo yattha vinūññ puriso na cirasseva sakaṃ àcariyakaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja vihareyyà"ti. So kho ahaṃ aggivessana na cirasseva khippameva taṃ dhammaṃ pariyàpuṇiṃ. So kho ahaṃ aggivessana tàvatakeneva oṭṭhapahatamattena lapitalàpanamattena ñàṇavàdañca vadàmi theravàdañca. 'Jànàmi passàmã'ti ca pañijànàmi, ahañceva aññe ca.
 

 

.

Ta xuất gia như vậy, một người đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đến chỗ Alara Kalama ở, khi đến xong liền thưa với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này". Này Aggivessana, được nghe nói vậy, Alara Kalama nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú). Pháp này là như vậy, khiến kẻ có trí, không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy), tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú". Này Aggivessana, và không bao lâu Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này Aggivessana, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng tọa), và Ta tự cho rằng Ta như kẻ khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: "Alara Kalama tuyên bố pháp này không phải chỉ vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, Ta mới an trú". Chắc chắn Alara Kalama biết pháp này, thấy pháp này rồi mới an trú". Này các Tỷ-kheo, rồi Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến Ta nói với Alara Kalama: "Hiền giả Kalama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố pháp này?" Này Aggivessana, được nói vậy, Alara Kalama tuyên bố về Vô sở hữu xứ.
Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Alara Kalama có lòng tin, Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Alara Kalama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy Ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Alara Kalama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta an trú".
Rồi này Aggivessana, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này các Tỷ-kheo, Ta đi đến chỗ Alara Kalama ở, sau khi đến, Ta nói với Alara Kalama: "Này Hiền giả Kalama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?" --"Vâng, Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Thật lợi ích thay cho chúng tôi, Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi tự tri, tự chứng, tự đạt, và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
Như vậy, này Aggivessana, Alara Kalama là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Vô sở hữu xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp này, và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

 

I becoming a seeker of good and a seeker of the incomparable peaceful state approached Alàra Kàlàma and said: `Venerabls one, I want to lead the holy life in this dispensation,' `Come friend, the wise before long realize this teaching and abide like the teacher. Aggivessana, I quickly learned that Teaching to acknowledge I know and see by uttering and reciting as the elders did. Then it occurred to me merely with this faith Alàra Kàlàma would not acknowledge, I know and realized this Teaching. Indeed he abides knowing and seeing this teaching. Then I approached Alàra Kàlàma and asked him. Venerable one, how do you abide knowing and realizing this teaching? Alàra Kàlàma declared the sphere of nothingness. Then it occurred to me, it is not only Alàra Kàlàma who has faith, effort, mindfulness, concentration, and wisdom. I too have faith, effort, mindfulness, concentration and wisdom. I will arouse effort to realize this Teaching realized by him. Before long I realized that Teaching. Then I approached Alàra Kàlàma and asked: Venerable one, is it this much, the teaching you have realized. Friend, it is this much only, the teaching that I have realized, declare and abide in. Then I said, I too have realized this much and abide in it. Venerable one, it is rare gain for us to meet co-associates like you in the holy life. That the Teaching I have realized, you too have realized. So that, whatever Teaching, I know, that, you too know. Now the two of us are on equal grounds. Let us together guide this following.
Aggivessana, it was in this manner that my teacher Alàra Kàlàma honoured me, his pupil, giving me equal status. Then it occurred to me: This teaching does not lead to giving up, detachment, cessation, appeasement, knowledge enlightenment and extinction. It leads up to the sphere of nothingness only. Not satisfied I turned away from it.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: na kho ràmo imaṃ dhammaṃ kevalaṃ saddhàmattakena sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharàmãti pavedesi. Addhà ràmo imaṃ dhammaṃ jànaṃ passaṃ vihàsīti. Atha khvàhaṃ aggivessana yena uddako ràmaputto tenupasaïkamiṃ. Upasaṅkamitvà uddakaṃ ràmaputtaṃ etadavocaṃ: kittàvatà no àvuso ràmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharàmãti pavedesīti. Evaṃ vutte aggivessana uddako ràmaputto nevasaññànàsaññàyatanaṃ pavedesi.
Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: na kho ràmasseva ahosi saddhà, mayhampatthi saddhà, na kho ràmasseva ahosi viriyaṃ, mayhampatthi viriyaṃ, na kho ràmasseva ahosi sati, mayhampatthi sati, na kho ràmasseva ahosi samàdhi, mayhampatthi samàdhi, na kho ràmasseva ahosi paññà, mayhampatthi paññà. Yannūnàhaṃ yaṃ dhammaṃ ràmo sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharàmīti pavedesi, tassa dhammassa sacchikiriyàya padaheyyanti. So kho ahaṃ aggivessana na cirasseva khippameva taṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja vihàsiṃ.
. Atha khvàhaṃ aggivessana yena uddako ràmaputto tenupasaṅkamiṃ. Upasaṅkamitvà uddakaṃ ràmaputtaṃ etadavocaṃ: ettàvatà no àvuso ràmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja pavedesīti. " Ettàvatà kho àvuso ràmo imaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvà upasampajja pavedesī"ti.10 Ahampi kho àvuso ettàvatà imaṃ dhammaṃsayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja v iharāmīti
"Làbhà no àvuso, suladdhaṃ no àvuso, ye mayaṃ Āyasmā tādisaṃ sabrhmacarim. Passāma iti: yaṃ dhammaṃ rāmo sayaṃ abhiññā sacchikatvà upasampajja pavedesi, taṃ tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharasi. Yaṃ.. tvaṃ dhammaṃ sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja viharasi, taṃ dhammaṃràmo sayaṃ abhiññà sacchikatvà upasampajja pavedesi. Iti yaṃ dhammaṃ ràmo aññàsi, taṃ tvaṃ dhammaṃ jànàsi. Yaṃ tvaṃ. dhammaṃ jànàsi, taṃdhammaṃ ràmo aññàsi. Iti yàdiso ràmo ahosi, tàdiso tvaṃ. Yàdiso tvaṃ, tàdiso ràmo ahosi. Ehidàni àvuso, tvaṃ imaṃ gaṭaṃ pariharà"ti. Iti kho aggivessana uddako ràmaputto sabrahmacàrī me samàno àcariyaṭṭhàne ca maṃ ṭhapesi, uḷàràya ca maṃ pūjàya pūjesi. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: nàyaṃ dhammà nibbidàya na viràgàya na nirodhàya na upasamàya na abhiññàya na sambodhàya na nibbànàya saṃvattati, yàvadeva nevasaññànàsaññàyatanūpapattiyàti. So kho ahaṃ aggivessana taṃ dhammaṃ analaïkaritvà tasmà dhammà nibbijja apakkamiṃ.
 

 

.

Rồi này Aggivessana, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ. Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta, khi đến xong Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả, tôi muốn sống phạm hạnh trong pháp luật này". Ðược nói vậy, này Aggivessana, Uddaka Ramaputta nói với Ta: "Này Tôn giả, hãy sống (và an trú), pháp này là như vậy, khiến người có trí không bao lâu như vị Bổn sư của mình (chỉ dạy) tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú". Này Aggivessana, Ta đã thông suốt pháp ấy một cách mau chóng. Và này Aggivessana, cho đến vấn đề khua môi và vấn đề phát ngôn mà nói, thời Ta nói giáo lý của kẻ trí, và giáo lý của bậc Trưởng lão (Thượng Tọa), và Ta tự cho rằng Ta như người khác cũng vậy, Ta biết và Ta thấy.
Này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: "Rama tuyên bố pháp này không phải vì lòng tin: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, ta mới an trú". Chắc chắn Rama thấy pháp này, biết pháp này, rồi mới an trú". Này Aggivessana, rồi Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Hiền giả Rama, cho đến mức độ nào, Ngài tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này?" Này Aggivessana, được nghe nói vậy, Uddaka Ramaputta tuyên bố về Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Không phải chỉ có Rama mới có lòng tin. Ta cũng có lòng tin. Không phải chỉ có Rama mới có tinh tấn, Ta cũng có tinh tấn. Không phải chỉ có Rama mới có niệm, Ta cũng có niệm. Không phải chỉ có Rama mới có định, Ta cũng có định. Không phải chỉ có Rama mới có tuệ, Ta cũng có tuệ. Vậy ta hãy cố gắng chứng cho được pháp mà Rama tuyên bố: "Sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt, tự an trú".
Rồi này Aggivessana, không bao lâu sau khi tự tri, tự chứng, tự đạt pháp ấy một cách mau chóng, Ta an trú. Rồi này Aggivessana, Ta đi đến chỗ Uddaka Ramaputta ở, sau khi đến, Ta nói với Uddaka Ramaputta: "Này Hiền giả Rama, có phải Hiền giả đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy?" --"Vâng Hiền giả, tôi đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy". --"Này Hiền giả, tôi cũng đã tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố pháp này đến mức độ như vậy." Thật lợi ích thay cho chúng tôi! Thật khéo lợi ích thay cho chúng tôi, khi chúng tôi được thấy một đồng phạm hạnh như Tôn giả! Pháp mà tôi, tự tri tự chứng, tự đạt và tuyên bố, chính pháp ấy Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú; pháp mà Hiền giả tự tri, tự chứng, tự đạt và an trú, chính pháp ấy tôi tự tri, tự chứng, tự đạt và tuyên bố; pháp mà tôi biết, chính pháp ấy Hiền giả biết; pháp mà Hiền giả biết, chính pháp ấy tôi biết. Tôi như thế nào, Hiền giả là như vậy; Hiền giả như thế nào, Tôi là như vậy. Nay hãy đến đây, Hiền giả, hai chúng ta hãy chăm sóc hội chúng này!"
Như vậy, này Aggivessana, Uddaka Ramaputta là Ðạo Sư của Ta, lại đặt Ta, đệ tử của vị ấy ngang hàng với mình, và tôn sùng Ta với sự tôn sùng tối thượng. Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Pháp này không hướng đến yểm ly, không hướng đến ly tham, không hướng đến đoạn diệt, không hướng đến an tịnh, không hướng đến thượng trí, không hướng đến giác ngộ, không hướng đến Niết-bàn, mà chỉ đưa đến sự chứng đạt Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Như vậy, này Aggivessana, Ta không tôn kính pháp ấy và từ bỏ pháp ấy, Ta bỏ đi.

 

Becoming a seeker of good, and in search of the incomparable peaceful state I approached Uddaka Ràmaputta and said. Venerable one, I want to lead the holy life in this dispensation. Come friend, wise ones, before long realize this teaching and abide like the teacher. Aggivessana, I quickly learned that teaching to acknowledge, I know and see to utter and recite as the elders did. Then it occurred to me.
Merely with this faith, Uddaka Ràmaputta would not acknowledge I know and have realised this Teaching. Indeed he abides knowing and seeing this Teaching. Then I approached Uddaka Ràmaputta and asked him. Venerable one, how do you know and realize this teaching? Uddaka Ràmaputta declared the sphere of neither perception-nor non-perception.
Aggivesssana, then it occurred to me. It is not only Uddaka Ràmaputta who has faith, effort, mindfulness, concentration, and wisdom. I too have faith, effort, mindfulness, concentration and wisdom. What if I put forth effort to realize this. Before long I realized that teaching. Then I approached Uddaka Ràmaputta and asked him. Venerable one, is it this much, the Teaching, you have realized? Friend, it is this Teaching that I have realized, declare and abide Then I said, I too have realized this much and abide in it. Venerable one, it is rare gain for us to meet co-associates like you in the holy life. The teaching I have realized, you too have realized. So that Teaching I know, you too know. Now the two of us are on equal grounds. Come friend, you guide this following. Thus Uddaka Ràmaputta my co-associate put me in the place of his teacher. Then it occurred to me. This Teaching does not lead to giving up, detachment, cessation, appeasement, knowledge enlightenment and extinction. It leads up to the sphere of neither-perception-nor-non-perception only. Not satisfied I turned away from it.

 

So kho ahaṃ aggivessana kiṃkusalagavesã anuttaraṃ santivarapadaṃ pariyesamàno magadhesu anupubbena càrikaṃ caramàno yena uruvelà senà-nigamo tadavasariṃ. Tatthaddasaṃ ramaṇīyaṃ bhūmibhàgaṃ pàsàdikañca vanasaṇḍa, nadiñca sandantiṃ setakaṃsupatitthaṃ ramaṇīyaṃ, samantà ca gocaragàmaṃ. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: ramaṇīyà vata bhūmibhàgo, pàsàdiko ca vanasaṇḍa Nadã ca sandati setakà supatitthà ramaṇīyà, samantà ca gocaragàmo. Alaṃ vatidaṃ kulaputtassa padhànatthikassa padhànàyàti. So kho ahaṃaggivessana tattheva nisīdiṃ alamidaṃ padhànàyàti.
 

 

.

Này Aggivessana, Ta, kẻ đi tìm cái gì chí thiện, tìm cầu vô thượng tối thắng an tịnh đạo lộ, tuần tự du hành tại nước Magadha (Ma kiệt đà) và đến tại tụ lạc Uruvela (Ưu lâu tần loa). Tại đây, Ta thấy một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Này Aggivessana, rồi Ta tự nghĩ: "Thật là một địa điểm khả ái, một khóm rừng thoải mái, có con sông trong sáng chảy gần, với một chỗ lội qua dễ dàng khả ái, và xung quanh có làng mạc bao bọc dễ dàng đi khất thực. Thật là một chỗ vừa đủ cho một Thiện nam tử tha thiết tinh cần có thể tinh tấn". Và này các Tỷ-kheo, Ta ngồi xuống tại chỗ ấy và nghĩ rằng: "Thật đáng cố gắng tinh tấn ở nơi đây".

 

Becoming a seeker of good, and in search of the incomparable peaceful state wandering in stages came to the village of Senàni in Uruwela, there I saw a pleasant piece of land, with a forest, a flowing river with well formed white banks and in the vicinity a village to pasture. Then it occurred to me: Indeed this stretch of land is pleasant, there is a forest, a flowing river and in the vicinity is a village to pasture. Then I sat thinking this is the ideal place to make effort for a clansman

 

Apissu maṃ aggivessana tisso upamà paṭibhaṃsu anacchariyà pubbe assutapubbà:
Seyyathàpi aggivessana allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ udake nikkhittaṃ atha puriso àgaccheyya uttaràraṇiṃ àdàya 'aggiṃ abhinibbattessàmi, tejo pàtukarissàmī'ti. Taṃ kiṃ maññasi aggivessana, api nu so puriso amuṃallaṃ kaṭṭhaü sasnehaṃudake nikkhittaṃ uttaràraṇiṃ àdàya abhimanthento aggiṃabhinibbatteyya, tejo pàtu kareyyàti? " No hidaṃ bho gotama." Taü kissa hetu.? " Aduṃ hi bho gotama allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ. Tañca pana udake nikkhittaṃ. Yàvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighàtassa bhàgī assà"ti.
Evameva kho aggivessana ye hi keci samaṇà và bràhmaṇà và kàyena ceva kàmehi avūpakaṭṭhà viharanti, yo ca nesaṃ kàmesu kàmacchando kàmasneho kàmamucchà kàmapipàsà kàma pariḷàho, so ca ajjhattaṃ na suppahīno hoti na suppaṭippassaddho. Opakkamikà cepi te bhonto samaṇabràhmaṇõà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti. Abhabbà'va te ñàṇàya dassanàya anuttaràya sambodhàya. No cepi te bhonto samaṇabràhmaṇà opakkamikà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti, abhabbàva te ñàṇàya dassanàya anuttaràya sambodhàya. Ayaü kho maṃ aggivessana paṭhamà upamà paṭibhàsi anacchariyà pubbe assutapubbà.
 

 

Rồi này Aggivessana, ba ví dụ khởi lên nơi Ta, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe: Này Aggivessana, ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống và đặt trong nước. Có một người đến, cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: "Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra". Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống đặt trong nước ấy, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa thì có thể nhen lửa, khiến lửa nóng hiện ra được không?
-- Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì cành cây ấy đẫm ướt, đầy nhựa sống lại bị ngâm trong nước, nên người ấy chỉ bị mệt nhọc và bực bội.
-- Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa-môn hay những Bà-la-môn sống không xả ly các dục về thân, những gì đối với chúng thuộc các dục như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm chưa được khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt, nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng Giác, và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy cũng không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Aggivessana, đó là ví dụ thứ nhất, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.

 

Aggivessana, then three comparisons occurred to me never heard before. Just as a man would come with an over cover to a wet, sappy log of wood put in the water saying, I will make fire out of this. Aggivessana, would he be able to make fire rubbing on that wet sappy log of wood?
No, good Gotama. What is the reason? That wet, sappy log of wood put in the water, when rubbed with the over cover, will not produce fire.
That man will reap only fatigue.
Aggivessana, in the same way, when recluses or brahmins, abide not even bodily secluded from sensuality the sensual interest, sensual need, sensual stupor, sensual thirst, sensual burning not well turned out internally. They experience sharp rough unpleasant feelings and it is not possible that they should realize knowledge and vision and noble enlightenment. Even if these good recluses and brahmins do not feel sharp rough unpleasant feelings it is not possible that they should realise knowledge and vision and noble enlightenment. This is the first comparison that came to me not heard before.

 

Aparàpi kho maṃ aggivessana dutiyà upamaṃ paṭibhàsi anacchariyà pubbe assutapubbà: seyyathàpi aggivessana allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ àrakà udakà thale nikkhittaṃ, atha puriso àgaccheyya uttaràraṇiṃ àdàya 'aggiṃ abhinibbattessàmi, tejo pàtu karissàmī'ti. Taü kiṃ maññasi aggivessana, api nu so puriso amuṃ allaṃ kaṭṭhaṃsasnehaṃàrakà udakà thale nikkhittaṃ uttaràraṇiṃ àdàya abhimanthento aggiṃ abhinibbatteyya, tejo pàtu kareyyàti? " No hidaṃ bho gotama" taṃ kissa hetu? " Aduṃ hi bho gotama allaṃ kaṭṭhaṃ sasnehaṃ kiñcàpi àrakà udakà thale nikkhittaṃ, yàvadeva ca pana so puriso kilamathassa vighàtassa bhàgī assà"ti. Evameva kho aggivessana ye hi keci samaṇà và bràhmaṇà và kàyena kho kàmehi vūpakaṭṭhà viharanti, yo ca nesaṃ kàmesu kàmacchando kàmasneho kàmamucchà kàmapipàsà kàmapariḷàho so ca ajjhattaṃna suppahīno hoti na suppaṭippassaddho. Opakkamikà cepi te bhonto samaṇabràhmaṇà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti. Abhabbàva te ñàṇàya dassanàya anuttaràya sambodhàya. No cepi te bhonto samaṇabràhmaṇà opakkamikà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti, abhabbàva te ñàṇàya dassanàya anuttaràya sambodhàya. Ayaṃkho maṃ aggivessana dutiyà upamà paṭibhàsi anacchariyà pubbe assutapubbà.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi một ví dụ thứ hai, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này Aggivessana, ví như có một khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người đến, cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: "Ta sẽ nhen lửa, hơi nóng sẽ hiện ra". Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây đẫm ướt, đầy nhựa sống, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô ấy, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa, có thể nhen lửa, khiến hơi nóng hiện ra được không?
-- Thưa không, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì khúc cây ấy đẫm ướt, đầy nhựa sống, dầu được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô, nên người ấy chỉ bị mệt nhọc và bực bội.
-- Cũng vậy, này Aggivessana, những Sa-môn hay Bà-la-môn sống không xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục như dục tham, dục ái, dục hôm ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm chưa được khéo đoạn trừ, chưa được khéo làm cho nhẹ bớt. Nếu những Tôn giả Sa-môn, hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy cũng không có thể chứng được tri kiến, vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Aggivessana, đó là ví dụ thứ hai, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.

 

Aggivessana, then another comparison came to me never heard before. A man would come with an over cover to a sappy log of wood put on dry land, far away from water saying I will make fire out of this. Aggivessana, would he be able to make fire rubbing that sappy log of wood put on dry land far away from water? Good Gotama, that sappy log of wood, however far it may be from water, rubbed with the over cover would not produce fire. That man will reap only fatigue.
Aggivessana, in the same way, recluses and brahmins that abide not even bodily secluded from sensuality that sensual interest, sensual need, sensual stupor, sensual thirst, sensual burning not well turned out internally, experience sharp rough unpleasant feelings. It is not possible that they should realize knowledge and vision and noble enlightenment. Even if these good recluses and brahmins do not feel sharp rough unpleasant feelings, it is not possible that they should realize knowledge and vision and noble enlightenment This is the second comparison that came to me not heard before.

 

Aparàpi kho maṃ aggivessana tatiyà upamà pañibhàsi anacchariyà pubbe assutapubbà: seyyathàpi aggivessana sukkhaṃ kaṭṭhaṃ koḷàpaṃ àrakà udakà thale nikkhittaṃ, atha puriso àgaccheyya uttaràraṇiṃ àdàya 'aggiṃabhinibbattessàmi, tejo pàtu karissāmīti tam kiṃ maññasi aggivessana api nu so puriso amuṃ sukhaṃ kaṭṭhaṃ koḷāpaṃ àrakà udakà thale nikkhittaṃ uttaràraṇiṃ àdàya abhimanthento aggiṃ abhinibbatteyya, tejo pàtu kareyyàti? " Evaṃ bho gotama" taṃ kissa hetu? " Aduṃ hi bho gotama sukkhaṃkaṭṭhaṃ koḷàpaṃ, tañca pana àrakà udakà thale nikkhittanti."
Evameva kho aggivessana ye hi keci samaṇà và bràhmaṇà và kàyena ceva kàmehi vūpakaṭṭhà viharanti, yo ca nesaṃ kàmesu kàmacchando kàmasneho kàmamucchà kàmapipàsà kàma pariḷàho, so ca ajjhattaṃsuppahīno hoti suppaṭippassaddho. Opakkamikà cepi te bhonto samaṇabràhmaṇà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti. Bhabbà'va te ñàṇàya dassanàya anuttaràya sambodhàya. No cepi te bhonto samaṇabràhmaṇà opakkamikà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti, bhabbàva te ñàṇàya dassanàya anuttaràya sambodhàya. Ayaü kho maṃ aggivessana tatiyà upamà paṭibhàsi anacchariyà pubbe assutapubbà..
Imà kho maṃ aggivessana tisso upamà paṭibhaüsu anacchariyà pubbe assutapubbà.
 

 

Này Aggivessana, rồi một ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta. Này Aggivessana, ví như có một khúc cây khô, không nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô. Có một người đến cầm dụng cụ làm lửa với ý nghĩ: "Ta sẽ nhen lửa, lửa nóng sẽ hiện ra". Này Aggivessana, Ông nghĩ thế nào? Người ấy lấy khúc cây khô, không nhựa, được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô, rồi cọ xát với dụng cụ làm lửa, có thể nhen lửa, khiến nơi nóng hiện ra được không?
-- Thưa được, Tôn giả Gotama. Vì sao vậy? Này Tôn giả Gotama, vì khúc cây ấy khô, không nhựa, lại được vớt khỏi nước, được đặt trên đất khô.
-- Cũng vậy, này Aggivessana, những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn sống xả ly các dục về thân, những gì đối với các vị ấy thuộc các dục, như dục tham, dục ái, dục hôn ám, dục khát vọng, dục nhiệt não, về nội tâm được khéo đoạn trừ. Nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị ấy có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Và nếu những Tôn giả Sa-môn hay Bà-la-môn này không thình lình cảm thọ những cảm giác khổ đau, kịch liệt, khốc liệt, các vị này cũng có thể chứng được tri kiến vô thượng Chánh Ðẳng Giác. Này Aggivessana, đó là ví dụ thứ ba, vi diệu, từ trước chưa từng được nghe, được khởi lên nơi Ta.

 

Aggivessana, a third comparison came to me never heard before. Just as a man would come with an over cover to a dry sapless log of wood, thrown far away from water, saying I will make fire out of this. Aggivessana, would he be able to make fire rubbing that dry sapless log of wood, thrown far away from water? Yes, good Gotama. What is the reason? That dry sapless log of wood, thrown far away from water, rubbed with the over cover would produce fire. Aggivessana, in the same way, recluses and brahmins that abide bodily secluded from sensuality that sensual interest, sensual need, sensual stupor, sensual thirst, sensual burning well turned out internally, experience sharp rough unpleasant feelings. Yet it is possible that they should realize knowledge and vision and noble enlightenment. Even if these good recluses and brahmins do not feel sharp rough unpleasant feelings it is possible that they should realize knowledge and vision and noble enlightenment. This is the third comparison that came to me not heard before.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ dante'bhidantamàdhàya jivhàya tàluṃ àhacca cetasà cittaṃ abhiniggaṇheyyaṃ abhinippīḷeyyaü abhisantàpeyyanti. So kho ahaṃaggivessana dante'bhidantamàdhàya jivhàya tàluṃ àhacca cetasà cittaṃ abhiniggaṇhàmi abhinippīḷemi abhisantàpemi. Tassa mayhaṃaggivessana dante'bhidantamàdhàya jivhàya tàluṃ àhacca cetasà cittaṃabhiniggaṇhayato abhinippīḷayato abhisantàpayato kacchehi sedà muccanti. Seyyathàpi aggivessana balavà puriso dubbalataraṃpurisaṃsãse và gahetvà khandhe và gahetvà abhiniggaṇheyya abhinippīḷeyya abhisantàpeyya, evameva kho me aggivessana dante'bhidantamàdhàya jivhàya tàluṃ àhacca cetasà cittaṃ abhiniggaṇhayato abhinippīḷayato abhisantàpayato kacchehi sedà muccanti, àraddhaṃ kho pana me aggivessana viriyaṃ hoti asallīnaṃ. Upaṭṭhità sati asammuṭṭhà. Sàraddho ca pana me kàyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhànena padhànàbhitunnassa sato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà dukkhà vedanà cittaṃ na paridàya tiṭṭhati.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta hãy nghiến răng, dán chặt lên lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm!" Này Aggivessana, rồi Ta nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm. Khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta. Này Aggivessana, như một người lực sĩ nắm lấy đầu một người ốm yếu hay nắm lấy vai, có thể chế ngự, nhiếp phục và đánh bại người ấy. Này Aggivessana, khi Ta đang nghiến răng, dán chặt lưỡi lên nóc họng, lấy tâm chế ngự tâm, nhiếp phục tâm, đánh bại tâm, mồ hôi thoát ra từ nơi nách của Ta, này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

Aggivessana, it occurred to me, what if I pressed the upper jaw on the lower jaw, with the tongue pressing on the palate pushed out, expelled and burnt up thoughts in my mind. Then even while sweat was dripping from my armpits, I pressed the upper jaw on the lower jaw, with the tongue pressing on the palate pushed out, expelled and burnt up thoughts in my mind. Like a strong man taking hold of a weaker one would press him and worry him. In the same manner I pressed the upper jaw on the lower jaw, with the tongue pressing on the palate pushed out, expelled and burnt up thoughts in my mind, while sweat was dripping from my arm pits. My effort was aroused repeatedly, unconfused mindfulness established, the body was not appeased owing to the difficult exertion. Aggivessana, even these arisen unpleasant feelings did not take hold of my mind and settle

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ appàṇaṃ jhànaṃ jhàyeyyanti. So kho ahaṃ aggivessana mukhato ca nàsato ca assàsapassàse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃ aggivessana mukhato ca nàsato ca assàsapassàsesu uparuddhesu kaṇṇasotehi vàtànaṃ nikkhamantànaṃ adhimatto saddo hoti. Seyyathàpi nàma kammàragaggariyà dhamamànàya adhimatto saddo hoti, evameva kho me aggivessana mukhato ca nàsato ca assàsapassàsesu uparuddhesu kaṇṇasotehi vàtànaṃ nikkhamantànaṃ adhimatto saddo hoti. āraddhaṃ kho pana me aggivessana viriyaṃ hoti asallãnaṃ. Upaṭṭhità sati asammuṭṭhà. Sàraddho ca pana me kàyo hoti appaṭippassaddho tena ca dukkhappadhànena padhànàbhitunnassa sato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thì một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, ví như tiếng kinh khủng phát ra từ ống thổi bệ đang thổi của người thợ rèn. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng và ngang qua mũi, thời một tiếng gió động kinh khủng thổi lên, ngang qua lỗ tai. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị kích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

Aggivessana, then it occurred to me, what if I practiced stopping the in-breaths and the out-breaths, entering through the nose and mouth When I practiced stopping in-breaths and out-breaths entering through the nose and mouth, air entering through the ear lobes made much noise. It was like the sound that came from the bellows of the smithy. In the same manner when I stopped in-breaths and out breaths, entering through the nose and mouth, air entering through the ear lobes made much noise My effort was aroused repeatedly, my mindfulness was established, the body was not appeased owing to the difficult exertion. Aggivessana, even these arisen unpleasant feelings did not take hold of my mind and settle.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ appàṇakaññeva jhànaṃ jhàyeyyanti. So kho ahaṃ aggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃaggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimattà vàtà muddhàni ūhananti, seyyathàpi aggivessana balavà puriso tiṇhena sikharena muddhàni abhimantheyya, evameva kho me aggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimattà vàtà muddhàni ūhananti. āraddhaü kho pana me aggivessana viriyaṃ hoti asallīnaṃ. Upaṭṭhità sati asammuṭṭhà. Sàraddho ca pana me kàyo hoti appaṭippassaddho tene ca dukkhappadhànena padhànàbhitunnassa sato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô thở ra ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ chém đầu một người khác với một thanh kiếm sắc, cũng vậy, này Aggivessana, khi ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có ngọn gió kinh khủng thổi lên đau nhói trong đầu Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

Aggivessana, then it occurred to me what if I practiced stopping the in-breaths and the out-breaths further. I stopped the air, entering through the nose and mouth and ear lobes. When I practiced stopping in-breaths and out-breaths entering through the nose, mouth and the ear lobes, a lot of air disturbed my top. Like a strong man was carving my top with a sharp blade. In the same manner when I stopped in-breaths and out breaths, entering through the nose and mouth, and ear lobes, a lot of air disturbed my top. My effort was aroused repeatedly, my mindfulness was established, the body was not appeased owing to the difficult exertion. Aggivessana, even these arisen unpleasant feelings did not take hold of my mind and settle.

 

Tassa mayhaṃaggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ appàṇakaññeva jhànaṃ jhàyeyyanti. So kho ahaṃaggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃaggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimattà sãse sãsavedanà honti. Seyyathàpi aggivessana balavà puriso daḷhena varattakabandhanena sãse sãsaveṭhaṃ dadeyya, evameva kho me aggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimattà sīse sīsavedanà honti. āraddhaṃ kho pana me aggivessana viriyaṃ hoti asallīnaṃ. Upaṭṭhità sati asammuṭṭhà. Sàraddho ca pana me kàyo hoti appaṭippassaddho tene ca dukkhappadhànena padhànàbhitunnassa sato.Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau : "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu, một cách kinh khủng. Này Aggivessana, ví như một người lực sĩ lấy một dây nịt bằng da cứng quấn tròn quanh đầu rồi xiết mạnh; cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi, và ngang qua tai, Ta cảm giác đau đầu một cách kinh khủng. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn tận lực, dầu cho niệm được an trú không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

Aggivessana, then it occurred to me what if I practiced stopping the in-breaths and the out-breaths still more. I stopped the air, entering through the nose, mouth and ear lobes, further. When I practiced stopping in-breaths and out-breaths entering through the nose, mouth and the ear lobes further, I felt a lot of pain in the head. Like a strong man giving a head wrap with a strong turban. In the same manner when I stopped in-breaths and out breaths, entering through the nose, mouth, and ear lobes further, I felt a lot of pain in the head. My effort was aroused repeatedly, unconfused mindfulness established, the body was not appeased owing to the difficult exertion. Aggivessana, even then these arisen unpleasant feelings did not take hold of my mind and settle

 

Tassa mayhaṃaggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ appàṇakaññeva jhànaṃ jhàyeyyanti. So kho ahaṃ aggivessana mukhato ca nàsato ca kaññato ca assàsapassàse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃaggivessana mukhato ca nàsato ca kaññato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimattà vàtà kucchiṃ parikantanti. Seyyathàpi aggivessana dakkho goghàtako và goghàtakantevàsī và tiṇhena govikantanena kucchiṃ parikanteyya, evameva kho me aggivessana mukhato ca nàsato ca kaññato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimattà vàtà kucchiṃ parikantanti. āraddhaü kho pana me aggivessana viriyaṃhoti asallīnaṃ. Upaṭṭhità sati asammuṭṭhà. Sàraddho ca pana me kàyo hoti appaṭippassaddho teneva dukkhappadhànena padhànàbhitunnassa sato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn gió kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Aggivessana, ví như một người đồ tể thiện xảo hay đệ tử người đồ tể cắt ngang bụng với một con dao cắt thịt bò sắc bén. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, một ngọn kinh khủng cắt ngang bụng của Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dẫu cho niệm được an trú, không dao động nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại, nhưng không chi phối tâm Ta.

 

Aggivessana, then it occurred to me what if I practiced stopping the in-breaths and the out-breaths, for a longer time. I stopped the air, entering through the nose mouth and ear lobes, for a longer time When I practiced stopping in-breaths and out-breaths entering through the nose, mouth and the ear lobes for a longer time, I felt a lot of pain in the stomach. As though a clever butcher or his apprentice was carving the stomach with a butcher's knife. In the same manner when I stopped in-breaths and out breaths, entering through the nose and mouth, and ear lobes for a longer time I felt a lot of pain in the stomach. My effort was aroused repeatedly, unconfused mindfulness established. My body was not appeased owing to the difficult exertion. Aggivessana, even then these arisen unpleasant feelings did not take hold of my mind and settle.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ appàṇakaññeva jhànaṃ jhàyeyyanti. So kho ahaṃ aggivessana mukhato ca nàsato ca kaññato ca assàsapassàse uparundhiṃ. Tassa mayhaṃ aggivessana mukhato ca nàsato ca kaññato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimatto kàyasmiṃ ḍàho hoti. Seyyathàpi aggivessana, dve balavanto purisà dubbalataraṃ purisaṃnànàbàhàsu gahetvà aṅgàrakàsuyà santàpeyyuṃ samparitàpeyyuṃ. Evameva kho me aggivessana mukhato ca nàsato ca kaṇṇato ca assàsapassàsesu uparuddhesu adhimatto kàyasmiṃ ḍàho hoti. āraddhaṃ kho pana me aggivessana viriyaṃ hoti asallīnaṃ. Upaṭṭhità sati asammuṭṭhà. Sàraddho ca pana me kàyo hoti appaṭippassaddho tene va dukkhappadhànena padhànàbhitunnassa sato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà dukkhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati. Apissu maṃaggivessana devatà disvà evamàhaṃsu: kàlakato samaṇo gotamoti. Ekaccà devatà evamàhaṃsu: na kàlakato samaṇo gotamo, api ca kàlaṃ karotī 'ti. Ekaccà devatà evamàhaṃsu: 'na kàlakato samaṇo gotamo, napi kàlaṃ karoti. Arahaṃ samaṇo gotamo. Vihàrotveveso arahato evarūpo hotī 'ti.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy tu thêm Thiền nín thở". Và này Aggivessana, rồi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai. Này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai, thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Aggivessana, ví như hai người lực sĩ sau khi nắm cánh tay một người yếu hơn, nướng người ấy, đốt người ấy trên một hố than hừng. Cũng vậy, này Aggivessana, khi Ta nín thở vô, thở ra, ngang qua miệng, ngang qua mũi và ngang qua tai thì có một sức nóng kinh khủng khởi lên trong thân Ta. Này Aggivessana, dầu cho Ta có chí tâm, tinh cần, tinh tấn, tận lực, dầu cho niệm được an trú, không dao động, nhưng thân của Ta vẫn bị khích động, không được khinh an, vì Ta bị chi phối bởi sự tinh tấn, do tinh tấn chống lại khổ thọ ấy. Tuy vậy, này Aggivessana, khổ thọ ấy khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Lại nữa, này Aggivessana, chư Thiên thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gotama đã chết rồi". Một số chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết, nhưng Sa-môn Gotama sắp sửa chết". Một số chư Thiên nói như sau: "Sa-môn Gotama chưa chết. Sa-môn Gotama, cũng không phải sắp chết. Sa-môn Gotama là bậc A-la-hán, đời sống của một A-la-hán là như vậy".

 

Aggivessana, then it occurred to me what if I practiced stopping the in-breaths and the out-breaths, for a longer time. I stopped the air, entering through the nose mouth and ear lobes, for a longer time. When I practiced stopping in-breaths and out-breaths entering through the nose, mouth and the ear lobes for a longer time, I felt a lot of burning in the body. Like a strong man taking a weaker one, by his hands and feet was burning and scorching him in a pit of burning charcoal. In the same manner when I stopped in-breaths and out breaths, entering through my nose and mouth, and ear lobes for a longer time I felt a lot of burning in the body. My effort was aroused repeatedly, unconfused mindfulness established, the body was not appeased owing to the difficult exertion. Aggivessana, even then these arisen unpleasant feelings did not take hold of my mind and settle. Then the gods seeing me thus said, the recluse Gotama is dead. A certain deity said thus: The recluse Gotama is not dead. Will not die. Will become perfect like this.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ sabbaso àhàrūpacchedàya paṭipajjeyyanti. Atha kho maṃaggivessana devatà upasaṇkamitvà etadavocuṃ: mà kho tvaṃ màrisa sabbaso àhàrūpacchedàya paṭipajji, sace kho tvaṃ màrisa sabbaso àhàrūpacchedàya paṭipajjissasi, tassa te mayaṃdibbaṃ ojaṃ lomakūpehi ajjhohàressàma tàva tvaṃ yàpessasīti. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: ahañceva kho pana sabbaso ajaddhukà paṭijàneyyaṃ, imà ca me devatà dibbaṃ ojaṃ lomakūpehi ajjhohàreyyuṃ tàya càhaṃyàpeyyaṃ, taṃ mama assa musàti. So kho ahaṃ aggivessana tà devatà paccàcikkhàmi, halanti vadàmi.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta hãy hoàn toàn tuyệt thực". Rồi này Aggivessana, chư Thiên đến Ta và nói như sau: "Này Thiện hữu, Hiền giả chớ có hoàn toàn tuyệt thực. Này Thiện hữu, nếu Hiền giả có hoàn toàn tuyệt thực, chúng tôi sẽ đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Hiền giả, và nhờ vậy Hiền giả vẫn sống".
Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ như sau: "Nếu Ta hoàn toàn tuyệt thực và chư Thiên này đổ các món ăn chư Thiên ngang qua các lỗ chân lông cho Ta và nhờ vậy Ta vẫn sống, thời như vậy Ta tự dối Ta". Này Aggivessana, Ta bác bỏ chư Thiên ấy và nói: "Như vậy là đủ".

 

Aggivessana, then it occurred to me, what if I give up partaking all food. The gods approached me and said, good sir, do not fall to that method, if you do we will inject heavenly essence through the pores of the skin and will support. you
Then it occurred to me: When I abstain from all food if these gods inject, heavenly essence, that action of mine would be a deception. So I dismissed those gods.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: yannūnàhaṃ thokaṃ thokaṃ àhàraṃ àhàreyyaṃpasataṃpasataṃ- yadi và muggayūsaṃ yadi và kulatthayūsaṃ yadi và kaḷàyayūsaṃ yadi và hareṇukayūsanti. So kho ahaṃ aggivessana thokaṃ thokaṃ àhàraṃ àhàresiṃ pasataṃ pasataṃ - yadi và muggayūsaṃ yadi và kulatthayūsaṃ yadi và kaḷàyayūsaṃ yadi và hareṇukayūsaṃ. Tassa mayhaṃ aggivessana thokaṃ thokaṃ àhàraṃàhàrayato pasataṃ pasataṃ- yadi và muggayūsaṃ yadi và kulatthayūsaṃ yadi và kaḷàyayūsaṃ yadi và hareṇukayūsaṃ, adhimattakasimànaṃ patto kàyo hoti. Seyyathàpinàma àsītikapabbàni và kàḷapabbàni và, evamevassu me aṅgapaccaṅgàni bhavanti tàyevappàhàratàya. Seyyathàpi nàma oṭṭhapadaṃ, evamevassu me ànisadaṃ hoti tàyevappàhàratàya. Seyyathàpi nàma vaṭṭanàvaḷī, evamevassu me piṭṭhikaṇṭako unnatàvanato hoti, tàyevappàhàratàya. Seyyathàpi nàma jarasàlàya gopànasiyo oluggaviluggà bhavanti, evamevassu me phàsuḷiyo oluggaviluggà bhavanti tàyevappàhàratàya. Seyyathàpi nàma gambhīre udapàne udakatàrakà gambhīragatà okkhàyikà dissanti, evamevassu me akkhikūpesu akkhitàrakà gambhīragatà okkhàyikà dissanti tàyevappàhàratàya. Seyyathàpi nàma tittakàlàpu àmakacchinno vàtàtapena sampuṭito hoti sammilàto, evamevassu me sīsacchavi sampuṭità hoti sammilàtà tàyevappàhàratàya.–
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta tự suy nghĩ như sau: "Ta hãy giảm thiểu tối đa ăn uống, ăn ít từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ". Và này Aggivessana, trong khi Ta giảm thiểu tối đa sự ăn uống, ăn từng giọt một, như xúp đậu xanh, xúp đậu đen hay xúp đậu hột hay xúp đậu nhỏ, thân của Ta trở thành hết sức gầy yếu. Vì Ta ăn quá ít, tay chân Ta trở thành như những gọng cỏ hay những đốt cây leo khô héo; vì Ta ăn quá ít, bàn trôn của Ta trở thành như móng chân con lạc đà; vì Ta ăn quá ít, xương sống phô bày của Ta giống như một chuỗi banh; vì Ta ăn quá ít, các xương sườn gầy mòn của Ta giống như rui cột một nhà sàn hư nát; vì Ta ăn quá ít, nên con ngươi long lanh của Ta nằm sâu thẳm trong lỗ con mắt, giống như ánh nước long lanh nằm sâu thẳm trong một giếng nước thâm sâu; vì Ta ăn quá ít, da đầu Ta trở thành nhăn nhiu khô cằn như trái bí trắng và đắng bị cắt trước khi chín, bị cơn gió nóng làm cho nhăn nhíu khô cằn. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ da bụng", thì chính xương sống bị Ta nắm lấy. Nếu Ta nghĩ: "Ta hãy rờ xương sống", thì chính da bụng bị Ta nắm lấy. Vì Ta ăn quá ít, nên này Aggivessana, da bụng của Ta đến bám chặt xương sống. Này Aggivessana, nếu Ta nghĩ: "Ta đi đại tiện, hay đi tiểu tiện" thì Ta ngã qu? úp mặt xuống đất, vì Ta ăn quá ít. Này Aggivessana, nếu Ta muốn xoa dịu thân Ta, lấy tay xoa bóp chân tay, thì này Aggivessana, trong khi Ta xoa bóp chân tay, các lông tóc hư mục rụng khỏi thân Ta, vì Ta ăn quá ít.

 

Aggivessana, then it occurred to me, what if I partake food in trifling amounts, drop by drop, the essence of, green grams, peas, chick-peas or pea soup. I partook food in trifling amounts, the essence of, green grams, peas, chick peas, or pea soup. Partaking food in this manner my body emaciated much. I looked as though I had reached my eightieth year or had come to the end of life Thus were my limbs large and small. My back was like a camel's foot, the backbone was like a threaded string of beads when bending and stretching, My rib bones were like the beams of the roof of a decaying hall, that were about to fall apart. My eyes, deeply set in the sockets were like two stars set in a deep well. The skin of my head was like a bitter- goad plucked young and dried in the sun and hot air. Thus were my limbs large and small owing to taking trifling amounts of food. When I touched the skin of the stomach, I got hold of the back bone. When excreting or urinating, I fell face downwards. If I touched the body to appease it, the hairs of the body decayed at the roots fell off. Thus was my body owing to taking trifling amounts of food.

 

So kho ahaṃaggivessana udaracchaviṃ paràmasissàmīti piṭṭhikaṇṭakaṃyeva parigaṇhàmi. Piṭṭhikaṇṭakaṃ paràmasissàmīti udaracchaviññeva parigaṇhàmi . Yàvassu me aggivessana udaracchavi piṭṭhikaṇṭakaṃ allīnà hoti tàyevappàhàratàya. So kho ahaṃaggivessana vaccaṃ và muttaṃvà karissàmīti tattheva avakujjo papatàmi tàyevappàhàratàya. So kho ahaṃ aggivessana imameva kàyaṃassàsento pàṇinà gattàni anumajjàmi. Tassa mayhaṃaggivessana pàṇinà gattàni anumajjato pūtimūlàni lomàni kàyasmà papatanti tàyevappàhàratàya. Apissu maṃ aggivessana manussà disvà evamàhaṃsu: kàḷo samaṇo gotamoti. Ekacce manussà evamàhaṃsu: na kàḷo samaṇo gotamo, sàmo samaṇo gotamoti. Ekacce manussà evamàhaṃsu: na kḷëo samaṇo gotamo napi sàmo, maṅguracchavī samaṇo gotamoti. Yàvassu me aggivessana tàva parisuddho chavivaṭṭo pariyodàto upahato hoti tàyevappàhàratàya.
 

 

.

Lại nữa, này Aggivessana, có người thấy vậy nói như sau: "Sa-môn Gotama có da đen". Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama, da không đen, Sa-môn Gotama có da màu xám". Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám." Một số người nói như sau: "Sa-môn Gotama da không đen, da không xám, Sa-môn Gotama có da màu vàng sẫm". Cho đến mức độ như vậy, này Aggivessana, da của Ta vốn thanh tịnh, trong sáng bị hư hoại vì Ta ăn quá ít.

 

People seeing me said, the recluse Gotama is dark. One said, he is not dark but tan. Another said the recluse Gotama is neither dark nor tan but of golden hue. Aggivessana, my pure skin complexion was destroyed owing to partaking trifling amounts of food.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: " ye kho keci atītamaddhànaṃ samaṇà và bràhmaṇà và opakkamikà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyiṃsu, etàvaparamaṃ, nayito bhiyyo. Yepi hi keci anàgatamaddhànaṃsamaṇà và bràhmaṇà và opakkamikà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyissanti, etàvaparamaṃ, nayito bhiyyo. Yepi hi keci etarahi samaṇà và bràhmaṇà và opakkamikà dukkhà tippà kaṭukà vedanà vediyanti, etàvaparamaṃ, nayito bhiyyo. Na kho panàhaṃ imàya kaṭukàya dukkarakàrikàya adhigacchàmi uttarimanussadhammà alamariyañàṇadassanavisesaṃ. Siyà nu kho añño maggo bodhàyà"ti.
 

 

.

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Thuở xưa có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Về tương lai, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng không thể có gì hơn nữa. Trong hiện tại, có những Sa-môn hay Bà-la-môn thình lình cảm thọ những cảm giác chói đau, khổ đau, kịch liệt, khốc liệt. Những sự đau khổ này là tối thượng, không thể có gì hơn nữa. Nhưng Ta, với sự khổ hạnh khốc liệt như thế này, vẫn không chứng được pháp thượng nhân, tri kiến thù thắng xứng đáng bậc Thánh. Hay là có đạo lộ nào khác đưa đến giác ngộ?"

 

Aggivessana, then it occurred to me, whoever recluse or brahmin experienced sharp, rough, unpleasant feelings, in the past, he did not experience anything more than this. Whoever recluse or brahmin, would experience sharp rough unpleasant feelings in the future, would not experience anything more than this. Whoever recluse or brahmin experiences sharp, rough, unpleasant feelings, at present, he does not experience anything more than this. It occurred to me: Doing these difficult exertions, I will not attain, any noble distinctive knowledge and vision above human. There should be some other method for the realization of enlightenment.

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: abhijànàmi kho paṭàhaü pitusakkassa kammante sītàya jambucchàyàya nisinno vivicceva kàmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicàraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ paṭhamaṃ jhànaṃ upasampajja viharità. Siyà nu kho eso maggo bodhàyàti. Tassa mayhaṃaggivessana satànusàriviññàṇaṃ ahosi: esova maggo bodhàyàti. -
Tassa mayhaṃaggivessana etadahosi: kinnu kho ahaṃ tassa sukhassa bhàyàmi yantaṃsukhaṃ aññatreva kàmehi aññatra akusalehi dhammehīti.
 

 

Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ như sau: "Ta biết, trong khi phụ thân Ta, thuộc giòng Sakka (Thích-ca) đang cày và Ta đang ngồi dưới bóng mát cây diêm-phù-đề (jambu), Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ". Khi an trú như vậy, Ta nghĩ: "Ðạo lộ này có thể đưa đến giác ngộ chăng?" Và này Aggivessana, tiếp theo ý niệm ấy, ý thức này khởi lên nơi Ta: "Ðây là đạo lộ đưa đến giác ngộ".
Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta có sợ chăng lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện?" Này Aggivessana, rồi Ta suy nghĩ: "Ta không sợ lạc thọ này, một lạc thọ ly dục, ly pháp bất thiện".

 

Then Aggivessana, I recalled the experience under the shade of the rose apple tree near my father's field: Secluded from sensual thoughts and secluded from thoughts of demerit, with thoughts and discursive thoughts and with joy and pleasantness born of seclusion, how I attained to the first jhàna. Then consciousness arose is this the path to enlightenment. I thought, why should I fear this pleasantness, which is other than sensual pleasure and away from thoughts of demerit

 

Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: na kho ahaṃ tassa sukhassa bhàyàmi yantaṃ sukhaṃ aññatreva kàmehi aññatra akusalehi dhammehīti. Tassa mayhaṃ aggivessana etadahosi: na taṃsukaraṃsukhaṃadhigantuṃevaṃ adhimattakasimànaṃ pattakàyena, yannūnàhaṃ oḷàrikaṃ àhàraṃ àhàreyya odanakummàsanti. So kho ahaṃ aggivessana oḷàrikaṃàhàraṃ àhàresiṃ odanakummàsaṃ. Tena kho pana maṃaggivessana samayena pañca bhikkhū paccupaṭṭhità honti: " yaṃ kho samaṇo gotamo dhammaṃ adhigamissati taṃ no àrocessatī"ti. Yato kho ahaṃ aggivessana oḷàrikaṃàhàraṃ àhàresiṃodanakummàsaṃ, atha kho te pañca bhikkhū nibbijja pakkamiṃsu: 'bàhuliko samaṇo gotamo padhànavibbhanto àvatto bàhullàyà'ti.
So kho ahaṃ aggivessana oḷàrikaṃ àhàraṃ àhàrito balaṃ gahetvà vivicceva kàmehi vivicca akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicàraṃ vivekajaṃ pãtisukhaṃpaṭhamaṃ jhànaṃ upasampajja vihàsiṃ. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
Vitakkavicàrànaṃ vūpasamà ajjhattaṃ sampasàdanaṃ cetaso ekodibhàvaṃ avitakkaṃavicàraṃsamàdhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhànaṃ upasampajja vihàsiṃ. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃna pariyàdàya tiṭṭhati.
. Pītiyà ca viràgà upekkhako ca vihàsiṃsato ca sampajàno. Sukhañca kàyena paṭisaṃvedesiṃ. Yaṃ taṃ ariyà àcikkhanti: upekkhako satimà sukhavihàrīti tatiyaṃjhànaṃ upasampajja vihàsiṃ. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
Sukhassa ca pahànà dukkhassa ca pahànà pubbeva somanassadomanassànaṃ atthagamà adukkhaṃ asukhaṃupekkhàsatipàrisuddhiṃcatutthaṃ jhànaṃupasampajja vihàsiṃ. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃna pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

Rồi này Aggivessana, Ta suy nghĩ: "Nay thật không dễ gì chứng đạt lạc thọ ấy, với thân thể ốm yếu kinh khủng như thế này. Ta hãy ăn thô thực, ăn cơm chua". Rồi này Aggivessana, Ta ăn thô thực, ăn cơm chua. Này Aggivessana, lúc bấy giờ, năm Tỷ-kheo đang hầu hạ Ta suy nghĩ: "Khi nào Sa-môn Gotama chứng pháp, vị ấy sẽ nói cho chúng ta biết". Này Aggivessana, khi thấy Ta ăn thô thực, ăn cơm chua, các vị ấy chán ghét Ta, bỏ đi và nói: "Sa-môn Gotama nay sống đầy đủ vật chất, từ bỏ tinh tấn, trở lui đời sống sung túc".
Và này Aggivessana, sau khi ăn thô thực và được sức lực trở lại, Ta ly dục, ly pháp bất thiện, chứng và trú Thiền thứ nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, có tầm, có tứ. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Diệt tầm và tứ, chứng và trú Thiền thứ hai, một trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm, không tứ, nội tĩnh nhất tâm. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Ly hỷ trú xả, chánh niệm tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc Thánh gọi là xả niệm lạc trú, chứng và trú Thiền thứ ba. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.
Xả lạc xả khổ, diệt hỷ ưu đã cảm thọ trước, chứng và trú Thiền thứ tư, không khổ không lạc, xả niệm thanh tịnh. Này Aggivessana, như vậy lạc thọ khởi lên nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

Aggivessana, then it occurred to me, it is not easy to attain that pleasantness with this emaciated body, what if I take some coarse food some cooked rice and bread. At that time the fivefold bhikkhus attended on me, thinking whatever noble thing the recluse Gotama attains he will inform us. When I partook of coarse food such as cooked rice and bread, they went away thinking the recluse Gotama has given up exerting and has returned to abundance.
Partaking coarse food and gaining strength, secluded from sensual thoughts and thoughts of demerit with thoughts and discursive thoughts and with joy and pleasantness born of seclusion I attained to the first jhàna. Aggivessana, even those arisen pleasant feelings did not take hold of my mind and settle. Overcoming thoughts and discursive thoughts, with the mind internally appeased, and brought to a single point, without thoughts and discursive thoughts and with joy and pleasantness born of concentration I attained to the second jhàna. Aggivessana, even those arisen pleasant feelings did not take hold of my mind and settle.
With equanimity to joy and detachment abode mindful and aware, and with the body experienced pleasantness and attained to the third jhàna. To this abiding the noble ones said, abiding mindfully in pleasantness. Aggivessana, even those pleasant feelings did not take hold of my mind and settle. Dispelling pleasantness and unpleasantness, and earlier having dispelled pleasure and displeasure, without unpleasantness and pleasantness and mindfulness purified with equanimity, I attained to the fourth jhàna. Aggivessana, even those pleasant feelings, did not take hold of my mind and settle.

 

Se: evaṃsamàhite citte parisuddhe pariyodàte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite àneñjappatte pubbe nivàsànussatiñàṇàya cittaṃ abhininnàmesiṃ. So anekavihitaṃ pubbenivàsaṃanussaràmi seyyathīdaṃ:
" Ekampi jàtiṃdvepi jàtiyo tissopi jàtiyo catassopi jàtiyo pañcapi jàtiyo dasapi jàtiyo vīsatimpi jàtiyo tiṃsampi jàtiyo cattàrīsampi jàtiyo paññàsampi jàtiyo jàtisatampi jàtisahassampi jàtisatasahassampi, anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe, " amutràsiṃ evaṃnàmo evaṃvaṇṇo evamàhàro evaṃsukhadukkhapaṭisaṃvedã evamàyupariyanto. So tato cuto amutra uppàdiṃ. Tatràpàsiṃ evaṃnàmo evaṃ gotto evaṃ vaṇṇo evamàhàro evaṃ sukhadukkhapaṭisaṃvedã evamàyupariyanto. So tato cuto idhūpapanno"ti - iti sàkàraṃ sauddesaṃanekavihitaṃpubbenivàsaṃ anussaràmi. Ayaṃ kho pana me aggivessana rattiyà paṭhame yàme paṭhamà vijjà adhigatà, avijjà vihatà vijjà uppannà, tamo vihato àloko uppanno, yathà taṃ appamattassa àtàpino pahitattassa viharato. Evaūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Túc mạng minh. Ta nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời, năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi đời, một trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời, nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Ta nhớ rằng: "Tại chỗ kia, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết tại chỗ kia, Ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ ấy, Ta có tên như thế này, dòng họ như thế này, giai cấp như thế này, thọ khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này". Như vậy, Ta nhớ đến nhiều đời sống quá khứ cùng với các nét đại cương và các chi tiết. Này Aggivessana, đó là minh thứ nhất Ta đã chứng được trong đêm canh một, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

When the mind was concentrated, pure, free from minor defilements, malleable workable not disturbed, I directed the mind for the knowledge of previous births. I recollected the manifold previous births, one birth, two births, three, four, five, ten, twenty, thirty, forty, fifty, a hundred births, a thousand births, a hundred thousand births, innumerable forward cycles of births, innumerable backward cycles of births, innumerable forward and backward cycles of births. There I was of such name, clan, disposition, supports, experiencing such pleasant and unpleasant feelings and with such a life span. Disappearing from there was born there with such name, clan, disposition, supports, experiencing such pleasant and unpleasant feelings, with such a life span, disappearing from there, is born here. Thus with all modes and all details I recollected. the manifold previous births. Aggivessana, this is the first knowledge I attained in the first watch of the night, ignorance dispelled, knowledge arose, as it happens to those abiding diligent for dispelling. Aggivessana, even these pleasant feelings did not take hold of my mind and settle.

 

So evaṃ samàhite citte parisuddhe pariyodàte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite àneñjappatte sattànaṃ cutūpapàtañàṇàya cittaṃ abhininnàmesiṃ. So dibbena cakkhunà visuddhena atikkantamànusakena satte passàmi: cavamàne, uppajjamàne hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathàkammūpage satte pajànàmi: 'ime vata bhonto sattà kàyaduccaritena samannàgatà vacīduccaritena samannàgatà manoduccaritena samannàgatà ariyànaṃ upavàdakà micchàdiṭṭhikà micchàdiṭṭhikammasamàdànà, te kàyassa bhedà parammaraṇà apàyaṃ duggatiṃ vinipàtaṃnirayaṃuppannà, ime và pana bhonto sattà kàyasucaritena samannàgatà vacīsucaritena samannàgatà manosucaritena samannàgatà ariyànaṃ anupavàdakà sammàdiṭṭhikà sammàdiṭṭhikammasamàdànà, te kàyassa bhedà parammaraṇà sugatiṃ saggaṃ lokaṃupapannà'ti. Iti dibbena cakkhunà visuddhena atikkantamànusakena satte passàmi cavamàne uppajjamàne. Hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe sugate duggate yathàkammūpage satte pajànàmi: ayaṃkho pana me aggivessana rattiyà majjhime yàme dutiyà vijjà adhigatà, avijjà vihatà vijjà uppannà, tamo vihato àloko uppanno, yathà taṃappamattassa àtàpino pahitattassa viharato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃ na pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh tử của chúng sanh. Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống và chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh đều do hạnh nghiệp của họ. Những chúng sanh làm những ác hạnh về thân, lời và ý, phỉ báng các bậc Thánh, theo tà kiến, tạo các nghiệp theo tà kiến; những người này, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cõi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Còn những chúng sanh nào làm những thiện hạnh về thân, lời và ý, không phỉ báng các bậc Thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến; những vị này sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các thiện thú, cõi trời, trên đời này. Như vậy Ta với thiên nhãn thuần tịnh, siêu nhân, thấy sự sống chết của chúng sanh. Ta biết rõ rằng chúng sanh, người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Này Aggivessana, đó là minh thứ hai Ta đã chứng được trong đêm canh giữa, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

When the mind was concentrated, pure, free from minor defilements malleable workable not disturbed, I directed my mind for the knowledge of the disappearing and appearing of beings. With the heavenly eye purified beyond human, I saw beings disappearing and appearing un -exalted and exalted, beautiful and ugly, arising in good and bad states according to their actions: These good beings misbehaving by body, speech and mind, blaming noble ones, with the wrong view of actions, after death are born in loss, in decrease, in hell. As for these good beings, well behaved in body speech and mind, not blaming noble ones, with the right view of actions after death are born in heaven. Thus with the heavenly eye purified beyond human, I saw beings disappearing and appearing. Aggivessana, this is the second knowledge I attained in the second watch of the night. Ignorance dispelled, knowledge arose, as it happens to those abiding diligent for dispelling. Aggivessana, even these pleasant feelings did not take hold of my mind and settle.

 

So evaṃ samàhite citte parisuddhe pariyodàte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte kammaniye ṭhite àneñjappatte àsavànaṃ khayañàṇàya cittaṃ abhininnàmesiṃ. So idaṃ dukkhanti yathàbhūtaṃ abbhaññàsiṃ, ayaṃ dukkhasamudayoti yathàbhūtaṃ abbhaññàsiṃ, ayaṃ dukkhanirodhoti yathàbhūtaṃ abbhaññàsiṃ ayaṃ dukkhanirodhagàminī paṭipadàti yathàbhūtaṃ abbhaññàsiṃ. Ime àsavàti yathàbhūtaṃabbhaññàsiṃ, ayaṃ àsavasamudayoti yathàbhūtaṃ abbhaññàsiṃ ayaṃàsavanirodhoti yathàbhūtaṃabbhaññàsiṃ, ayaṃ àsavanirodhagàminī paṭipadàti yathàbhūtaṃ abbhaññàsiṃ. Tassa me evaṃ jànato evaṃ passato kàmàsavàpi cittaṃ vimuccittha. Bhavàsavàpi cittaṃvimuccittha. Avijjàsavàpi cittaṃ vimuccittha. Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñàṇaṃ ahosi: 'khīṇà jàti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ nàparaṃ itthattàyà'ti abbhaññàsiṃ. Ayaṃ kho pana me aggivessana rattiyà pacchime yàme tatiyà vijjà adhigatà, avijjà vihatà vijjà uppannà, tamo vihato àloko uppanno, yathà taṃ appamattassa àtàpino pahitattassa viharato. Evarūpàpi kho me aggivessana uppannà sukhà vedanà cittaṃna pariyàdàya tiṭṭhati.
 

 

.

Với tâm định tĩnh, thuần tịnh, trong sáng không cấu nhiễm, không phiền não, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc, bình tĩnh như vậy, Ta dẫn tâm, hướng tâm đến Lậu tận trí. Ta biết như thật: "Ðây là Khổ", biết như thật: "Ðây là Nguyên nhân của khổ", biết như thật: "Ðây là sự Diệt khổ", biết như thật: "Ðây là Con đường đưa đến diệt khổ", biết như thật: "Ðây là những lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là nguyên nhân của lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Ðây là con đường đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc". Nhờ biết như vậy, nhận thức như vậy, tâm của Ta thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát khỏi vô minh lậu. Ðối với tự thân đã giải thoát như vậy, Ta khởi lên sự hiểu biết: "Ta đã giải thoát." Ta đã biết: "Sanh đã diệt, phạm hạnh đã thành, việc cần làm đã làm, sau đời hiện tại không có đời sống nào khác nữa". Này Aggivessana, đó là minh thứ ba mà Ta đã chứng được trong canh cuối, vô minh diệt, minh sanh, ám diệt, ánh sáng sanh, do Ta sống không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần. Như vậy, này Aggivessana, lạc thọ sanh nơi Ta, được tồn tại nhưng không chi phối tâm Ta.

 

When the mind was concentrated, pure, free from minor defilements, was malleable workable not disturbed, I directed the mind for the destruction of desires. Knew this is unpleasant, knew this is arising of unpleasantness, knew this is cessation of unpleasantness and knew this is the path to the cessation of unpleasantness as it really is. : Knew these are desires, knew the arising of desires, knew the cessation of desires and knew the path to the cessation of desires as it really is. I, knew and saw them and the mind was released, from sensual desires, from desires `to be', and from ignorant desires When released knowledge arose, I'm released, birth is destroyed, what should be done is done. The holy life is lived to the end. I knew, there is nothing more to wish. Aggivessana, this is the third knowledge, I attained in the last watch of the night. Ignorance was dispelled, knowledge arose, as it happens to those abiding diligent for dispelling. Aggivessana, even these pleasant feelings did not take hold of my mind and settle.

 

Abhijànàmi kho panàhaṃ aggivessana anekasatàya parisàya dhammaṃ desetà. Apissu maṃ ekameko evaṃ maññati: mameva àrabbha samaṇo gotamo dhammaṃ desetīti. Na kho panetaṃ aggivessana evaü daṭṭhabbaṃ. Yàvadeva viññàpanatthàya tathàgato paresaṃ dhammaṃdeseti. So kho ahaṃ aggivessana tassàyeva kathàya pariyosàne tasmiṃyeva purimasmiṃ samàdhinimitte ajjhattameva cittaṃ saṇṭhapemi sannisīdàpemi ekodiṃkaromi samàdahàmi, yena sudaṃ niccakappaṃ viharàmīti
"Okappaniyametaü bhoto gotamassa yathàtaü arahato sammà sambuddhassa. Abhijànàti pana bhavaṃ gotamo divà supità"ti. Abhijànàmahaṃ aggivessana gimhànaṃpacchime màse pacchàbhattaṃ piṇḍapàtapaṭikkanto catugguṇaṃ saṅghàṭiṃ paññàpetvà dakkhiṇena passena sato sampajàno niddaṃ okkamitàti. " Etaṃ kho bho gotama eke samaṇabrahmaṇà sammohavihàrasmiṃ vadantī"ti. Na kho aggivessana ettàvatà sammūḷho và hoti asammūḷho và. Api ca aggivessana yathà ca sammūḷho hoti
asammūḷho ca, taṃsuṇàhi, sàdhukaṃ manasi karohi, bhàsissàmīti. Evaü bho gotamàti kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavato paccassosi. Bhagavà etadavoca:
 

 

Này Aggivessana, Ta biết rằng khi Ta thuyết pháp cho đại chúng gồm hàng trăm người, mỗi người nghĩ như thế này về Ta: "Ðặc biệt cho ta, Sa-môn Gotama thuyết pháp". Này Aggivessana, chớ có hiểu như vậy. Khi Như Lai thuyết pháp cho đại chúng, thì đó chỉ vì mục đích giảng dạy. Và Ta, này Aggivessana, sau khi chấm dứt một buổi thuyết giảng như vậy, Ta an trú nội tâm, làm cho tịnh chỉ, làm cho nhất tâm, làm cho định tĩnh trên định tướng thứ nhất ấy, và như vậy Ta sống an trú, trường cửu, vĩnh viễn. Như vậy, Tôn giả Gotama thật đáng tin cậy, vì Ngài là bậc A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Nhưng không biết Tôn giả Gotama có cho phép ngủ ban ngày không?

 

Aggivessana, I know of giving instructions to innumerable crowds. Of them a certain one would think, it is to me that the recluse Gotama is preaching. Aggivessana, it should not be thought in that manner. Thus Gone Ones preach with the intention of making others knowledgeable. I on the other hand, at the end of that discourse, establish my mind on the same thought I was established in, before the discourse. Good Gotama, after the attainment of perfection, and rightful enlightenment, do you know of sleeping in the day time?

 

Yassa kassaci aggivessana ye àsavà saṅkilesikà ponobhavikà sadarà dukkhavipàkà àyatiṃ jàtijaràmaraṇīyà appahīnà, tamahaṃ sammūḷhoti vadàmi. āsavànaṃ hi aggivessana appahànà sammūḷho hoti. Yassa kassaci aggivessana ye àsavà saïkilesikà ponobhavikà sadarà dukkhavipàkà àyatiṃ jàtijaràmaraṇīyà pahīnà, tamahaṃasammūḷhoti vadàmi. āsavànaṃ hi aggivessana pahànà asammūḷho hoti. Tathàgatassa kho aggivessana ye àsavà saṅkilesikà ponobhavikà sadarà dukkhavipàkà àyatiṃ jàtijaràmaraṇīyà pahīnà ucchinnamūlà tàlavatthukatà anabhàvakatà àyati anuppàdadhammà. Seyyathàpi aggivessana tàlo matthakacchinno abhabbo puna virūḷhiyà, evameva kho aggivessana tathàgatassa ye àsavà saṅkilesikà ponobhavikà sadarà dukkhavipàkà àyatiṃ jàti jaràmaraṇīyà pahīnà ucchinnamūlà tàlàvatthukatà anabhàvakatà àyatiṃanuppàdadhammàti.
 

 

-- Này Aggivessana, Ta có cho phép, vào cuối tháng hạ, sau khi khất thực về, sau khi xếp áo sanghati (đại y) thành bốn, chánh niệm tỉnh giác, Ta nằm xuống ngủ, nằm phía tay mặt.
-- Này Tôn giả Gotama, như vậy một số Sa-môn, Bà-la-môn gọi là an trú nơi si ám. -- Này Aggivessana, như vậy không phải là si ám hay không si ám. Này Aggivessana, như thế nào là si ám và như thế nào là không si ám? Hãy nghe và suy nghiệm kỹ, Ta sẽ nói.
-- Thưa vâng, Tôn giả.
Niganthaputta Saccaka trả lời Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
Ðối với ai, các lậu hoặc chưa được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy Ta gọi là còn si ám. Này Aggivessana, đối với ai các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, vị ấy Ta gọi là không si ám. Này Aggivessana, sự đoạn trừ lậu hoặc là không si ám. Này Aggivessana, đối với Như Lai, các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, chúng bị cắt tận gốc, được làm như cây ta-la bị chặt đầu, khiến cho không thể tái sanh, không thể sanh lại trong tương lai. Này Aggivessana, ví như cây ta-la bị chặt đứt đầu, không lớn lên; cũng vậy, này Aggivessana, đối với Như Lai, các lậu hoặc đã được đoạn trừ, những lậu hoặc liên hệ đến phiền não, sanh khởi hậu hữu, đáng sợ hãi, đưa đến quả khổ dị thục, hướng đến sanh, già, chết trong tương lai, chúng bị cắt tận gốc, được làm như cây ta-la bị chặt đầu, khiến cho không thể tái sanh, không thể sanh lại trong tương lai.

 

In the last month of Summer, after returning from the alms round having folded the robe in four and turning to my right, I know of going to sleep mindful and aware. Some recluses and brahmins say that, it is abiding in delusion. Aggivessana, with this much it is not a deluded abiding, nor a non-deluded abiding. Yet I will tell you the deluded abiding and the non-deluded abiding. Listen and attend to it carefully.
Aggivessana, if someone's desires, the defilements to be born again, with unpleasant results of future birth, decay and death are not dispelled, to that I say delusion. When desires are not dispelled, that is delusion. Aggivessana, if someone's desires, the defiling things to be born again, with unpleasant results of future birth, decay, death are dispelled, to that I say non-delusion. When desires are dispelled, that is non-delusion. Aggivessana, in the Thus Gone One, the desires, the defiling things to be born again, with unpleasant results of future birth, decay and death are dispelled. They are pulled out from the roots, made palm stumps and made things that would not rise again. Aggivessana, when the top of the palm is cut, it would not grow again. The desires, defiling things to be born again, with unpleasant results of future birth, decay and death are dispelled in the Thus Gone One, and made things that would not rise again.

 

Evaṃ vutte saccako nigaṇṭhaputto bhagavantaṃ etadavoca: " acchariyṃ bho gotama, abbhutaṃ bho gotama, yàvañcidaṃ bhoto gotamassa evaṃàsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taṃarahato sammà sambuddhassa." "Abhijànàmahaṃ bho gotama pūraṭaṃ kassapaṃ vàdena vàdaṃ samàrabhità. Sopi mayà vàdena vàdaṃsamàraddho aññena aññaṃ paṭicari, bahiddhà kathaṃ apanàmesi, kopañca dosañca appaccayañca pàtvàkàsi. Bhoto kho pana gotamassa evaṃ àsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taṃ arahato sammàsambuddhassa.
"Abhijànàmahaṃ bho gotama makkhaliṃ gosàlaṃ vàdena vàdaṃ samàrabhità. Sopi mayà vàdena vàdaṃsamàraddho aññena aññaṃpaṭicari, bahiddhà kathaṃ apanàmesi, kopañca dosañca appaccayañca pàtvàkàsi. Bhoto kho pana gotamassa evaṃ àsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taṃ arahato sammàsambuddhassa.
"Abhijànàmahaṃ bho gotama ajitaṃ kesakambalaṃvàdena vàdaṃ samàrabhità. Sopi mayà vàdena vàdaṃ samàraddho aññena aññaṃpaṭicari, bahiddhà kathaṃ apanàmesi, kopañca dosañca appaccayañca pàtvàkàsi. Bhoto kho pana gotamassa evaṃ àsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taü arahato sammàsambuddhassa.
"Abhijànàmahaṃ bho gotama pakudhaṃ kaccàyanaṃ vàdena vàdaṃsamàrabhità. Sopi mayà vàdena vàdaṃsamàraddho aññena aññaṃ paṭicari, bahiddhà kathaṃapanàmesi, kopañca dosañca appaccayañca pàtvàkàsi. Bhoto kho pana gotamassa evaṃ àsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taṃ arahato sammàsambuddhassa.
"Abhijànàmahaṃbho gotama sañjayaṃ belaṭṭhiputtaṃ vàdena vàdaṃsamàrabhità. Sopi mayà vàdena vàdaṃsamàraddho aññena aññaṃ paṭicari, bahiddhà kathaṃapanàmesi, kopañca dosañca appaccayañca pàtvàkàsi. Bhoto kho pana gotamassa evaü àsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taṃ arahato sammàsambuddhassa.
"Abhijànàmahaṃ bho gotama nigaṇṭhaṃ nàtaputtaṃ vàdena vàdaṃ samàrabhità. Sopi mayà vàdena vàdaṃ samàraddho aññena aññaṃ paṭicari, bahiddhà kathaṃ apanàmesi, kopañca dosañca appaccayañca pàtvàkàsi. Bhoto kho pana gotamassa evaṃ àsajja àsajja vuccamànassa upanītehi upanītehi vacanapathehi samudàcariyamànassa chavivaṇṇo ceva pariyodàyati, mukhavaṇṇo ca vippasīdati, yathà taü arahato sammàsambuddhassa. Handa ca dàni mayaṃbho gotama gacchàma, bahukiccà mayaṃ bahukaraṭīyàtī.
"Yassadàni tvaṃ aggivessana kàlaṃ maññasī"ti.
Atha kho saccako nigaṇṭhaputto bhagavato bhàsitaṃabhinanditvà anumoditvà uṭṭhàyàsanà pakkàmīti.
Mahàsaccakasuttaṃ chaṭṭhaṃ.
 

 

Khi được nghe nói vậy, Niganthaputta Saccaka bạch Thế Tôn:
-- Thật kỳ diệu thay, Tôn giả Gotama! Thật hy hữu thay, Tôn giả Gotama! Dầu cho Tôn giả Gotama bị chống đối một cách mỉa mai, dầu cho bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ, như một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận tôi cùng với Purana Kassapa biện luận, vị này khi bị tôi dùng lời nói chất vấn, liền tránh né với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề, và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận, tức tối. Còn Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời lẽ buộc tội trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Này Tôn giả Gotama, tôi xác nhận tôi cùng với Makkhali Gosala... Ajita Kesakambala... Pakudha Kaccayana... Sanjaya Belatthiputta... cùng với Nigantha Nataputta biện luận, vị này khi bị tôi dùng lời nói chất vấn liền tránh né với một vấn đề khác, trả lời ra ngoài vấn đề và tỏ lộ sự phẫn nộ, sân hận và tức tối. Còn Tôn giả Gotama, dầu bị chống đối một cách mỉa mai, dầu bị công kích với những lời lẽ buộc tội, trong cuộc đối thoại, màu da Tôn giả vẫn sáng suốt, sắc mặt Tôn giả vẫn hoan hỷ như một A-la-hán, Chánh Ðẳng Giác. Và này Tôn giả Gotama, chúng tôi nay phải đi, chúng tôi có nhiều công việc, có nhiều việc phải làm.
-- Này Aggivessana, Ông hãy làm những gì Ông nghĩ là hợp thời.
Rồi Niganthaputta Saccaka hoan hỷ, tín thọ lời Thế Tôn giảng, từ chỗ ngồi đứng dậy và từ biệt.

 

When this was said Saccaka the son of Nigan. tha said thus to the Blessed One. It is wonderful when questions closely directed are asked, the purity of the skin becomes more apparent and the face becomes pleasant, as it is of the perfect rightfully enlightened one. I have experience of disputing with Puràna Kassapa, when refuted he turned the question aside and showed ill will and displeasure. On the other hand when questions closely directed are asked, the purity of the skin colour becomes more apparent and the face becomes pleasant as it is of the perfect rightfully enlightened one. I have experience of disputing with Makkhali Gosàla-Ajita Kesakambala-Pakudha Kaccàyana, --Sa¤jaya Bela, t. thiputta-with Nigan. thanàtaputta, when refuted he turned the question aside and showed ill will and displeasure. On the other hand when questions closely directed are asked, the purity of the skin colour becomes more apparent and the face becomes pleasant as it is of the perfect rightfully enlightened one. Good Gotama, now we will go we have much work to do. Aggivessana, do as you think fit.
Then Saccaka the son of Nigan. tha delighted and agreeing with the words of the Blessed One got up from his seat and went away.

___________

Ghi chú:

(1) [1] Aggivessana, this is the undeveloped body and the undeveloped mind (evaü kho Aggivessana, abhàvita khàyoca abhàvita cittoca). The Blessed One explains, the feelings of a worldling. Arisen pleasant feelings take hold of the mind completely and settle on account of the undeveloped body. Arisen unpleasant feelings take hold of the mind completely and settle on account of the undeveloped mind. Pleasant feelings constantly arise, at one or the other of the doors of mental contact. It's when they fade that unpleasant feelings arise. `sukha, dukkha' When these two feelings take hold of the mind and settle, it is called dukkha-unpleasant. The Blessed One throughout this sutta, explains that the mind should be freed from these feelings. The mind should not be elevated on account of pleasant feelings and it should not be depressed on account of unpleasant feelings. For this we should be watchful of feelings, see how they arise, see how they fade and see how they fade for good.

(2) [2] Aggivessana, this is the developed body and the devloped mind (evaü kho Aggivessana, bhàvita khàyoca bhàvita cittoca). The Blessed One alludes the devloped body and the devloped mind to those who are perfect ie. arahants. Throughout this sutta it is shown, how the Blessed One had not settled in the worst of feelings, nor in the best of feelings, i. e. those attained to in the jhànas and the higher abidings. The mind should be released from all these feelings.

--- o0o ---

Trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

Cập nhật ngày: 01-31-2006

--- o0o ---

Xin gởi ý kiến bài vở đến TT Thích Giác Đẳng
Email:giacdang@phapluan.com

Cập nhật ngày: 01-31-2006