[05] 383- Tục Đế (Sammuttisacca).V- Thế nào là Tục Đế? Đ- Tục Đế là sự thật thế t́nh, sự thật phổ thông, sự thật theo phong tục, tập quán về ngôn ngữ và ư nghĩa của ngôn ngữ. Thí dụ: danh từ "ngôi nhà", vật để trốn mưa nắng ... đặt tên là ngôi nhà và khi nói đến danh từ "ngôi nhà" là người ta hiểu ngay là vật để ở trốn mưa nắng v.v... Tục Đế phân ra có 2 cách: Danh Chế Định và Nghĩa Chế Định. 384- Danh Chế Định (Nāmapaññatti ).V- Thế nào là Danh Chế Định? Đ- Chế biến định đặt các loại danh từ để tiện việc ngôn ngữ xưng hô, kêu gọi khi muốn nói đến một sự vật ǵ dù là cụ thể hay trừu tượng hoặc thuộc về vật lư hay tâm lư v.v...Thí dụ: như nghe trong thân thể đau nhức khó chịu th́ nói "tôi bệnh" .v.v.. Danh Chế Định phân ra có 6 thứ:
385- Danh Chơn Chế Định (Sāvijjamāna paññatti ).V- Thế nào là Danh Chơn Chế Định? Đ- Những danh từ chỉ về Pháp Chơn Đế như sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức hoặc Uẩn, Xứ, Giới, Đế v.v.. gọi là Danh Chơn Chế Định. 386- Phi Danh Chơn Chế Định (Avijjamāna paññatti). V- Thế nào là Phi Danh Chơn Chế Định? Đ- Những danh từ chỉ về Pháp Tục Đế như Đàn ông, Đàn bà, non sông, Tổ quốc v.v... gọi là Phi danh Chơn Chế Định. 387- Danh Chơn Phi Danh Chơn Chế Định.(Vijjamānena Avijjāmānapaññtti). V- Thế nào là Danh Chơn Phi danh Chơn Chế Định? Đ- Tiếng nói là Cảnh Thinh, Nhan Sắc là Cảnh Sắc thuộc về Chơn Đế; c̣n người nam, người Nữ là Tục Đế. 388- Phi danh Chơn danh Chơn Chế Định (Avijjānena Vijjāmāna paññatti). V- Thế nào là Phi Danh Chơn danh Chơn Chế Định? Đ- Những danh từ ghép, tiếng trước chỉ Pháp Tục Đế (giả danh, chớ không có thật), tiếng sau chỉ Pháp Chơn Đế như "người có Tâm Tham" v.v... gọi là Phi danh Chơn. Danh Chơn Chế Định tiếng "người" là giả danh, không có thật; c̣n "Tâm Tham" th́ có thật. 389- Danh Chơn Danh Chơn Chế Định (Vijjamānena Vijjamāna Paññatti). V- Thế nào là Danh Chơn Danh Chơn Chế Định? Đ- Những danh từ ghép, tiếng trước, tiếng sau đều chỉ Pháp Chơn Đế như Nhăn Thức, Nhĩ Thức v.v... gọi là danh Chơn Danh Chơn Chế Định (tiếng Nhăn, Nhĩ, đều là danh từ chỉ Vật có thật và Thức cũng là danh từ thuộc về Chơn Đế). 390- Phi Danh Chơn Phi Danh Chơn Chế Định (Avijjamānena Avijjamāna Paññatti). V- Thế nào là Phi danh Chơn, Phi danh Chơn Chế Định? Đ- Những danh từ ghép, tiếng trước tiếng sau đều chỉ Pháp Tục Đế như Cha con, Ông cháu v.v... gọi là Phi danh Chơn Phi danh Chơn Chế Định (tiếng cha con, ông cháu ... xét trên phương diện Chơn Đế th́ hoàn toàn giả danh chớ không có thật nhưng xét về mặt thế t́nh, tục đế th́ có thật). 391-Nghĩa Chế Định (Atthapaññatti). V- Thế nào là Nghĩa Chế Định? Đ- Quy định ư nghĩa cho được biết, được hiểu về đối tượng. Thí dụ: như nói "ngôi nhà cũ" người nghe hiểu rằng "chổ ở đă lâu" có 7:
392- H́nh Thức Chế Định (Santhānāpaññatti). V- Thế nào là H́nh Thức Chế Định? Đ- Mặt đất bằng phẳng có một g̣ đất đất ... nhô cao lên gọi là Núi, chứa nước mênh mông nhiều hơn phần đất liền gọi là Biển v.v... đó là H́nh thức Chế Định. 393- Hiệp Thành Chế Định (Samèhapaññatti). V- Thế nào là Hiệp Thành Chế Định? Đ- V́ có các vật liệu như rui, mè, kèo, cột v.v... ráp lại thành một ngôi nhà v.v... gọi là Hiệp Thành Chế Định. 394- Chúng Sinh Chế Định (Sattā paññatti). V- Thế nào là Chúng Sinh Chế Định? Đ- Thú, người, Trời, Tiên, Phật, Thánh, Thần, Ma, Quỉ v.v... gọi là Chúng Sinh Chế Định. 395- Phương Hướng Chế Định (Disā paññatti). V- Thế nào là Phương Hướng Chế Định? Đ- Đông, Tây, Nam, Bắc, Trên, Dưới, v.v... gọi là Phương Hướng Chế Định. 396- Thời Gian Chế Định (Kālapaññatti). V- Thế nào là Thời Gian Chế Định? Đ- Xuân, Hạ, Thu, Đông, giờ Tư, giờ Sửu ... một giờ, hai giờ ... sáng, trưa, chiều v.v... gọi là Thời Gian Chế Định. 397- Hư Không Chế Định (Ākāsapaññatti). V- Thế nào là Hư Không Chế Định? Đ- Những chỗ trống, kẻ hở, khoảng hư không như giếng, hang, hào, hố, huyệt, ao, đầm, đ́a, sông, rạch v.v... gọi là Hư Không Chế Định. 398- Tiêu Biểu Chế Định (Namitta paññatti). V- Thế nào là Tiêu Biểu Chế Định? Đ- Những đề mục Tu chỉ Định (Samatha) như đất, nước, lửa, gió, xanh, vàng, đỏ, trắng v.v... hoặc các vật tiêu biểu như lá cờ, bảng hiệu v.v... gọi là Tiêu Biểu Chế Định. Nói tóm lại, mọi sự vật trong đời được diễn đạt bằng ngôn ngữ, để bày tỏ cho nhau được hiểu biết, bất cứ dưới h́nh thức nào, phương tiện nào đều là Chế Định. Dù Đức Phật thuyết pháp để chuyển mê khai ngộ cho chúng sinh cũng phải dùng Pháp Chế Định (Tục Đế). Thường được ví dụ: Tục Đế như ngón tay, Chơn Đế như Mặt Trăng; đôi khi người ta c̣n dùng danh từ Sự để chỉ cho Tục Đế và danh từ Lư để chỉ cho Chơn Đế v.v...người tu hành cần phải biết rơ thế nào là Tục Đế, thế nào là Chơn Đế và phải biết rơ thế nào là Chơn Đế Hữu Vi, thế nào là Chơn Đế Vô Vi (Niết Bàn). Khi đă đạt tri, liễu chứng như vậy, chắc chắn sẽ không c̣n lầm cho rằng trụ trong Niết Bàn, ở trong Niết Bàn, mắc kẹt trong Niết Bàn! Mà Chỉ biết Niết Bàn là Niết Bàn, sanh tử là sanh tử, chớ không phải sanh tử là Niết Bàn, phiền năo tức là Bồ Đề như một số người ngộ nhận! Các vị Chánh Giác không nương tựa, không chấp trước một vật ǵ trên đời và cũng không ham thích Niết Bàn như nhiều người lầm tưởng! Chính Ngài Xá Lợi Phất nói "Tôi không yêu sự sống (sinh tử), cũng không thích sự chết (Niết Bàn), nhưng tôi không làm trái chưa chín mà phải rụng"... Đức Thế Tôn có nói Bậc A La Hán biết rơ Niết Bàn là Niết Bàn, v́ biết rơ Niết Bàn là Niết Bàn nên không tư niệm trong Niết Bàn, không nghĩ có tự ngă trú Niết Bàn, không nghĩ bản ngă là Niết Bàn, không nghĩ Niết Bàn là của ta, không hoan hỷ trong Niết Bàn. V́ sao vậy? Như Lai nói: "V́ vị ấy đă thật hiểu Niết Bàn" (Kinh Mūlapariyāya trong bộ Majjhima Nikāya). 399- Thiền Chỉ Quán (Samathacavipassanajhānā). V- Thế nào là Thiền Chỉ Quán? Đ- Thiền là phương pháp thiêu đốt phiền năo, có hai loại là thiền chỉ và thiền quán. Thiền chỉ là phương pháp tập trung tư tưởng trên một đề mục, tức là cách tu theo 40 đề mục chỉ định, c̣n thiền quán là phương pháp phát triển tuệ tu trên mọi trường hợp, cho thấy rơ sự sanh diệt của danh sắc hay sự vô thường của ngũ uẩn. Và thấy rơ cái ǵ ngoài ngũ uẩn th́ không bị sanh diệt. Phương pháp tu Chỉ chỉ đè nén phiền năo tạm thời, c̣n pháp tu Tuệ Quán th́ sát tuyệt phiền năo hoàn toàn. Và nơi đây sẽ nói đến phương pháp chỉ quán một cách tương đối đầy đủ. Pháp tu chỉ quán nơi đây chính là pháp "Tứ Niệm Xứ". 400- Tứ Niệm Xứ (Satipaṭṭhaṇā). V- Thế nào là Tứ Niệm Xứ? Đ- Tứ là con số 4. Niệm là trạng thái tâm quan sát theo dơi, chú tâm, ghi nhớ, biết rơ, biết đến, biết ngay. Xứ là chỗ, nơi, vị trí, đề mục, đối tượng tức là hành xứ hay Sở Tri, Sở Quán ... Như vậy, Tứ Niệm Xứ tức 4 Sở quán là Thân quán niệm Xứ, Thọ quán niệm Xứ, Tâm quán niệm Xứ và Pháp quán niệm Xứ. 401- Thân Quán Niệm Xứ (Kāyānupassanā). V- Thế nào là Thân Quán Niệm Xứ? Đ- Quan sát biết rơ những ǵ thuộc sắc uẩn hoặc Hành tướng của sắc uẩn gọi là Thân quán Niệm Xứ. Có 7 pháp Quán sát thuộc về Thân quán niệm Xứ là:
402- Quán sát Hơi Thở (Ānapānasati). V- Thế nào là quán sát Hơi Thở? Đ- Người tu hành theo pháp Tứ Niệm Xứ của Đức Thế Tôn, đi đến khu rừng, cội cây, ngôi nhà vắng, ngồi kiết già lưng thẳng, an trú chánh niệm trong đề mục hiện hữu (thường có):
Nói tóm lại, Quan Sát hơi thở là chú tâm theo dơi hơi thở ra, vô, nếu trong khi quan sát hơi thở, thân tâm có trạng thái ǵ sinh khởi th́ phải biết ngay và sau khi nhận biết sự vật vừa sinh khởi rồi tiếp tục quan sát theo hơi thở vô ra. Biết rơ hơi thở của ḿnh gọi là "Quán thân trên nội thân", biết rơ hơi thở của người khác gọi là "Quán thân trên ngoại thân" biết rơ hơi thở của ḿnh và của người gọi là "Quán thân trên nội và ngoại thân". Biết rơ hơi thở lúc sinh khởi gọi là "Quán sự sinh trên thân" biết rơ hơi thở lúc diệt mất gọi là "Quán sự diệt trên thân", biết rơ khi hơi thở Sinh và Diệt gọi là "Quán sự Sinh và Diệt trên thân". Như vậy là Thân quán niệm Xứ về phần quan sát hơi thở. 403- Quan Sát Đại Oai Nghi. V- Thế nào là Quan sát Đại Oai Nghi? Đ- Đại Oai Nghi là cách đi, đứng, nằm, ngồi. Cách đi là xác thân di chuyển, 2 chân luôn luôn dở, bước, đạp. Cách đứng là xác thân đ́nh trụ, dừng lại, 2 chân phải chống đỡ sức nặng của toàn thân. Cách nằm là xác thân trải dài trên giường, ghế v.v... Cách ngồi là thân xác co lại phân nửa phần trên, 2 bàn tọa đặt trên giường ghế v.v... Người tu tập chánh niệm khi thân xác ở trong oai nghi nào phải biết rơ. Biết rơ cách Đi, Đứng, Nằm, Ngồi của ḿnh gọi là "Quán Thân trên nội thân", biết rơ cách Đi, Đứng, Nằm, Ngồi của người khác gọi là "Quán Thân trên ngoại thân", biết rơ cách Đi, Đứng, Nằm, Ngồi của ḿnh và của người khác gọi là "Quán Thân trên nội và ngoại thân". Biết rơ sự sinh khởi của mỗi cách Đi, Đứng, Nằm, Ngồi gọi là "Quán sự sinh trên thân", biết rơ sự diệt mất của mỗi cách Đi, Đứng, Ngồi, Nằm gọi là "Quán sự diệt trên thân", biết rơ sự Sinh và Diệt của mỗi cách Đi, Đứng, Nằm, Ngồi gọi là "Quán sự Sinh Diệt trên thân". Như vậy là Tâm Quán niệm Xứ về phần quan sát Đại Oai Nghi. 403- Quan Sát Tiểu Oai Nghi. V- Thế nào là Quan Sát Tiểu Oai Nghi? Đ- Tiểu oai nghi là những hành vi lặt vặt, những động tác linh tinh, tức các cử động của thân thể không thuộc về tứ đại oai nghi như co tay duỗi chân .v.v. Hành giả tu tập theo Tứ Niệm Xứ, khi thân có những cử động nào, dù nhỏ đến đâu, cũng phải biết rơ. Thí dụ như khi đi hai tay đánh đồng xa, hay nghiêng ngả thân ḿnh, hoặc đầu lắc hay gật, chí đến nói, cười, khóc, ... đều phải biết rơ. Hoặc khi mắt nh́n về phía trước, Vị ấy biết rơ; khi ngó lui phía sau, Vị ấy biết rơ.
Nói tóm lại, xác thân được sử dụng như thế nào, Vị ấy biết rơ như thế ấy. Quan sát biết rơ các tiểu oai nghi của ḿnh gọi là "Quán thân trên nội thân", biết rơ các tiểu oai nghi của người khác gọi là "Quán thân trên ngoại thân", biết rơ tiểu oai nghi của ḿnh và người khác gọi là "Quán thân trên nội và ngoại thân". Biết rơ sự sinh khởi của mỗi tiểu oai nghi gọi là "Quán sự sinh trên thân", biết rơ sự diệt của mỗi tiểu oai nghi gọi là "Quán sự diệt trên thân", biết rơ sự sinh và diệt của mỗi tiển oai nghi gọi là "Quán sự sinh diệt trên thân". Như vậy, thân quán niệm xứ về phần quan sát tiểu oai nghi là thế. 404- Quan Sát Thân Bất Tịnh (Asucino). V- Thế nào là Quan Sát Thân Bất Tịnh? Đ- Đức Thế Tôn dạy các vị Tỷ Khưu quan sát thân nầy từ dưới gót chân lên đến đảnh tóc, bao bọc bởi da, và chứa đựng những vật bất tịnh khác. Trong thân nầy, đây là tóc lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương, tủy, thận, tim gan, óc dạ dầy, màng bao ruột, phổi, ruột già, ruột non, vật thực, phân, mật, đàm, mủ, máu, nước mắt, mở đặc, mồ hôi, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhớt và nước tiểu. Người tu hành quan sát thân bất tịnh để tâm nhàm chán, không luyến ái xác thân (dù thân ḿnh hay thân người). Quan sát 32 thể trược của ḿnh gọi là "Quán thân trên nội thân", quan sát 32 thể trược của người gọi là "Quán thân trên ngoại thân", quan sát 32 thể trược của ḿnh rồi nghĩ đến 32 thể trược của người khác gọi là "Quán thân trên nội và ngoại thân". Quan sát thấy rơ sự sinh khởi của 32 thể trược là "Quán sự sinh trên thân", thấy rơ sự diệt của 32 thể trược là "Quán sự diệt trên thân", thấy rơ sự sinh và diệt của 32 thể trược là "Quán sự sinh diệt trên thân". Như vậy là Thân quán niệm xứ về phần Quan Sát Thân Bất Tịnh. 405- Quan Sát Tứ Đại (Vavaṭṭhāna). V- Thế nào là Quan Sát Tứ Đại? Đ- Tứ Đại là Địa đại, Thủy đại, Hỏa đại và Phong đại. Địa đại là các chất đông đặc, có phận sự nâng đỡ các sắc khác, có trạng thái cứng hoặc mềm. Thủy đại là chất lỏng ướt, có phận sự nuôi dưỡng các sắc khác cho được tươi nhuần, có trạng thái chảy ra và quến lại. Hỏa đại là chất âm dương, có phận sự làm cho các sắc khác khô chín và không hư thúi, có trạng thái nóng và lạnh. Phong đại là chất hoạt động, có phận sự di chuyển hoặc cử động, có trạng thái lay động hoặc căng phồng lên. nói theo Kinh tạng, Tứ đại trong thân có 42 thứ tất cả:
Người tu hành quan sát Tứ Đại để xả ly ḷng cố chấp về xác thân. Quan sát Tứ Đại trong thân gọi là "Quán thân trên nội thân", quan sát Tứ Đại ngoài thân gọi là "Quán thân trên ngoại thân", quan sát Tứ Đại bên trong rồi nghĩ đến Tứ Đại bên ngoài và trái lại gọi là "Quán thân trên nội và ngoại thân". Quán thấy sự sinh khởi của Tứ Đại gọi là "Quán sự sinh trên thân", quán thấy sự tiêu diệt của Tứ Đại gọi là "Quán sự diệt trên thân", quán thấy sự sinh khởi và tiêu diệt của Tứ Đại gọi là "Quán sự sinh diệt trên thân". Như vậy là Thân Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Tứ Đại. 406- Quan Sát Tử Thi (Āsubha). V- Thế nào là Quan Sát Tử Thi? Đ- Tử thi là thân xác con người đả chết, quăng bỏ trong nghĩa địa từ 1 ngày, 2 ngày, 3 ngày hoặc lâu hơn. Tử thi có nhiều h́nh thức như tử thi đang śnh lên, tử thi śnh có màu xanh đen, tử thi thúi nát có mũ chảy ra, tử thi bị chặt đứt làm hai đoạn, tử thi bị thú ăn lủng nhiều chỗ, tử thi bị chặt đứt ĺa ra thành nhiều khúc, tử thi bị đâm chém có nhiều dấu vết, tử thi có máu trào ra từng vũng, tử thi có gịi đụt nhiều nơi, tử thi chỉ c̣n xương gân. Hành giả quan sát tử thi để sanh tâm kinh cảm, ghê sợ xác thân, trừ ḷng tham ái những sắc tướng xinh đẹp. Quan sát thân ḿnh cũng sẽ như tử thi đă gặp là "Quán thân trên nội thân", quan sát thân người cũng sẽ như tử thi đă gặp là "Quán thân trên ngoại thân", quan sát thân ḿnh và thân người rồi cũng sẽ như tử thi đă gặp là "Quán thân trên nội và ngoại thân". Quán sự sinh khởi (từng giai đoạn) của thân gọi là "Quán sự sinh trên thân", quán thấy sự diệt mất (từng giai đoạn) của thân gọi là "Quán sự diệt trên thân", quán thấy sự sinh và diệt (biến chuyển từ h́nh thức nầy sang h́nh thức khác) của thân gọi là "Quán sự sinh diệt trên thân". Như vậy là Thân Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Tử Thi. 407- Quan Sát Hài Cốt (Aṭṭhikāni). V- Thế nào là Quan Sát Hài Cốt? Đ- Hài cốt là những tử thi chỉ c̣n lại bộ xương khô chứ không c̣n da, thịt, gân máu ... ǵ cả. bộ xương ấy từ một năm trở lên, có thể trắng hếu, hoặc đen thâm, thúi nát thành bột. Người tu hành quan sát hài cốt để sanh tâm xả ly tham ái thân xác. Quán sát thân ḿnh với ư nghĩ: "thân này đặc tánh là vậy, bản chất là vậy (thân nầy rồi sẽ trở thành bộ hài cốt như vậy, không thể nào vượt khỏi tánh chất ấy)", là "Quán thân trên nội thân", quan sát thân người với ư nghĩ: "thân đó có đặc tính là vậy, bản chất là vậy" là "Quán thân trên ngoại thân", quan sát thân ḿnh và thân người với ư nghĩ: "thân nầy có đặc tính là vậy, bản chất là vậy" là "Quán thân trên nội và ngoại thân". Quán thấy sư sinh khởi của thân là "Quán sự sinh trên thân", quán thấy sự hoại diệt của thân gọi là "Quán sự diệt trên thân", quán thấy sự sinh diệt của thân gọi là "Quán sự sinh diệt trên thân". Đó là Thân Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Hài Cốt. Thân quán niệm xứ có 7 cách, người tu tập theo pháp Tứ Niệm Xứ, lấy thân làm đề mục, an trú trong chánh niệm, hướng đến chánh đạo. Vị ấy sống không nương tựa, không đắm nhiễm một vật ǵ trên đời. 408- Thọ Quán Niệm Xứ (Vedanānupassanā). V- Thế nào là Thọ Quán Niệm Xứ? Đ- Thọ là những cảm giác khổ, lạc, ưu, hỷ, xả. Mỗi khi tâm sinh khởi, ắc phải có một thọ cùng sinh. Quan sát thấy rơ sự có mặt của thọ (1 trong 5 thọ) là Thọ Quán Niệm Xứ. trong tạng Abhidhammā, bộ Vibhanga có ghi rằng: Vị Tỷ Khưu trong Phật giáo:
Hoặc:
Nói tóm lại, quan sát cho thấy rơ sự có mặt của Thọ Uẩn là Thọ Quán Niệm Xứ. Quan sát các Thọ của ḿnh là "Quán thọ trên các nội thọ", quan sát các Thọ của người là "Quán thọ trên các ngoại thọ", quan sát các Thọ của ḿnh và của người (dù thọ nào cũng là thọ: vô thường, khổ năo và vô ngă) là "Quán thọ trên các nội và ngoại thọ". Quán thấy sự sinh khởi của các thọ là "Quán sự sinh trên các thọ", quán thấy sự diệt mất của các thọ là "Quán sự diệt trên các thọ", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của các thọ là "Quán sự sinh diệt trên các thọ". Lấy Thọ làm đề mục thiền quán, Vị Tỷ Khưu an trú trong chánh niệm, hướng đến Bát Chánh Đạo. Vị ấy sống không nương tựa, không đắm nhiễm một vật ǵ trên đời. 409- Tâm Quán Niệm Xứ (Cittānupassanā). V- Thế nào là Tâm Quán Niệm Xứ? Đ- Tâm là sự biết cảnh, nhận thức đối tượng. Tâm có 6: Tâm Nhăn thức (biết cảnh sắc), Tâm Nhĩ thức (biết cảnh thinh), Tâm Tỷ thức (biết cảnh khí), Tâm Thiệt thức (biết cảnh vị), Tâm Thân thức (biết cảnh xúc: đất, lửa, gió), Tâm Ư thức (biết hết 6 cảnh). Như vậy, người hành Tứ niệm xứ:
Khi ư thức tiếp xúc với 6 cảnh:
Tóm lại, khi tâm tiếp xúc với đối tượng có trạng thái như thế nào, hành giả phải quan sát, biết rơ như thế ấy. Thấy rơ Thức Uẩn gọi là Tâm Quán Niệm Xứ. Quan sát tâm ḿnh gọi là "Quán tâm trên nội tâm", quan sát tâm người khác gọi là "Quán tâm trên ngoại tâm", quan sát tâm của ḿnh và của người khác gọi là "Quán tâm trên nội và ngoại tâm". Quán thấy sự sinh khởi của tâm gọi là "Quán sự sinh trên Tâm", quán thấy sự hoại diệt của tâm gọi là "Quán sự diệt trên Tâm", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của tâm gọi là "Quán sự sinh diệt trên Tâm". Đó là Tâm Quán Niệm Xứ. 410- Pháp Quán Niệm Xứ (Dhammānupassanā). V- Thế nào là Pháp Quán Niệm Xứ? Đ- Pháp quán niệm xứ là quan sát tất cả các trạng thái của Danh Sắc trên mọi phương diện, rất vi tế và chi tiết, pháp quán niệm xứ có 5 loại: Ngũ triền cái, Ngũ thủ uẩn, Thập nhị xứ, Thất giác chi và Tứ diệu đế. 411- Quan Sát Năm Triền Cái (Nivarana). V- Thế nào là Quan Sát Năm Triền Cái? Đ- Triền cái là những pháp ngăn che các Thiện Pháp nhứt là Thiền Định và trói buộc Tâm trong ṿng Bất Thiện. Có 5 loại triền cái: Tham dục cái, Sân hận cái, Hôn thụy cái, Trạo hối cái (phóng dật) và Hoài nghi cái. Trong tạng Abhidhamma, bộ Vibhanga có ghi: Vị Tỷ Khưu trong Phật giáo khi quán pháp trên các pháp đối với 5 triền cái:
Tóm lại, khi nội tâm có một trong năm triền cái sinh khởi, hành giả phải biết rơ như ngay. Quan sát thấy năm triền cái của ḿnh gọi là "Quán pháp trên nội pháp", quan sát năm triền cái của người khác gọi là "Quán pháp trên ngoại pháp", quan sát thấy năm triền cái của ḿnh và của người khác gọi là "Quán pháp trên nội và ngoại pháp". Quán thấy sự sinh khởi của năm triền cái gọi là "Quán sự sinh trên pháp", quán thấy sự hoại diệt của năm triền cái gọi là "Quán sự diệt trên pháp", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của năm triền cái gọi là "Quán sự sinh diệt trên pháp". Đó là Pháp Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Năm Triền Cái. 412- Quan Sát Năm Thủ Uẩn (Upādānakkhandho). V- Thế nào là Quan Sát Năm Thủ Uẩn? Đ- Uẩn là khối, nhóm, chùm, đống, tập hợp. Có năm uẩn là: Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn. Sự tham ái, chấp thủ năm uẩn gọi là Ngũ Thủ Uẩn. Khi nội tâm có sự chấp thủ, bám níu uẩn nào, người tu hành phải biết rơ. Ủó chính là Quan Sát Năm Thủ Uẩn vậy.
Quan sát thấy sự chấp thủ năm uẩn của ḿnh gọi là "Quán pháp trên nội pháp", quan sát sự chấp thủ năm uẩn của người khác gọi là "Quán pháp trên ngoại pháp", quan sát sự chấp thủ năm uẩn của ḿnh và của người khác gọi là "Quán pháp trên nội và ngoại pháp". Quán thấy sự sinh khởi của năm uẩn gọi là "Quán sự sinh trên pháp", quán thấy sự hoại diệt của năm uẩn gọi là "Quán sự diệt trên pháp", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của năm uẩn gọi là "Quán sự sinh diệt trên pháp". Đó là Pháp Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Năm Uẩn. 413- Quan Sát Mười Hai Xứ (Āyatana). V- Thế nào là Quan Sát Mười Hai Xứ? Đ- Xứ là nơi, chỗ, vị trí ... Có tất cả là 12 xứ chia thành hai phần: nội xứ và ngoại xứ. 6 Xứ nội là:
6 Xứ ngoại là:
- Người tu Tuệ quán, khi mắt thấy sắc chỉ biết "Đây là mắt, đó là sắc", do hai nguyên nhân nầy, kiết sử (*) sinh khởi, Vị ấy biết rơ như vậy. Với kiết sử chưa sinh khởi, nay sinh khởi (do nhân nào), Vị ấy biết rơ, Với kiết sử đă từng sinh khởi nay được đoạn diệt (do nhân nào), Vị ấy biết rơ; Với kiết sử được đoạn diệt, tương lai không tái phát, Vị ấy biết rơ. - Người tu Tuệ quán, khi tai nghe tiếng chỉ biết ... Tóm lại, người hành Tứ Niệm Xứ, dù đang ở oai nghi nào, khi căn môn tiếp xúc với trần cảnh, Vị ấy phải an trú trong chánh niệm, lúc đó nếu có kiết sử sinh khởi, Vị ấy phải biết rơ. Quan sát các xứ của ḿnh gọi là "Quán pháp trên nội pháp", quan sát các xứ của người khác gọi là "Quán pháp trên ngoại pháp", quan sát các xứ của ḿnh và của người khác gọi là "Quán pháp trên nội và ngoại pháp". Quán thấy sự sinh khởi của các xứ gọi là "Quán sự sinh trên pháp", quán thấy sự hoại diệt của các xứ gọi là "Quán sự diệt trên pháp", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của các xứ gọi là "Quán sự sinh diệt trên pháp". Đó là Pháp Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Mười Hai Xứ.
414- Quan Sát Thất Giác chi (Bojjhanga). V- Thế nào là Quan Sát Thất Giác Chi? Đ- Thất Giác Chi (hay Thất Bồ Đề Phần) là bảy pháp làm cho tỏ ngộ Thánh Đế, thấy rơ Niết-Bàn, đắc chứng đạo quả. Tạng Abhidhamma, bộ Vibhanga có giải về Thất Giác Chi như sau:
Người hành Tứ Niệm Xứ, khi nội tâm có Niệm giác chi, Vị ấy biết rơ; khi nội tâm không có Niệm giác chi, Vị ấy biết rơ; với Niệm giác chi chưa sinh khởi, nay sinh khởi, Vị ấy biết rơ; với Niệm giác chi đă sinh khởi nay được tu tập viên thành, Vị ấy biết rơ. - Khi nội tâm có Thẩm giác chi ... Tóm lại, người hành Tứ Niệm Xứ, dù đang ở oai nghi nào, khi trong tâm có pháp bồ đề phần sinh khởi, Vị ấy phải biết rơ. Quan sát thấy Thất Giác Chi của ḿnh gọi là "Quán pháp trên nội pháp", quan sát thấy Thất Giác Chi của người khác gọi là "Quán pháp trên ngoại pháp", quan sát thấy Thất Giác Chi của ḿnh và của người khác gọi là "Quán pháp trên nội và ngoại pháp". Quán thấy sự sinh khởi của Thất Giác Chi gọi là "Quán sự sinh trên pháp", quán thấy sự hoại diệt của Thất Giác Chi gọi là "Quán sự diệt trên pháp", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của Thất Giác Chi gọi là "Quán sự sinh diệt trên pháp". Đó là Pháp Quán Niệm Xứ về phần Quan Sát Thất Giác Chi. 415- Quan Sát Tứ Diệu Đế (Ariyasacca). V- Thế nào là Quan Sát Tứ Diệu Đế? Đ- Tứ Diệu Đế là bốn sự thật siêu việt, cũng gọi là bốn thánh đế (tức là bốn sự thật mà các vị thánh nhân thấy rơ và biết rơ). Bốn sự thật ấy là khổ diệu đế, tập diệu đế, diệt diệu đế, đạo diệu đế. 416- Khổ Diệu Đế (Dukkhāriyasacca). V- Thế nào là Khổ Diệu Đế? Đ- Khổ Diệu Đế là sự bất toàn, vô thường, trống không, giả tạm, bất toại nguyện. Nói theo điều pháp th́ khổ đế là chỉ cho sinh, già, chết, sầu, bi, khổ, ưu, ai, muốn không đặng; tóm lại chấp thủ năm uẩn là khổ. Tạng Abhidhamma, tập Duyên Khởi (paticasamuppāda) giải: Sinh là sự sinh khởi của Danh và Sắc (ngũ uẩn), Già là sự củ kỹ tức sát na trụ của Danh và Sắc. Chết là sự tiêu hoại của Danh và Sắc trong từng sát na, chấm dứt một kiếp sống. Sầu là sự phiền muộn, buồn rầu. Bi là sự khóc than, bi thán, ai bi. Khổ là sự khổ khổ (khổ thân và khổ tâm), hoại khổ (lạc cực sinh bi), hành khổ (ngũ uẩn sanh diệt). Ưu là sự lo buồn, bi năo. Cầu bất đắc là sự mong cầu đừng sinh, đừng già, đừng chết, đừng gặp chuyện sầu bi, khổ năo nhưng không được như ư. chấp thủ năm uẩn là sự tham ái chấp vào Sắc uẩn, Thọ uẩn, Tưởng uẩn, Hành uẩn và Thức uẩn. Đó chính là Khổ Diệu Đế. 417- Tập Diệu Đế (Samudayāriyasacca). V- Thế nào là Tập Diệu Đế? Đ- Tập Diệu Đế là nguyên nhân sinh ra sự khổ, chính ḷng Tham ái là Khổ Tập Diệu Đế. Khổ Tập Diệu Đế có ba loại: Dục ái, Hữu ái và Phi Hữu ái.
418- Diệt Diệu Đế (Nirodhāriyasacca). V- Thế nào là Diệt Diệu Đế? Đ- Tạng Abhidhamma, bộ Vibhanga có giải: Diệt tận tham ái là Diệt Diệu Đế. Đối với các sắc thân ái, khả ái, tức mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ư, các sắc, các thinh, các khí, các vị, các xúc và các pháp. Sự tham ái đoạn diệt như nước chẳng đọng lá sen đó là Diệt Diệu Đế.
Tập Diệu Đế và Diệt Diệu Đế khác nhau ở chỗ Tham ái sinh và Tham ái diệt đối với pháp trần do đó nên có câu "Phiền năo tức Bồ đề, Niết-Bàn đồng sinh tử". 419- Đạo Diệu Đế (Maggāriyasacca). V- Thế nào là Đạo Diệu Đế? Đ- Tạng Abhidhamma, bộ Vibhanga có giải: Đạo Diệu Đế chính là Bát Thánh đạo gồm có 8 chi: Chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm và chánh định.
Tóm lại, người hành Tứ Niệm Xứ, dù đang ở oai nghi nào luôn luôn phải có chánh niệm (biết rơ) đối với các pháp. Phải biết rơ "Đây là sự khổ, đây là nhân sinh khổ, đây là sự diệt khổ và đây là con đường đưa đến diệt khổ". Quan sát thấy bốn Diệu Đế trong thân gọi là "Quán pháp trên nội pháp", quan sát thấy bốn Diệu Đế ngoài thân gọi là "Quán pháp trên ngoại pháp", quan sát thấy bốn Diệu Đế trong thân và ngoài thân gọi là "Quán pháp trên nội và ngoại pháp". Quán thấy sự sinh khởi của bốn Diệu Đế gọi là "Quán sự sinh trên pháp", quán thấy sự hoại diệt của bốn Diệu Đế gọi là "Quán sự diệt trên pháp", quán thấy sự sinh khởi và hoại diệt của bốn Diệu Đế gọi là "Quán sự sinh diệt trên pháp". Đó là Pháp Quán Niệm Xứ về phần Tứ Diệu Đế. Lưu ư: Danh từ "Diệu Đế" là nói chung, hành giả chỉ thấy một ... và sự sinh, đây là đang thấy ... chứ đừng hiểu Niết-Bàn có sinh diệt ! Tứ Niệm Xứ là pháp tu Chỉ Quán v́ cũng những đề mục đó (như đề mục tử thi, hơi thở, ...) nếu hành giả hành theo thiền chỉ (Samatha) th́ sẽ đắc Định, c̣n nếu hành theo thiền quán (Vipassanā) th́ sẽ đắc tuệ. Sau đây chúng tôi sẽ tŕnh bày tiếp phương pháp tu Thiền Chỉ và Thiền Quán cho những vị muốn nghiên cứu Thiền cũng như những người muốn tu tập Thiện Định có tài liệu giải về Thiền. 420- Thiền Chỉ Tịnh (Samatha). V- Thế nào là "Thiền Chỉ Tịnh"? Đ- Thiền là sự thiêu đốt triền cái (Nīvaraṇa); Chỉ là ngưng, trụ, đ́nh chỉ, tức là một thứ tâm diễn tiến liên tục vô số sát na mà không bị một thứ tâm nào khác xen vào sinh khởi; Tịnh là trong sạch v́ tâm thiền chỉ biết một cảnh mà thôi, ngoài đề mục thiền định, tâm thiền không hề biết một cảnh nào khác. Samathakammaṭṭhāṇa là Chỉ Hành Xứ gồm các đề mục được chia ra thành 7 phần như sau:
421- Đề Mục Hoàn Tịnh (Kasiṇa). V- Thế nào là Đề mục Hoàn Tịnh? Đ- Kasiṇa là đề mục hành thiền bằng sắc pháp, hành giả trụ tâm trên những đề mục ấy cho đến khi chỉ c̣n là ấn tượng của tư tưởng mà thôi. 10 đề mục Kasiṇa có khả năng đắc từ Sơ thiền đến Ngũ thiền. 10 đề mục kasiṇa ấy là: Đất (Pathavīkasiṇa), Nước (Āpokasiṇa), Lửa (Tejekasina), Gió (Vāyokasiṇa), Xanh (Nīlakasiṇa), Vàng (Pītakasiṇa), Đỏ (Lohitakasiṇa), Trắng (Odātakasiṇa), Hư không (Ākāsakasiṇa), Ánh sáng (Ālokakasiṇa). Hành giả hành thiền bằng đề mục Đất, lấy đất sét màu hồng như mặt trời mới mọc, nện cho bằng phẳng, làm thành h́nh tṛn, đường kính một gang bốn ngón tay (gang tay của hành giả), rồi để đề mục ấy cách hành giả hai hắc một gang tay rồi chú tâm vào đề mục (buổi đầu hành giả có thể niệm thầm Đất, Đất, ...). Tư cách đó gọi là Parikammanimitta (chuẩn bị tướng); hành giả chú tâm vào đề mục hoàn toàn, h́nh ảnh của đề mục luôn hiện ra rơ rệt dù hành giả có nhắm mắt đi nữa, trạng thái nầy gọi là Uggahanimitta (thủ cảnh tướng); hành giả tiếp tục tu tập đề mục ấy cho đến khi h́nh ảnh của đề mục trở thành một ṿng tṛn trong sáng, tướng trạng này được gọi là Patibhāganimitta (tợ quang tướng). 422- Đề Mục Bất mỹ (Āsubha). V- Thế nào là Đề mục Bất mỹ? Đ- Āsubha hay bất mỹ là đề mục hành thiền bằng tử thi. Hành giả tập trung tư tưởng trên một tử thi đă chọn, gom tâm h́nh dung tủ thi ấy măi cho đến khi h́nh ảnh của tử thi ấy trở thành một ấn tượng thuần túy trong tâm hành giả; đề mục tử thi có năng lực đối trị ḷng tham ái sắc dục và có khả năng đắc chứng Sơ thiền. Āsubha có 10 đề mục là:
423- Đề Mục Niệm (Anussati). V- Thế nào là Đề mục Niệm? Đ- Anussati hay niệm hoặc phụ niệm là những đề mục hành thiền mà hành giả chọn một trong những hồng danh rồi học thuộc ḷng những ư nghĩa, ân đức của hồng danh đó, khi hành thiền, hành giả niệm thầm hồng danh đó liên tục. trong 10 đề mục Anusati, trừ hai đề mục niệm thân và sổ tức, tám đề mục c̣n lại chỉ có thể đưa hành giả đạt đến cận định mà thôi. 10 đề mục đó là:
424- Đề Mục Phạm Trú (Brahmavihāra). V- Thế nào là Đề Mục Phạm Trú? Đ- Brahmavihāra (Phạm trú) hay c̣n được gọi là đề mục Tứ vô lượng tâm (Appamaññā), trong đề mục này hành giả phải hiểu rơ ư nghĩa, đức tánh của những pháp này, bốn đề mục Brahmavihāra là bốn đức tánh đặc biệt của chư vị Phạm thiên. Hành giả phải điều dưỡng, tập luyện tâm tánh ḿnh cho đúng với bốn đức tánh ấy rồi biến măn, truyền răi đức tánh ấy đến các chúng sanh trong khắp phương hướng, giống như người làm vườn, sau khi bơm nước đầy hồ rồi cầm ṿi nước đi phun tưới các cây cỏ chung quanh. Trong bốn đề mục phạm trú, trừ đề mục xả, các đề mục c̣n lại có năng lực giúp hành giả đắc chứng từ Sơ thiền đến Tam thiền (hay Tứ thiền nếu nói theo Abhidhamma). Bốn đề mục đó là: Từ (Mettā), Bi (Karuṇā), Hỷ (Muditā), Xả (Upekkhā). 425- Đề Mục Vô Sắc (Arūpa). V- Thế nào là Đề Mục Vô Sắc? Đ- Arūpa hay vô sắc là những đề mục hành thiền hoàn toàn không h́nh sắc, chỉ do khái niệm về đề mục và hồi quang phản chiếu đề mục bằng tâm ḿnh đă chứng. Như tâm thiền Không vô biên và Vô sở hữu là do khái niệm về đề mục mà đắc, c̣n tâm thiền Thức vô biên do quán lại tâm thiền Không vô biên của ḿnh và tâm thiền Phi tưởng phi phi tưởng do xét lại tâm thiền Vô hữu xứ mà đắc. Bốn đề mục vô sắc và đề mục xả chỉ dành riêng cho người đă chứng đắc Tam thiền (hay Tứ thiền nếu nói theo Vi Diệu Pháp) luyện tập để chứng đắc Tứ thiền (hay Ngũ thiền). Bốn đề mục Arūpa là:
426- Đề Mục Tưởng (Saññā). V- Thế nào là Đề Mục Tưởng? Đ- Saññā hay tưởng là cách hành thiền mà hành giả phải ghi nhớ đề mục cho thật kỷ (thật chi tiết), đề mục này giúp hành giả nhàm chán các pháp hữu vi, xa ĺa sự đắm nhiễm ngũ trần. Đề mục Saññā có thể giúp hành giả đạt đến cận định hay nếu hành thiền Quán (Vipassanā) th́ cũng giúp hành giả có nhiều kết quả tốt. 10 đề mục Saññā là:
427- Đề Mục Phân Biệt (Vavaṭṭhāna). V- Thế nào là Đề Mục Phân Biệt? Đ- Vavaṭṭhāna hay phân biệt là đề mục mà khi hành thiền hành giả phải phân tích Tứ Đại trong thân cho rơ ràng theo từng thứ loại. Đề mục Vavaṭṭhāna được phân ra như sau: Trong thân chất Đất có 20 thứ: Tóc, lông, móng, răng, da, thịt, gân, xương tủy, thận, tim, gan, óc, phổi, dạ dầy, màng ruột, ruột già, ruột non, vật thực, phân. Trong thân chất Nước có 12 thứ: Mật, đàm, mủ, máu, nước mắt, mở đặc, mồ hôi, dầu da, nước miếng, nước mũi, nước nhớt và nước tiểu. Trong thân chất Lửa có 4 thứ: Lửa làm cho ấm thân, lửa làm cho thân xác khô khan, lửa làm cho thân nóng nảy, lửa làm cho tiêu hóa vật thực. Trong thân chất Gió có 6 thứ: Gió thổi lên, gió thổi xuống, gió ngoài ruột, gió trong ruột, gió làm chuyển động thân, gió theo hơi thở ra vô.Những đề mục Thiền Định vừa kể trên, nếu hành giả muốn được kết quả mỹ măn th́ trước khi hạ thủ công phu cần phải biết rơ tính nết của ḿnh rồi chọn đề mục thích hợp với cá tánh. Căn tính chúng sanh đại khái có thể chia ra thành 6 loại. 428- Căn Tánh Của Hành Giả (Carito). V- Thế nào là Căn Tánh của Hành Giả? Đ- Carito là căn tánh và được chia ra làm 6 loại như sau:
Hành giả cần phải trắc nghiệm để biết rơ tính nết của ḿnh, sau đó chọn một trong những đề mục sau đây (chỉ chọn đề mục thích hợp với tánh nết của ḿnh mà hành):
Hành giả sau một thời gian tu tập, có thể chứng đắc các loại thiền định theo thứ lớp và chế ngư được các triền cái sau đây: 429- Năm Triền Cái (Nīvarana). V- Thế nào là Năm Triền Cái? Đ- Nīvarana hay triền cái là các pháp ngăn che thiện pháp nhứt là các đạo quả thiền định. 5 pháp triền cái đó là:
Muốn chế ngự được năm triền cái này hành giả cần phải phát triển năm thiên chi. 430- Năm Thiền Chi (Jhānanga). V- Thế nào là Năm Thiền Chi? Đ- Jhānanga hay thiền chi là những sở hữu tâm hợp trong các tâm thiền, có khả năng đối trị các nghịch pháp nhất là năm triền cái. Năm thiền chi là:
Hành giả sau khi phát triển được các chi thiền trên, muốn chứng các tầng thiền cao hơn cần phải tu tập và phát triển năm pháp tự tại vô ngại. 431- Năm Pháp Tự Tại (Vasī). V- Thế nào là Năm Pháp Tự Tại? Đ- Vasī hay tự tại vô ngại là các pháp trao dồi thiền định cho được thuần thục. Năm phương pháp đó là:
Hành giả sau khi thuần thục được 5 pháp Vasī, tuần tự chứng lên các bậc thiền cao hơn, khi chứng đến Tứ thiền (hay Ngũ thiền theo Abhidhammā) hành giả có thể phát triển 5 loại diệu trí (Tâm Thông - Abhiññā). Tâm Thông là thành quả cùng tột của phương pháp tu Thiền Chỉ (Samatha). 432- Năm Diệu Trí (Abhiññā). V- Thế nào là Năm Diệu Trí? Đ- Abhiññā hay Diệu trí hoặc Thần thông là thắng trí đặc biệt, biến hóa phi thường, hiểu biết kỳ diệu, hành động siêu việt ngoài sự việc thông thường. Năm Diệu trí ấy là:
Hành giả nếu tu tập theo các phương pháp Thiền Chỉ th́ năm Diệu trí là thành quả cao nhất nhưng không thể chứng được Lậu Tận Trí (Āsavakkhayaññāṇa) v́ Lậu tận trí là pháp xuất thế gian và chỉ có ở các bậc A-La-Hán mà thôi. Nếu muốn chứng Lậu Tận Trí hay muốn chứng quả A-La-Hán, hành giả phải gia công tu tập Thiền Quán (Vipassanā) 433- Thiền Quán hay Minh Sát Tuệ (Vipassanā). V- Thế nào là Thiền Quán? Đ- Vipassanā được dịch là Thiền Quán hay Minh Sát Tuệ là phương pháp tu tập dùng trí tuệ quan sát tất cả mọi sự vật cho thấy rơ thực tướng để dứt trừ các phiền năo hầu đạt đến giải thoát, giác ngộ. Nếu Thiền Chỉ là phương pháp định tâm để chế ngự các triền cái th́ Thiền Quán là pháp tản tâm để diệt sạch phiền năo. Cổ nhơn có sự so sánh như sau: Thiền chỉ như tay nắm cỏ, Thiền Quán như lưỡi liềm cắt cỏ; Thiền Chỉ như cào móc rác, Thiền Quán như nước rửa bụi; Thiền Chỉ như đứng tấn vững, Thiền Quán như lẫy tên bắn; Thiền Chỉ là ngăn tâm động, Thiền Quán là khơi tâm ch́m. Trong bảy pháp thanh tịnh, th́ hai pháp đầu là của Thiền Chỉ, năm pháp sau thuộc về Thiền Quán. 434- Thất Tịnh (Visuddhi). V- Thế nào là Thất Tịnh? Đ- Visuddhi hay Thanh tịnh là pháp môn tu tập có năng lực trong sạch hóa hành giả từ thấp lên cao, từ phàm sang thánh, gồm có bảy pháp được ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất) ví như bảy trạm xe đưa đến cứu cánh là Đạo, Quả và Niết-Bàn. Bảy pháp thanh tịnh đó là:
435- Giới Tịnh (Sīlavisuddhi). V- Thế nào là Giới Tịnh? Đ- Sīlavisuddhi hay Giới tịnh là người tu hành trước nhứt phải ǵn giữ cho được trong sạch th́ tâm mới được thanh tịnh. Giới thanh tịnh có 4 là:
436- Tâm Tịnh (Cittavisuddhi). V- Thế nào là Tâm Tịnh? Đ- Cittavisuddhi hay tâm tịnh là hành giả tư thiền định được nhập định hay sắp nhập định, tâm được yên lặng các triền cái, tâm tịnh có 2 là:
437- Kiến Tịnh (Diṭṭhivisuddhi). V- Thế nào là Kiến Tịnh? Đ- Diṭṭhivisuddhi hay Kiến Tịnh là với trí tuệ hành giả thấy rơ người, thú, .v.v. chỉ là một tổ hợp của năm uẩn (Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức) hay nói cách khác là Danh và Sắc. Chúng là những nguồn hiện tượng luôn luôn sinh diệt, biến hoại, thay đổi dưới ba định luật tự nhiên (tam tướng) là Vô thường, Khổ năo và Vô ngă. Ở đó không có một tự ngă, một linh hồn hay một cá thể nào đơn thuần và bất biến. Hành giả c̣n nhận thấy rằng đối với sắc pháp hay thân xác được h́nh thành bởi bốn yếu tố Nghiệp, Tâm, Âm dương và Vật thực; đối với tâm pháp, hành giả biết rơ chúng cũng có những nguyên nhân phát sinh như Nhăn thức chẳng hạn, nó được sinh khởi bởi bốn nguyên nhân là có Cảnh sắc, có Nhăn vật, có Ánh sáng và có sự Tác ư. Những hiểu biết đó chính là Tri Kiến trong sạch vậy. 438- Đoạn Nghi Tịnh (Kankhāvitaraṇavisuddhi). V- Thế nào là Đoạn Nghi Tịnh? Đ- Kankhāvitaraṇavisuddhi hay Đoạn nghi tịnh là với trí tuệ, hành giả biết rơ chúng sinh là do nhân duyên tạo thành chứ không phải do một Đấng tạo chủ nào sinh ra, càng không phải tự nhiên sinh hay vô nhân sinh. Hành giả biết rằng khi chưa chứng được quả vị A-La-Hán th́ sau khi chết cũng không phải là tiêu mất; những đời sống của các loài hữu t́nh luôn luôn tiếp nối cả một chuỗi dài vô tận. Mỗi chúng sinh hiện diện đều do năm nhân quá khứ là Vô minh, Hành, Ái, Thủ, Hữu chi phối và nhờ vật thực hiện tại nuôi dưỡng để được sống c̣n. Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ hiện tại là thành quả của năm nhân quá khứ. Hành giả biết rằng Ái, Thủ, Hữu, Vô minh và Hành trong hiện tại là nhân cho Thức, Danh sắc, Lục nhập, Xúc, Thọ, Sanh, Già, Đau, Chết, Ưu, Ai, Khổ năo trong tương lai sẽ tái diễn. Nhờ ư thức được như thế, hành giả không c̣n nghi ngờ về quá khứ, hiện tại, vị lai của mỗi chúng sanh nữa, đó gọi là Đoạn Nghi Tịnh. 439- Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh (Maggāmagganānadassanavisuddhi). V- Thế nào là Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh? Đ- Maggāmagganāṇadassanavisuddhi hay Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh là hành giả nhờ quán sát về ba tướng Vô Thường, Khổ Năo và Vô Ngă biết rơ chơn tướng của các pháp hữu vi ... Th́nh ĺnh tự thân hành giả phát ra ánh sáng phỉ lạc .v.v. là 10 phiền năo của Minh Sát Tuệ. Khi Hàng giả vượt qua được muời phiền năo này, hành giả sẽ phân biệt được thế nào là Đạo, thế nào là Phi Đạo. Mười phiền năo của Thiền Quán là:
Khi hành giả liễu tri, thắng quá mười pháp Upakkilesa gọi là Đạo Phi Đạo Tri Kiến Tịnh. 440- Tiến Hành Tịnh (Patipadāñāṇadassanavisuddhi). V- Thế nào là Tiến Hành Tịnh? Đ- Pa ipadāñāṇadassanavisuddhi hay Tiến Hành Tịnh là sau khi vượt qua mười phiền năo của Thiền quán, hành giả tiếp tục quán về tam tướng (Vô thường, Khổ năo và Vô ngă) cho đến khi chánh trí phát sanh, thành tựu đạo quả, chứng ngộ Niết-Bàn. Chánh trí có mười thứ là:
Sau Chuyển Tộc Trí th́ Đạo Quả khởi lên, vừa sát trừ phiền năo, vừa thấu rơ Niết-Bàn; đến đây, hành giả đă thanh tịnh hóa các phiền năo nên gọi là Tiến Hành Tịnh. 441- Tri Kiến Tịnh (Ñāṇadassanavisuddhi). V- Thế nào là Tri Kiến Tịnh? Đ- Ñaṇadassanavisuddhi hay Tri Kiến Tịnh là trí tuệ giác hiểu: Khổ đế nên biết, Tập đế nên diệt, Diệt đế nên chứng và Đạo đế nên hành. Vị nầy thấy rơ rằng tất cả các chúng sanh đều bị các sự đau khổ như già, bệnh, chết, sầu, ưu, bi, năo, .v.v. chi phối, các sự đau khổ nấy do Sinh làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt sự sinh, từ đó các sự đau khổ bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy sự sinh là nguyên nhân tập khởi các khổ. Sinh có bốn loại: Noăn sinh, Thai sinh, Thấp sinh và Hóa sinh; bốn thứ sinh nầy đều do Hữu làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Hữu, từ đó Sinh bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Hữu là nguyên nhân tập khởi các sự sinh. Hữu có ba loại: Dục Hữu, Sắc Hữu và Vô Sắc Hữu; ba thứ Hữu nầy đều do Thủ làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Thủ, từ đó Hữu bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Thủ là nguyên nhân tập khởi các Hữu. Thủ có bốn loại: Dục Thủ, Tà Kiến Thủ, Tà Giới Thủ và Ngă Chấp Thủ; bốn thứ Thủ nầy đều do Ái làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Ái, từ đó Thủ bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Thọ là nguyên nhân tập khởi các Ái. Thọ có năm loại: Thọ Khổ, Thọ Lạc, Thọ Ưu, Thọ Hỷ và Thọ Xả; năm thứ Thọ nầy đều do Xúc làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Xúc, từ đó Thọ bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Xúc là nguyên nhân tập khởi các Thọ. Xúc có sáu loại: Nhăn Xúc, Nhĩ Xúc, Tỷ Xúc, Thiệt Xúc, Thân Xúc và Ư Xúc; sáu thứ Xúc nầy đều do Lục Nhập làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Lục Nhập, từ đó Xúc bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Lục Nhập là nguyên nhân tập khởi các Xúc. Lục Nhập là 12 Xứ ghép lại thành sáu loại: Nhăn Nhập, Nhĩ Nhập, Tỷ Nhập, Thiệt Nhập, Thân Nhập và Ư Nhập; sáu thứ Nhập nầy đều do Danh Sắc làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Danh Sắc, từ đó Lục Nhập bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Danh Sắc là nguyên nhân tập khởi Lục Nhập. Danh là Thọ, Tưởng, Hành và Thức; Sắc là Sắc Tứ Đại và 24 Sắc Y Đại Sinh; tất cả Danh Sắc nầy đều do Thức làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Thức, từ đó Danh Sắc bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Thức là nguyên nhân tập khởi Danh Sắc. Thức là 32 tâm quả hiệp thế phân ra thành sáu loại: Nhăn Thức, Nhĩ Thức, Tỷ Thức, Thiệt Thức, Thân Thức và Ư Thức; sáu thứ Thức nầy đều do Hành làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Hành, từ đó Thức bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Hành là nguyên nhân tập khởi các Thức. Hành có ba loại: Thân Hành, Khẩu Hành và Ư Hành hay phân theo cách khác là Phúc Hành, Phi Phúc Hành và Bất Động Hành; các Hành nầy đều do Vô Minh làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Vô Minh, từ đó Hành bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Vô Minh là nguyên nhân tập khởi các Hành. Vô Minh là sự mù mờ, mê muội, không thấy rơ sự thật; Vô Minh phân ra thành bốn loại: Bất tri Khổ đế, Bất tri Tập đế, Bất tri Diệt đế và Bất tri Đạo đế; tất cả các Vô Minh đều do Lậu Hoặc làm nhân tập khởi; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Lậu Hoặc, từ đó Vô Minh bị đoạn diệt và Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Vị nầy quán sát tiếp tục, thấy Lậu Hoặc là nguyên nhân tập khởi các Vô Minh. Lậu Hoặc có ba loại: Dục Lậu, Hữu Lậu và Tà Kiến Lậu; từ tập khởi Vô Minh nên có tập khởi của Lậu Hoặc; từ đoạn diệt Vô Minh nên Lậu Hoặc bị đoạn diệt; chính Niết-Bàn là pháp đoạn diệt Vô Minh và Lậu Hoặc, Bát Chánh Đạo là con đường duy nhất đưa đến Niết-Bàn. Khi quán sát thấy rơ Tứ Diệu Đế trong Thập Nhị Nhân Duyên như vậy là hành giả đă thành tựu một trong bốn thánh quả. Và sau khi chứng Đạo Quả, hành giả có thể quán sát lại Đạo quả Niết-Bàn và các phiền năo đă sát trừ, sự quán sát này được gọi là Phản Khán Trí. 442- Phản Khán Trí (Paccavekkhaṇañāṇa). V- Thế nào là Phản Khán Trí? Đ- Paccavekkhaṇañāṇa hay Phản Khán Trí là trí tuệ của vị thánh nhân quán xét lại Đạo Quả mà ḿnh vừa chứng đắc, Niết-Bàn ḿnh vừa tỏ ngộ và phiền năo ḿnh vừa sát trừ. Đối với vị Tu-Đà-Hườn th́ phản khán trí khởi lên xét thấy Thân Kiến, Hoài Nghi và Tà giới thủ đối với ḿnh đă tiêu diệt hoàn toàn do Đạo Quả ḿnh vừa chứng đắc, chắc chắn rằng ḿnh sẽ không c̣n tục sinh vào bốn cảnh khổ (Địa ngục, Ngạ quỉ, A-Tu-La và Bàng sanh), sau đời sống nầy, sẽ không quá 7 kiếp sinh lại cơi Dục Giới. Vị Tu-Đà-Hườn hiểu biết chắc chắn như vậy. Đối với vị Tư-Đà-Hàm th́ phản khán trí khởi lên xét thấy Dục Ái và Sân Hận đối với ḿnh nay đă giảm nhẹ do Đạo Quả ḿnh vừa chứng đắc, sau đời sống nầy, sẽ không quá 1 kiếp sinh lại cơi Dục Giới. Vị Tư-Đà-Hàm hiểu biết chắc chắn như vậy. Đối với vị A-Na-Hàm th́ phản khán trí khởi lên xét thấy Dục Ái và Sân Hận đối với ḿnh đă tiêu diệt hoàn toàn do Đạo Quả ḿnh vừa chứng đắc, sau đời sống nầy, sẽ sinh về cơi Sắc Giới (Ngũ Tịnh Cư) chứ không sinh lại cơi Dục Giới. Vị A-Na-Hàm hiểu biết chắc chắn như vậy. Đối với vị A-La-Hán th́ phản khán trí khởi lên xét thấy tất cả phiền năo c̣n lại như Sắc Ái, Vô Sắc Ái, Ngă Mạn, Vô Minh, .v.v. đối với ḿnh nay đă tiêu diệt hoàn toàn do Đạo Quả ḿnh vừa chứng đắc, sau đời sống nầy sẽ không c̣n đời sông khác tái diễn. Vị A-La-Hán hiểu biết chắc chắn như vậy. Trí tuệ quán như vậy gọi là Phản Khán Trí của các bậc thánh nhơn. Tuy nhiên, cũng có những vị thánh nhơn sau khi chứng quả không quán sát lại các phiền năo đă sát trừ và những phiền năo chưa sát trừ. Điều đáng kể là hành giả phải tu tập Minh Sát Tuệ (Vipassanā), khi tu tập phải lấy tam tướng phổ thông (Tīnilakkhaṇāni) làm đề mục (là Vô thường, Khổ năo và Vô ngă). Trí tuệ đầu tiên của pháp tu Thiền Quán gọi là Thẩm Nghiệm Trí. 443- Thẩm Nghiệm Trí (Sammasaññañāṇaṃ). V- Thế nào là Thẩm Nghiệm Trí? Đ- Sammasaññañāṇaṃ hay Thẩm Nghiệm Trí là trí tuệ suy xét về ngũ uẩn là Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức. Sắc uẩn dù quá khứ, hiện tại, vị lai, bên trong, bên ngoài, sắc thô, sắc tế, sắc hạ liệc, sắc thù thắng, sắc viễn, sắc cận, .v.v. đều là Vô thường, Khổ năo và chúng chẳng phải là ta hay là của ta. Thọ uẩn dù là thọ đă qua hay đang hiện hữu hoặc chưa sanh khởi, thọ bên trong, thọ bên ngoài, thọ thô, thọ tế, thọ gần, thọ xa đều là không thường hằng, đều là thống khổ, phi ngă và phi ngă sở. Tưởng uẩn dù tưởng quá khứ, tưởng hiện tại, tưởng vị lai, tưởng nội phần, tưởng ngoại phần, tưởng thô, tưởng tế, tưởng hạ liệc, tưởng thù thắng, tưởng xa, tưởng gần, đều là Vô thường, Khổ năo, phi ngă và phi ngă sở. Hành uẩn dù quá khứ hành, hiện tại hành, vị lai hành, nội phần hành, ngoại phần hành, thô hành, tế hành, hạ liệc hành, thù thắng hành, hành, cận hành, đều là Vô thường, đau khổ, chẳng phải là ta hay của ta. Thức uẩn dù quá khứ, hiện tại, vị lai, hoặc bên trong, hoặc bên ngoài, hoặc thô hay tế, hoặc tốt hay xấu, hoặc gần hay xa, đều là Vô thường, Khổ năo, chẳng phải là ta hay của ta. Trí tuệ sơ khởi của người hành thiền quán (Vipassanā) là suy xét như trên, trí tuệ ấy được gọi là Thẩm Nghiệm Trí. Điều cần phải biết là lúc này hành giả y cứ vào ngũ uẩn (hay Danh sắc) làm đề mục, ghi nhận đúng những ǵ xảy ra nơi Danh và Sắc trong hiện tại; dần dần hành giả sẽ thấy rơ thật tướng của ngũ uẩn là vô thường, khổ năo và vô ngă. Tuy nhiên không phải ai cũng có thể thấy hết ba thực tướng đó; tùy theo cá tánh của mỗi người chúng được chia thành ba loại để quán:
Hành giả nào nhờ quán về Vô thường mà được giải thoát, gọi là Vô Tướng Giải Thoát (Animittovimokkho); nhờ quán về Khổ năo mà được giải thoát th́ gọi là Vô Nguyện Giải Thoát (Appanihitovimokkho); nhờ quán về Vô ngă mà được giải thoát th́ gọi là Không Tánh Giải Thoát (Suññatāvimokkho). Hành giả nhờ tu tập ba pháp môn nói trên mà được giải thoát nên chúng c̣n được gọi là Tam Giải Thoát Môn (Tīnimokkhamukkha). Hành giả do quán Vô thường, không c̣n chấp tướng thường mà được giải thoát, nên Vô Thường Tùy Quán c̣n được gọi là Vô Tướng Giải Thoát Môn; do quán Khổ năo, hành giả không tham đắm dục lạc mà được giải thoát, nên Khổ Năo Tùy Quán c̣n được gọi là Vô Nguyện Giải Thoát Môn; do quán Vô ngă, hành giả nhờ không c̣n chấp vào tự ngă mà được giải thoát, nên Vô Ngă Tùy Quán c̣n được gọi là Không Tánh Giải Thoát Môn. - HẾT - |
Chân thành cám ơn anh Lê Trung Thành đă gửi tặng bản vi tính (B́nh Anson, 11-2003)
[Trở về
trang Thư Mục]
last updated: 21-01-2004