Hành Tŕnh Tâm Linh - Varanasi |
|
"Ngày 21 tháng 3 năm 2010 - tại
Varanasi, đi thăm sông Hằng, Viện Bảo Tàng, vườn
Lộc Uyển.
Kinh Chuyển Pháp Luân do TT Giác Đẳng giảng cho Phật tử hành hương tại vườn Lộc Uyển -- |
|
Ngày 21 tháng 3 năm
2010. Đồng
hồ báo thức
lúc 4:30 và 5 giờ
chúng tôi ra xe bus để
đến sông Hằng.
Gịng sông Hằng
là một trong những
gịng sông nổi tiếng của Ấn Độ
thậm chí đă
trở thành một
thứ dùng từ
ngữ dân gian
thí dụ như
người ta nói
"hằng hà
sa số" nghĩa là số cát của
sông Hằng chỉ
cho cái ǵ mà không thể đếm
được,
là một gịng sông được
xem như rất
nổi tiếng ở
trong Ấn Giáo tức
là Bà la môn giáo, bắt
nguồn từ
Hi Mă Lạp Sơn
của Trung Bộ Ấn Độ
và chảy theo hướng
Đông Nam qua
Bangladesh và chảy vào vịnh Bengal. Tên của
sông đặt
theo tên vị nữ
thần Hindu Ganga. Sông Hằng có lưu
vực rộng 907.000 km², một trong những
khu vực ph́ nhiều và có mật độ
dân cao nhất thế giới. Và ở
tại đây ta
có thể thấy là bên tây ngạn th́ cất
rất nhiều đền
đài trong lúc đó
th́ bên đông
ngạn để
trống tại v́ họ có thể thấy
mặt trời
mọc vào buổi sáng sớm.
Người
Ấn Độ
nói với nhau rằng
"nếu trong đời
mà có thể được
trút hơi thở
cuối cùng tại Ba Na Nại và sau khi chết
xong thi thể được
hoả táng và rải xuống sông Hằng,
đó là một
đại phúc
trong đời của
những người
theo Ấn Giáo.
|
Những tử thi bên bờ sông Hằng được tưới nước sông Hằng và chờ hoả táng |
Buổi sáng bên bờ sông hằng mặt trời tuy chưa mọc nhưng đă có rất đông tín đồ của Ấn Giáo tụ tập để tham dự các buổi lễ cầu nguyện theo truyền thống của Ấn Giáo. Chúng tôi lặng lẽ đi bên nhau vừa đi vừa quan sát khung cảnh sông Hằng vào buổi rạng đông. Khác với lần trước năm 2004 khi tôi bước chân lên thuyền để thuyền trôi lặng lẽ trên gịng sông Hằng th́ một cảm xúc mănh liệt làm rung động ḷng tôi là tôi quá nhỏ bé trong một vũ trụ bao la và rồi khi chết đi th́ cát bụt trở về với cát bụi ḿnh không là ǵ trong một thế giới to lớn này, có lẽ v́ lần đó là lần đầu tiên được đến chiêm ngưỡng gịng sông lịch sử nổi tiếng trong Phật Giáo cho nên tôi đă có cảm xúc đó. Lần này th́ tôi chỉ thấy đây là một lần đi chiêm bái một nơi nổi tiếng trong |
gịng lịch sự
Phật giáo mà không có một cảm xúc
nào khơi dạy
trong ḷng tôi. Buổi b́nh minh với
không khí mát mẻ và trong lành, xa xa vọng
lại tiếng tụng kinh của các tín đồ
Ấn Giáo tạo nên một sự
huyền bí cho gịng sông này và dọc theo
bên bờ sông Hằng
những tín đồ
Ấn Giáo đang
trầm ḿnh dưới
nước của
gịng sông cùng với
lời tụng
kinh với ước
nguyện gịng nước
sông Hằng sẽ
đem đi
hết nỗi thống khổ của kiếp
người họ
đang mang. Mỗi
người một
cảm xúc khác nhau và tất cả các
thành viên trong đoàn
đều trầm
ngâm ngắm
gịng nước
êm đềm chảy
xuôi theo mạng thuyền. ĐĐ
Thiện Thắng
mua cho mỗi người
một rổ hoa nhỏ có cây nến cắm
chính giữa, tất
cả ngọn nến lần lược
được
thắp sáng và mọi
người đặt
rổ hoa của ḿnh xuống mặt
nước sông
Hằng, màn đêm
vẫn c̣n phủ trên sông Hằng
và ánh nến của 23 rổ hoa lặng
lẽ trôi trên gịng nước
tuyệt đẹp,
một sự huyền
bí linh thiêng mà tôi có thể cảm nhận
được từ
ánh sáng lung linh của những
ngọn nến đang
trôi theo gịng sông hai bên mạn thuyền,
tôi đă thầm
khấn nguyện mong cho mọi chúng sanh
trong đó có
tôi có gia đ́nh
tôi và cùng các bạn đi
chung trong đoàn
có được
một sự an
lạc và hạnh phúc.
|
Mỗi người một rổ hoa và đèn chuẩn bị thả xuống sông Hằng |
Mặt
trời bắt
đầu ló
lên từ phương
đông, mới
đầu chỉ
là một chấm nhỏ rồi từ
từ vương
lên và đỏ
rực một phương
trời thật
là đẹp,
khuôn mặt của
mọi người
trong đoàn rạng
rỡ khi thấy
cảnh mặt
trời mọc,
máy ảnh đua
nhau bấm chớp.
Đến 8 giờ
th́ thuyền ghé về bến và chúng tôi đi
bộ ra xe bus để
về khách sạn. Đến 10 giờ
ĐĐ Thiện
Thắng ra phi
trường đón
TT Giác Đẳng.
Trong thời gian đó
chúng tôi mua sắm
tại các tiệm trong khách sạn và đến
11 giờ từ phi trường gọi về
ĐĐ Thiện
Thắng yêu cầu
mọi người vào pḥng ăn
trước để
tranh thủ thời gian khi ĐĐ
và TT Giác Đẳng
về đến
khách sạn th́ chúng tôi sẽ đi
chiêm bái vườn Lộc Giả tại
Sarnath nơi Đức
Phật chuyển pháp luân.
|
Trên đường
đến chiêm
bái vườn Lộc
Giả TT Giác Đẳng
đă giảng
cho chúng tôi về lịch sử
của thành phố Varanasi. TT Giác Đẳng giảng: Varanasi (Ba La Nại) thành phố tồn tại liên tục hơn 4 ngàn năm qua với ḍng sông Hằng huyền thoại. Cách thành phố nầy không xa là vườn Lộc Giả tại Sarnath nơi Đức Phật chuyển pháp luân. Tại đó cũng có viện bảo tàng nơi lưu giữ đầu trụ đá sư vương chánh pháp vô úy của vua Asoka (A dục) ngày nay là quốc huy của nước Cộng Hoà Ấn Độ. Ngày hôm nay có lẽ rất khó để chúng ta có thể mường tượng được đây là một trong những thành phố cổ đă tồn tại liên tục lâu đời nhất ở trong lịch sử của nhân loại. Thành phố này đă bắt đầu từ thời trước khi có lịch sử được ghi chép, người ta ước chừng là thành phố này đă bắt đầu hơn 4000 năm và dĩ nhiên là nếu so sánh với những thành phố hiện nay như New Delhi hay Mumbai th́ là một thành phố tương đối nhỏ về diện tích và tương đối lạc hậu, nhưng nếu |
đường phố tại Varanasi buổi sáng |
một người
về Varanasi mà hiểu được
sự sinh hoạt
tại đây
th́ chúng ta biết rằng
sông Hằng tại
Varanasi là nơi
quan trọng nhất của người
Ấn Giáo. Thành phố này là sự
ra đời là
chiếc nôi rất quan trọng của ba
tôn giáo lớn của
Ấn Độ
đó là Bà La
Môn giáo hay là Ấn Giáo, đạo
Jain tức là Kỳ
Na Giáo và Phật giáo. Ba Na Nại được
ghi rất nhiều ở
trong kinh điển
của Đạo
Phật đặc
biệt là trong kinh Bổn Sanh. Thành phố
này có rất nhiều tên, ngày xưa
gọi là Benares hay Banaras hoặc
là Kashi bây giờ
gọi là Varanasi thật ra trong âm tiếng
Phạn th́ chữ
B và chữ V hai
chữ thường
dùng xen lẫn nhau. Thành phố này có bốn
trường đại
học Banaras Hindu University, Mahatma Gandhi Kashi
Vidyapeeth, Central Institute of Higher Tibetan Studies và
Sampumanand Sanskrit University, trong đó
có hai trường
đại học
rất nổi tiếng trên phương
diện ngôn ngữ
là Banaras Hindu University và đại
học Phật Giáo là Sampumanand Sanskrit
University. Varanasi ngày nay c̣n mang rất nhiều
màu sắc của
nền văn hóa
cổ xưa.
Varanasi ở trong
lịch sử của
Ấn Độ
từ xưa
đến giờ
là nơi sản
xuất tơ lụa
rất nổi tiếng chính Đức
Bổn Sư của
chúng ta ngày xưa
khi Ngài c̣n là Thái Tử
th́ tất cả những
trang phục hoàng bào cẩm bào của
Ngài cũng đều
may bằng tơ
lụa của xứ
Kashi. Kashi là một tên khác của Varanasi. Đúng
ra th́ có một thời
Varanasi nằm
trong vương
quốc tên là Kashi. Thành phố này c̣n được
gọi là "đô
thị của đền
đài",
"thánh địa
của Ấn Độ",
"trung tâm tôn giáo của Ấn Độ",
"thành phố của ánh sáng", và
"đô thị
của kiến thức." |
Xe bus ngừng
tại viện Bảo Tàng chúng tôi lần
lượt theo
chân TT Giác Đẳng
bước vào
bên trong viện. Ở
nơi đây
trưng bày rất
nhiều cổ vật liên quan đến
Phật giáo, những
tôn tượng
Phật thời
cổ cũng được
trưng bày tại
đây và một
tác phẩm điêu khắc đẹp của
Đức Phật từ thế kỷ thứ
năm Đức Phật ngồi kiết già, với đôi mắt
khép trong thiền định,
và một vầng hào quang quanh đầu
đă là ấn
tượng sâu sắc trong
đầu chúng
tôi. Và nơi đây
có trưng bày
một đầu
tượng đá
Sư Tử
(Ashokan Pillar) là đầu
trụ đá có
h́nh tượng
của đầu
Sư Tử
do vua A Dục xây dựng
mà nay đă được
xem như là một
biểu tượng
của quốc gia Ấn Độ.
Sau viện Bảo Tàng chúng tôi đến
chiêm bái thánh tích vườn
Lộc Uyển (Sarnath) là nơi
Đức Phật
chuyển pháp luân lần đầu
tiên. Vườn Lộc
Uyển (Sarnath) là nơi hơn 2.500 năm
trước, đức Phật đă
thuyết bài Pháp đầu
tiên. Từ đó,
Lộc Uyển trở thành một
thánh tích Phật giáo thiêng liêng quan trọng
thứ nh́, sau Bồ Đề
Đạo Tràng, là nơi
Đức Phật
giảng pháp cho nhóm năm
người bạn cũ (Kiều Trần
Như). Chữ “Sarnath” là tiếng
rút gọn của từ “SARANGNATH” (Sarang:
Lộc, nai; Nath: vua): vua của loài Nai (Lộc
Vương – chỉ
đức Phật). Danh từ này không thấy
có trong kinh tạng Phật giáo tiếng
Pali cũng như Sanskrit,
mà trái lại kinh Pali thường dùng chữ
“ISIPATANA” (Tàu dịch: Chư Thiên Đọa
Xứ) hay “MIGADÀYA”; hoặc đôi
khi dùng cả hai. Có
nhiều truyền thuyết nói về nguồn
gốc của các địa danh này.
|
đầu sư tử bằng đá của vua A Dục (Ashoka Pilla)r |
Một vài học giả cho rằng “Isipatana”
(Pali) hay “Rishipatana” (Sanskrit) có nghĩa là
“Khu vực của các vị Tiên” (The
abode of the seers), nhưng
theo bộ Mahavastu (Đại sự) của
Phật giáo giải thích th́ xưa
kia tại đây có 500 vị Bích Chi Phật
(Pratyeka Buddhas) thường trú tu hành, về
sau tất cả đều bay lên hư
không nhập Niết Bàn, và thân thể của
quư Ngài Độc
giác này rơi
xuống đất. Do đó, Isipatana
được gọi là “Thành phố,
nơi rơi xuống của các Ngài Bích
Chi Phật” (City of the fall of the Sages). Theo
ngữ nguyên “Isi” có nghĩa là “Tiên,
Thánh hiền” (Sage); “Patana” là “Rơi
xuống” (Falling). C̣n “Migadàya” (Pali)
nghĩa là “Lộc Uyển” hay “Vườn
Nai” (Miga: Lộc, nai; Dàya: vườn, công
viên).
|
|
Chúng tôi thấy một mặt phẳng bát giác bằng gạch nung nhô lên khỏi mặt đất. Mặt phẳng này là di tích c̣n sót lại của một ngôi tháp trước kia đánh dấu nơi Đức Phật đến gặp 5 anh em ông Kiều Trần Như. Ngôi tháp bát giác này được trùng tu lần sau cùng bởi tiểu vương Akbar năm 1588, thuộc triều đại Gupta. Tại đây chúng tôi được hướng dẫn tụng kinh sau phần tụng kinh là chúng tôi được hướng dẫn đến toà bảo tháp Chaukhandi. Chúng tôi tụng kinh Tam Bảo tại đây và sau đó TT Giác Đẳng đă giảng bài kinh Chuyển Pháp Luân cho phái đoàn nghe.(xin xem bài pháp thoại ở đây). .TT Giác Đẳng
giảng: Toà bảo tháp Chaukhandi là
tháp đánh dấu
nơi Đức
Phật gặp
lại 5 vị Kiều Trần Như
lần đầu
tiên. Có lẽ là qúi Phật tử
nhớ là khi Đức
Thế Tôn trào đời
th́ có một số các vị Bà La Môn được
mời đến
theo phong tục thời
bấy giờ
là để đặt
tên cho Thái Tử
|
chụp tại toà bảo tháp Chaukhandi |
th́ trong số mấy trăm
vị được
mời đến
nhà vua lựa
ra 8 vị thông thái nhất, trong 8 vị đó
th́ 7 vị đưa
hai ngón tay lên và nói khi Thái Tử
lớn lên hoặc
giả sẽ xuất gia để
trở thành vị
chơn sư
cứu thế
hoặc giả
ở tại
ngai vàng th́ là vị hoàng đế
vĩ đại
nhất thế gian. Chỉ có một vị
duy nhất trong số 8 vị Bà la môn
thông thái rất trẻ tên là Kondanna (Kiều
Trần Như)
đưa lên một
ngón tay khẳng
định rằng
Thái Tử nhất
định sẽ
trở thành vị
đạo sư
xuất thế và mang lại nhiều hạnh
phúc cho nhân loại. Do đó
29 năm sau khi
Thái Tử
Sĩ Đạt
Đa xuất gia th́ bấy giờ
Kiều Trần Như
đi t́m những
vị Bà la môn kia nhưng
những vị đó
đă quá già
nên đă rủ
những người
con cháu của các vị Bà la môn này được
thêm 4 người
tổng cộng thành 5 vị có tên là nhóm
anh em Kiều Trần Như.
Sau khi Thái Tử
xuất gia th́ 5 vị này đă
đi theo và lúc
bấy giờ Đức
Phật là Samôn Cồ Đàm
cùng tu tập chung theo con đường
khổ hạnh cho đến
khi Đức Thế
Tôn rời bỏ
con đường
tu khổ hạnh để
tu theo con đường
trung đạo và
5 vị đó bỏ
đến vườn
Lộc Giả. Sau khi Đức
Thế Tôn thành đạo
trở về và
Ngài thấy nhân duyên của những
người hữu
duyên nên tế độ
th́ Ngài thấy rằng
nhóm anh em Kiều Trần Như
là thích hợp
và Ngài đă
làm một cuộc đi
bộ từ Bồ
Đề Đạo
Tràng đến đây
mất 11 ngày chúng ta biết rằng
vào ngày trăng
tṛn. Vua A Dục đă
dựng tại đây
một tháp là tháp Chaukhandi.
|
|
Từ
ṭa bảo tháp Chaukhandi chúng tôi qua thăm
hương thất
của Đức
Phật bây giờ
chỉ c̣n lại nền gạch.
TT Giác Đẳng giảng: Thời Đức Phật c̣n tại thế th́ vua của xứ Varanasi ủng hộ Đức Phật và ở tại đây nhà vua đă cất một tịnh thất. Theo truyền thống người ta làm tịnh thất để cúng dường người ta đă tán trầm hương thành bột rồi phết lên trên tường do vậy trong thất của Đức Phật khi đi ra vào có mùi trầm hương chúng ta gọi là hương thất. Chữ hương thất là tịnh thất làm có mùi trầm hương xuất phát từ chữ Mulagandhakuti đó là nơi mà Đức Thế Tôn đă nhập hạ tức là an cư mùa đầu tiên, Ngài đến đây vào rằm tháng Sáu để chuyển pháp luân và ngay sau đó Ngài cùng 5 anh em Kiều Trần Như an cư mùa hạ đầu tiên tại vườn Lộc Uyển và tại Mulagandhakuti. Ở trước Mulagandhakuti có đánh dấu nơi Ngài Huyền Trang ghi lại nơi Ngài Yasa gặp Đức Thế Tôn. |
Phái đoàn tụng kinh Tam Bảo tại vườn Lộc Uyển |
Một buổi sáng Đức
Thế Tôn Ngài sau khi nghỉ 2 giờ
đồng hồ
Ngài thức dậy
đi kinh hành,
th́ hôm đó có
một thanh niên nhà giàu tên là Yasa đang
nửa khuya tự
nhiên thức dậy
và đi ngang qua
một căn pḥng
nh́n thấy các cô vũ công ban ngày th́
trang điểm
rất đẹp
đẽ nhảy
múa rất yêu kiều nhưng
buổi tối nằm
ngủ ngổn ngang cảnh tượng
rất chán nản, và anh thanh niên Yasa đă
bỏ nhà ra đi
vừa đi
vừa chắc
lưỡi than
thế gian này bẩm chật, khi Yasa đi
ngang hương
thất th́ gặp
Đức Phật
đang đi
kinh hành, Ngài nói "này Yasa con hăy đến
đây." Và
Yasa đă đến
và bỏ đôi
dép bằng vàng
cách Đức
Thế Tôn khoản chừng
mấy mươi
thước và đến
đảnh lễ
Đức Thế
Tôn.Đức
Thế Tôn đă
thuyết pháp bài pháp tên là "Tuần tự
pháp thoại." Trong bài pháp Ngài dạy
về 5 pháp. Pháp đầu
tiên là bố thí, tức là có của là hạnh
phúc, nhưng ḿnh cho ra th́ nhiều hạnh
phúc hơn. Thứ hai là tŕ giới Đức
Phật dạy là nếu ḿnh tự do
phóng túng th́ cũng có vui nhưng nếu ḿnh
ǵn giữ kềm chế th́ nó là hạnh
phúc. Rồi Đức
Phật Ngài dạy về các cơi trời,
tuy ở cơi này dù ḿnh có hạnh phúc bao
nhiêu đi nữa
th́ ḿnh cũng đừng
quên rằng có
những cảnh giới khác c̣n tốt đẹp
hơn, tại v́ ḿnh không thấy và không
biết mà ḿnh chỉ chấp một cảnh
giới này mà thôi. Sau cùng Đức
Thế Tôn Ngài dạy về hai pháp, Ngài dạy
về sự thu thúc sáu căn
và con đường
xuất gia. Sau khi nghe năm
pháp này th́ Yasa đă
trở thành một đệ
tử Phật và nhanh chóng trở thành vị
tỳ kheo. Cha mẹ của Yasa đi
t́m Yasa sau đó
đă quy y Tam Bảo,
và cha mẹ của Yasa đă
là hai người cư sĩ đầu
tiên quy y Phật Pháp Tăng
và trong giáo pháp của Đức
Phật ở tại thị trấn Sarnath
này. |
Tŕnh bày: Minh Hạnh và Nguyễn Văn Ḥa |