33. KINH PHÚNG TỤNG (SANGÌTI SUTTA) - KINH PHÚNG TỤNG (SANGÌTI SUTTA) - Bảy Pháp - "Mùa Xuân Và Hy Vọng qua Bảy Thù Diệu Sự"
HT Thích Minh Châu Việt dịch
I.
Đại lược
Tụng phẩm II
Bảy pháp
8. Này các Hiền giả, có bảy pháp được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người. Thế nào là bảy?
i) Bảy tài sản: Tín tài, giới tài, tàm tài, quý tài, văn tài, thí tài, tuệ tài.
iv) Bảy phi diệu pháp: Này các Hiền giả, ở đây, có vị Tỷ kheo bất tín, vô tàm, vô quý, thiểu văn, giải đãi, thất niệm, liệt tuệ.
v) Bảy diệu pháp: Này các Hiền giả, ở đây, có vị Tỷ kheo có lòng tín, có tàm, có quý, đa văn, tinh tấn, niệm được an trú, có trí tuệ.
vi) Bảy thượng nhân pháp: Này các Hiền giả, ở đây có vị Tỷ kheo tri pháp, tri nghĩa, tự tri, tri lượng, tri thời, tri chúng và tri nhân.
vii) Bảy thù diệu sự: Này các Hiền giả, ở đây vị Tỷ kheo tha thiết hành trì học pháp và khát vọng hành trì học pháp trong tương lai; tha thiết quán pháp và khát vọng quán pháp trong tương lai; tha thiết điều phục các dục vọng và khát vọng điều phục các dục vọng trong tương lai; tha thiết sống an tịnh và khát vọng sống an tịnh trong tương lai; tha thiết sống tinh tấn và khát vọng sống tinh tấn trong tương lai; tha thiết quán sát tư niệm và khát vọng quán sát tư niệm trong tương lai; tha thiết với kiến giải và khát vọng hiểu biết sở kiến trong tương lai.
x) Bảy thức trú: Này các Hiền giả, có các loại hữu tình, thân sai biệt và tưởng sai biệt, như loài Người, một số chư Thiên và một số thuộc đọa xứ. Ðó là loại thức trú thứ nhất. Này các Hiền giả, có những loài hữu tình thân sai biệt nhưng tưởng đồng loại, như các vị Phạm Chúng thiên vừa mới sanh lần đầu tiên (hay do tu sơ thiền). Ðó là loại thức trú thứ hai. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, thân đồng loại, nhưng tưởng sai biệt, như chư Quang Âm thiên. Ðó là loại thức trú thứ ba. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình thân đồng loại và tưởng đồng loại, như chư Thiên Biến Tịnh thiên. Ðó là loại thức trú thứ tư. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, vượt khỏi mọi tưởng về sắc, điều phục mọi tưởng về sân, không tác ý đến các tưởng sai biệt, chứng Không vô biên xứ: "Hư không là vô biên". Ðó là loại thức trú thứ năm. Này các Hiền giả, có những loại hữu tình, vượt khỏi hoàn toàn hư không vô biên xứ, chứng thức vô biên xứ: "Thức là vô biên". Ðó là loại thức trú thứ sáu. Này các Hiền giả có những loại hữu tình vượt khỏi hoàn toàn Thức vô biên xứ, chứng Vô sở hữu xứ: "Không có vật gì cả". Ðó là loại thức trú thứ bảy.
xi) Bảy loại người đáng kính trọng: Câu phần giải thoát, Tuệ giải thoát, Thân chứng, Kiến chí, Tín giải thoát, Tùy pháp hành, Tùy tín hành.
xiv) Bảy diệt tránh pháp: Có khả năng đình chỉ, trừ diệt các tránh pháp đang khởi lên: Ưng dữ hiện tiền tỳ ni, ưng dữ ức niệm tỳ ni, ưng dữ bất si tỳ ni, ưng dữ tự ngôn trị, đa mích tội tướng, đa nhơn mích tội, như thảo phú địa.
Này các Hiền giả, bảy pháp này được Thế Tôn chơn chánh giảng dạy, vị đã biết, đã thấy, bậc A la hán, Chánh Ðẳng Giác. Ở đây, mọi người cần phải cùng nhau tụng đọc, không có tranh luận, để phạm hạnh này được trường tồn, được duy trì lâu ngày, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho chư Thiên và loài Người.
Hòa thượng Thích Minh Châu dịch
III. Thảo Luận: TT Giác Đẳng điều hợp
1. Phải chăng những tha thiết và hy vọng trong bài kinh nầy hướng người tu tập đến pháp hành? TT Pháp Đăng
2. Cái gì là cơ sở để hy vọng cho một người tu tập? - TT Pháp Tân
3. Nhiều người quan niệm rằng hành giả tu tập không nên mong muốn gì hết kể cả chuyện đắc đạo chứng quả, quan niệm đó có xác đáng chăng? TT Tuệ Siêu
4. TT Giác Đẳng chia xẻ một vai suy nghĩ về đầu năm
Pháp Thoại
Chúng ta phải làm gì khi đối diện với cái chết. Chúng ta hãy tự hỏi rằng mỗi chúng ta dù là tu sĩ hay một cư sĩ khi gặp một người sắp lâm chung. Bằng kinh nghiệm và sự hiểu biết và những gì học được từ Phật Pháp chúng ta sẽ làm gì?
TT Tuệ Siêu thuyết giảng trong chương trình Phật Học Vấn Đáp
Chánh Hạnh chuyển biên
TT Tuệ Siêu giảng: “ Chúng ta phải làm gì khi đối diện với cái chết”, câu hỏi đó và câu hỏi này rất hay. Nhưng trong hai câu hỏi chúng tôi xin được trình bày cả hai ý. Trước nhất là chúng ta làm gì khi đối diện với cái chết, chúng ta nên suy nghĩ hay chúng ta nên cầu nguyện.
Ở đây Đức Phật dạy rằng,
“sabbe sattā marissanti maranantam.hi jìvitam.”
“ Tất cả chúng sanh đều sẽ chết”.
chắc chắn khi đối diện với cái chết tâm của chúng ta sẽ bị rối loạn, có sự lo sợ như là chúng ta sắp chuẩn bị chuyến đi xa vĩnh viễn không bao giờ trở lại căn nhà này nữa. Tất nhiên lúc đó với tâm trạng bị rối tung lên và sợ hãi. Thế cho nên ở đây điều này chúng ta có thể dựa vào kinh điển, những lời dạy của Đức Phật và trong đời sống hằng ngày chúng ta khéo tu tập để trở thành thường cận y duyên. Thí dụ chúng ta thường xuyên tu tập quán niệm, thường xuyên an trú với chánh niệm.
Chúng ta chưa kề cận cái chết nên chưa biết được lúc đó sẽ như thế nào, nhưng chúng ta hãy kinh nghiệm những lúc bị bạo bệnh và nằm đó. Chúng tôi cũng đã gặp phải trường hợp vào nằm viện và phải trải qua cuộc giải phẩu lớn. Những lúc đó có thể nói rằng một vài tư tưởng sợ hãi về sự chết cũng loé lên. Chúng ta phải rút kinh nghiệm ở đây là trong đời sống bình nhật, chúng ta phải tự tạo cho mình một đối tượng để suy quán cho thuần thục, cho nhập tâm. Bởi vì nếu chúng ta không thuần thục không nhập tâm được với đề tài suy quán, những lúc chúng ta bệnh ngặt nghèo, sự suy quán không chính xác không nhập tâm, giờ phút lâm chung rất nguy hiểm.
Còn vấn đề khi chúng ta sắp lâm chung, chúng ta làm được gì. Tuỳ theo khả năng của mỗi người và thuận tiện ở đâu chúng ta làm điều đó. Nghĩa là:
-Với một người nặng về đức tin, trong giờ phút sắp lâm chung, người này sẽ suy nghĩ về phước báu và sẽ nguyện phước báu.
-Với một người tinh tấn Thiền định, giờ phút lâm chung điều quan trọng nhất là người này vẫn có thể nhiệt tâm chánh niệm được.
-Với người có khuynh hướng nặng về trí tuệ, lúc đó sẽ có một đề tài suy tưởng để họ có thể đối mặt với cái chết mà không có sự lo âu sợ hãi. Bởi vì biết xác thân này như chiếc xe cũ kỹ v.v…
Như vậy điều đầu tiên chúng tôi muốn nói ở đây là chính bản thân chúng ta làm được gì khi chúng ta đối diện với cái chết. Điều này sẽ tuỳ theo khuynh hướng, tuỳ theo khả năng tu tập thuần thục của mỗi người mà áp dụng. Điều nào cũng tốt cả.
Bây giờ chúng ta đề cập đến vấn đề thứ hai là chúng ta làm được gì đối với một người kề cận với cái chết. Có nghĩa là khi chúng ta đến viếng thăm một người bệnh trầm thống hay một người sắp ra từ giã cõi đời. Như trường hợp các vị tu sĩ khi được mời đến để giúp cho một người bị bệnh, một Phật tử chẳng hạn. Chúng tôi cũng đã từng làm công việc này, khi Phật tử những người lớn tuổi hoặc những người bạo bệnh, mời chúng tôi đến. Chúng tôi đối diện và giúp họ bằng theo khả năng kinh nghiệm của mình.
Đối với người sắp chết, nếu là một người hôn mê hoặc họ không đủ sự tỉnh táo để có thể nghe và biết những gì mà chúng tôi trình bày giảng giải. Đối với người như vậy họ cần có một thứ âm thanh, âm thanh đó thuộc về kinh điển mà trong bình nhật họ đã từng nghe Chư Tăng tụng niệm. Lúc bấy giờ hy vọng âm thanh đó có thể giúp cho tâm của người bệnh bám vào cảnh thinh này, và họ giữ được một trạng thái tịnh lạc trong giờ phút lâm chung. Nhưng về việc này chúng tôi ít khi sử dụng, bởi vì khi một người hấp hối thường trong gia đình rất đau khổ vây chung quanh khóc lóc kể lể, như vậy việc tụng niệm không phải là chuyện thiết thực. Cho nên trong lúc đó, chúng tôi thường chỉ tụng một đoạn kinh ngắn, sau đócó lời giải thích an ủi cho những người còn sống.
Đối với người bị bệnh, mặc dầu họ đối diện trước cái chết nhưng còn tỉnh táo, có thể nghe được, hiểu được. Lúc bấy giờ tuyệt nhiên chúng tôi sẽ không tụng kinh nếu như không có sự yêu cầu của họ. Lúc đó chúng tôi sẽ thay mặt Chư Tăng nói chuyện với họ.
Vì rằng trong kinh điển chúng tôi cũng biết một vài trường hợp Đức Phật hay các vị Tôn giả như Tôn giả Xá-Lơi-Phất hoặc Tôn giả A-Nan-Đa đến viêng thăm vài người bệnh. Ngài có một vài câu hỏi đễ dẫn nhập cho họ. Hỏi về trạng thái bệnh như thế nào và tỏ ra thông cảm cho họ.
Nếu biết họ là một người Phật tử có niềm tin nơi Tam Bảo, từng tạo phước, bố thí, giữ giới, tu tthiền và người đó có khuynh hướng về đức tin hay tinh tấn hay trí tuệ.Chúng tôi sẽ trình bày nói một cách ngắn gọn về những ý nghĩa phước báu mà họ đã làm, nói về tính chất tạm bợ của sắc thân này hoặc một cảnh giới an vui sẽ chờ đợi một người có tâm bình tỉnh và chánh niệm trước phút lâm chung. Gợi nhắc cho họ và có lời khuyên nhủ họ nên an trú, bởi vì họ cần phải biết rằng sắc thân của họ bây giờ như một chiếc xe cũ kỹ, không thể nào dùng xài được nữa hoặc họ cần phải hết sức bình tỉnh và trú trong những thiện pháp như vậy như vậy.
Có một vài trường hơp chúng tôi nhận thấy có hiệu quả, tức là một nggười bị bệnh như một vị Tu nữ hoặc là một vị Sư đang bị bệnh ngặt nghèo, Lúc bấy giờ trong sự cảm thọ khổ, họ nhăn nhó, họ rên xiết nhưng khi được nhắc, được gợi ý như vậy đúng theo tâm trạng của họ, vì lòng tin hoặc vì sự kính trọng Pháp nên họ giữ được sự im lăng bình thản và chỉ trong chốc lát họ ra đi với tâm thái nhẹ nhàng mà chúng ta có thể nhận biết qua nét mặt của họ. Chúng tôi nghĩ rằng nếu nói cụ thể một pháp môn nào đó hay một bài kinh tụng nào đó cho người bệnh cho người sắp chết không thể nói môt cách cụ thể được mà chúng ta phải uyển chuyển tuỳ theo đối tượng, và tuỳ theo hoàn cảnh lúc đó, mình đến sớm hay đến muộn và người này ở trong hoàn cảnh còn tỉnh táo hay bị hôn mê mà chúng ta có thể giúp được cho họ.
Đó là một vài điều theo kinh nghiệm và sự hiểu biết của bản thân mình. Chúng tôi xin chia xẻ trong câu hỏi này.
Chư Thiên cũng ái kính bậc giải thoát
TTGiác Đẳng thuyết giảng trong rơom Diệu Pháp, kinh Pháp Cú kệ ngôn 94
Như Trúc chuyển biên
TT Giác Đẳng giảng: Các căn khéo nhiếp phục
Như xa phu điều ngự
Mạn trừ lậu hoặc dứt
Chư thiên mến vị ấy
Chánh văn kệ ngôn pháp cú do Thượng Tọa Giác Đẳng dịch từ Pali
TT Giác Đẳng:Kính bạch chư tôn đức. Kính thưa Quý phật tử. Chúng ta đã qua một số các bài kệ trong Phẩm Ứng Cúng hay là Phẩm A La Hán. Trong phẩm nầy, chúng ta được nghe một số duyên sự liên quan đến các vị Thánh Nhân và chúng ta cũng được nghe Đức Phật nhân một số trường hợp đặc biệt đã mô tả, đời sống, tâm tư và hành xứ rộng lớn của chư vị thánh nhân đã hoàn toàn giải thóat. Hôm nay chúng ta lại nghe một câu chuyện khác.
Trước khi đi vào duyên sự của câu chuyện nầy, chúng ta cũng nên tái xác nhận rằng, những vị đã hoàn toàn giải thóat, cách suy nghĩ của những vị nầy hòan toàn không giống như cách suy nghĩ của chúng ta và đời sống của vị nầy quả thật có nhiều điều vượt ngoài sự suy nghĩ thường tình của mỗi chúng ta. Do vậy, xuyên qua các bài kệ, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy được một tương phản rất lớn giữa hành xử của một bậc thánh và cái nhìn, sự nhận thức hết sức hạn hẹp của phàm tăng.
Đặc biệt trong câu chuyện ngày hôm nay, chúng ta lại nhắc đến một vị đại đệ tử của Đức Phật, đó là tôn giả MahaCaChiên Diên. Câu chuyện đề cập đến một duyên sự hết sức đơn giản. Tôn giả Mahākaccāyanna nguyên là một vị tỳ kheo xuất thân từ một quốc gia mà thời Đức Phật trong kinh gọi là Ujjain. Ujjain là một quốc gia nằm ở phía tây của Ấn Độ, ngày hôm nay chúng ta thường biết đó là Bombay hay là Mumbai (tên mới). Tôn giả ở rất xa Đức Phật, trong một lần gặp Đức Phật, được Ngài khai thị, trở thành một vị thánh nhân hoàn toàn giải thoát trong đạo tràng của Đức Phật, thì tôn giả có chuyển đạt lời thỉnh cầu của vua Ujjain đến để thỉnh Đức Phật về giáo hóa cho dân chúng ở xứ nầy.
Trong câu chuyện chúng ta được biết rằng Đức Thế Tôn nhận thấy tôn giả Mahākaccāyanna có nhiều ưu điểm từ pháp học, pháp hành và pháp thành, do vậy Ngài dạy tôn giả Mahākaccāyanna hãy trở về sinh quán của mình. Và tôn giả đã trở về, ở tạm trong vườn thượng uyển. Sau đó tôn giả Mahākaccāyanna đã độ được tất cả những người ở kinh thành, kể cả nhà vua của xứ Ujjain.
Có rất nhiều đặc điểm mà chúng ta phải đề cập đến vị tôn giả nầy. Thứ nhất là trong 80 vị đại đệ tử của Phật thì tôn giả Mahākaccāyanna được xem là người đệ nhất về quảng diễn chánh pháp, ở đây có nghĩa là một lời Đức Thế Tôn dạy cho dù hết sức ngắn gọn, đơn giản, nhưng tôn giả Mahākaccāyanna có thể dựa trên lời dạy ngắn gọn ấy mà khéo thuyết trở thành bài pháp dài và khi những vị tỳ kheo hay những người phật tử khác đem những lời giảng của Ngài Mahākaccāyanna đến trình lên Đức Phật thì Đức Phật luôn luôn nói lên lời Sadhu Lành thay, và nói rằng nếu ai hỏi Như Lai rộng thuyết về điều nầy thì Như Lai cũng giảng như vậy. Đó là một thù thắng của Tôn Giả Mahākaccāyanna.
Ngày hôm nay nếu quý Phật tử về thăm Thái Lan, quý vị sẽ thấy một tượng giống như tượng Ông Địa của chúng ta, nghĩa là bụng cũng to, ngồi xếp bằng, nhưng thay vì Ông Địa, hay Thần Tài mặc áo theo kiểu Trung Hoa thì tượng nầy mặc y, bụng to, người Thái Lan thường thờ tượng nầy để phù hộ cho họ được buôn may bán đắt, giàu có. Tượng đó theo niềm tin dân gian của họ thì đó là tượng của Ngài Mahākaccāyanna. Có 3 lý do để người ta dùng tượng của Ngài Mahākaccāyanna thờ như là một tượng phù hộ cho phúc lộc.
Thứ nhất là vì trong kinh có ghi rằng Ngài Mahākaccāyanna là một vị quảng thuyết, tức là từ một cái rất là nhỏ mà vị nầy có thể tuyên thuyết một cách rộng rãi lời dạy của Đức Phật, một lời dạy giản dị mà tuyên thuyết ra nhiều và vì vậy người ta tin rằng, ví dụ mình đi buôn muốn vốn có một mà lời đến mười thì mình nên thờ Ngài Mahākaccāyanna. Đó là niềm tin dân gian.
Thứ hai nữa, Ngài Mahākaccāyanna là một vị có thân hết sức chói sáng, thân giống như vàng ròng. Ở Việt Nam ngày xưa có một vị pháp sư tên là Thong Kham, trong tiếng Lào, tiếng Thái cũng có nghĩa là vàng ròng. Ngài Mahākaccāyanna tên có thể dịch là vàng ròng hoặc thắp sáng. Người Thái Trung Hoa tin vào phong thủy, họ nghĩ thân như vàng ròng, nên khi thờ Ngài cũng giống như thờ Thần Tài, như vậy cũng là một điều may mắn.
Nhưng đặc biệt nhất, ở trong những câu chuyện liên quan đến Ngài Mahākaccāyanna thì Ngài là một vị được chư thiên ái kính, chư thiên đặc biệt rất quý kính Ngài, dĩ nhiên khi một người sống ở trong đời sống nầy nếu họ hiểu đạo thì ngoài ân lành của Phật Pháp Tăng thì họ rất mong cầu sự thương tưởng của các vị chư thiên, nhất là những vị thượng thần hộ Pháp, nên khi thờ Ngài Mahākaccāyanna thì họ tin rằng họ cũng nhận được sự thương tưởng của chư thiên.
Dĩ nhiên đó chỉ là niềm tin, nhưng có thể nói rằng đó là niềm tin của một số người không nhỏ ngày nay đặt để ở Ngài Mahākaccāyanna. Chúng tôi nhắc lại đây không phải để quý vị phật tử có một ý nghĩ đánh giá hay tin tưởng vào niềm tin thờ phượng đó. Ở đây chúng tôi chỉ nhắc vì liên quan đến một đại đệ tử Đức Phật có những phước hạnh rất thù thắng ở trong đời quá khứ. Thật ra Ngài đã từng phát nguyện ở dưới chân Đức Phật để mong rằng trở về sau là một vị đệ tử của một vị Chánh Đẳng Chánh Giác có khả năng quảng thuyết giáo pháp. Do vậy ước nguyện đó được thành tựu trong đời nầy.
Pháp Thoại của TT Viên Giác, Viện Chủ chùa Thông Đoài, Vancouver Canada tin rằng: Hòa Thượng Hộ Giác để lại Xá Lợi, Ngài có thể là một Thánh Tăng của thời cận đại ngày hôm nay
TT Viên Giác thuyết trong ngày lễ Chung Thất của Cố Đại Lão Hòa Thượng ngày 20-1-2013
Minh Hạnh chuyển biên
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
Hôm nay chúng tôi từ Canada, được một duyên lành về đây để cùng Chư Tôn Đức Tăng Ni và cùng với Phật tử làm lễ nhập tháp cho Hòa Thượng Tăng Thống.
Thưa đại chúng, cứ mỗi lần chúng tôi lên lễ Tổ bên tu viện của chúng tôi, thì trên bàn Tổ chúng tôi có để linh ảnh của Ngài Hòa Thượng trên bàn thờ Tổ, và Tăng Ni chúng tôi mỗi lần lên công phu bái xám đều lạy Hòa Thượng. Bởi vì không ít nhiều mặc dù Hòa Thượng Ngài với chúng tôi là khác về truyền thống nhưng ân đức của Ngài lúc nào cũng trang trải và trở thành năng lượng và có lẽ cái năng lượng đó sẽ đi theo suốt chúng tôi trong hành trình của người con Phật.
Thưa đại chúng. Mỗi lần Hòa Thượng qua thăm anh em chúng tôi thì chúng tôi được hưởng cái năng lượng đó, năng lượng rất là bình an. Hồi sáng TT Giác Đẳng có chia sẻ đó là sự hòa ái. Thưa đại chúng. Nếu một người tu hành mà thiếu đi tánh hoà ái thì e rằng sự tu hành của chúng ta chưa đạt được một kết quả nào. Vì sao? Vì cuộc đời này luôn luôn là sóng gió. Khi chúng ta sanh ra trong cuộc đời này thì chúng ta mang trên thân phận mình năm yếu tố ô nhiễm, đó là: kiếp trược, kiến trược, phiền não trược, chúng sanh trược và mạng trược. Cõi ta bà này là một ngôi trường rất tốt cho năm loại ô nhiễm phát triển mà làm sao người con Phật chúng ta đi trong cõi ô nhiễm này với tâm hành thật là hoà ái.
Kính thưa đại chúng. Mỗi lần Ngài ngồi bên cạnh chúng tôi, hay chúng tôi được hầu Ngài, Thầy trò đôi khi không cần phải nói gì hết, chúng tôi chỉ cần hưởng thụ sự hoà ái, sự từ tâm của Hòa Thượng tỏa ra thôi, mà đó đã trở thành năng lượng nuôi và giúp đỡ cho anh em chúng tôi những khi mệt mỏi trong cuộc sống đầy phiền lụy này.
Và hôm nay, chúng tôi về đây để được làm lễ nhập thất của Hòa Thượng, và chúng tôi cũng có xem một số hình ảnh về xá lợi của Ngài ở trên mạng.
Thì thưa đại chúng. Trong đời sống của những người xuất gia như Thầy trò anh em chúng tôi, những vị ra đi mà để lại xá lợi thì những vị đó đã diệt tận được các lậu hoặc đó là mười kiết sử.
Mười kiết sử đó là gì? Là tham, sân, si, mạn, nghi, thân kiến, biên kiến, tà kiến, giới kiến thủ và giới cấm thủ. Thì những ai mà đoạn tận được mười kiết sử đó thì mới đi vào Từ Bi Tam Muội hoặc Định của Tam Muội, mà đối với Hòa Thượng thì chúng ta thấy rằng là Ngài có đức từ bi rất lớn, tất cả những phong ba bão táp của cuộc đời này dồn về phía Ngài, Ngài cứ mỉm cười và đón nhận và cái năng lượng từ bi đó, Ngài giải tỏa rất là nhiều các bão tố cuộc đời luôn luôn từ phía đối nghịch luôn luôn chỉa mũi dùi về Ngài. Và hôm nay bằng chứng Ngài ra đi và Ngài để lại một phần xá lợi của di cốt của Ngài thì đó là một niềm tin vững chắc cho những người xuất gia cũng như tại gia chúng ta giữ vững niềm tin nơi chánh pháp, hãy giữ vững con đường tu tập của mình, như hồi sáng Hòa Thượng Tăng Thống Phật Giáo Nguyên Thủy có nói rằng chúng ta phải cố gắng tu học hiểu biết giáo lý thì chúng ta mới không đi lạc vào tà kiến.
Thưa đại chúng. Nhân đây, chúng tôi cũng xin chia sẻ với đại chúng một chút kinh nghiệm. Sau tang lễ của Đại Lão Hòa Thượng thì có một số người Phật tử hỏi chúng tôi là:
"Bạch Thầy, sao Ngài Hòa Thượng là vị Cao Tăng mà sự ra đi của Hòa Thượng còn bịnh và thấy Ngài có vẻ đau đớn lắm".
Thì chúng tôi có trình bày thế này, chúng tôi chỉ kể một câu chuyện.
Ngày xưa khi Đức Phật còn tại thế, có trưởng giả Cấp Cô Độc, Ngài có hai người con gái, và cuộc đời của Ngài là luôn luôn làm việc bố thí và cúng dường, Ngài nổi tiếng là cung cấp giúp đỡ cho những người khốn khó. Thì thưa đại chúng. Có những lần Ngài đi làm việc từ thiện ở xa Ngài thường nhờ hai người con gái ở nhà để thay cho Ngài lo cúng dường cho Chư Tăng và phân phát bố thí cho những người nghèo khó. Thì một hôm người con gái út mang trọng bịnh và trong giờ hấp hối báo cho Ngài Cấp Cô Độc biết, Ngài Cấp Cô Độc trở về gấp để thăm người con gái út lần cuối. Trong lòng ông nghĩ là có phải chăng người con gái út này không có gia đình mà các chị đã có gia đình thì vì thế mà người con gái út này mặc cảm tủi buồn mà lâm bịnh hay không. Ông chỉ thấy tiếc thương người con gái chưa có gia đình mà lại ra đi trong tuổi còn xuân. Thì khi ông về đến nhà, cô con gái út nói là:
"Chào em, em mới về đó à".
Thì Ngài Cấp Cô Độc nghe con gái của mình bảo là: "Chào em", thì ông rất là đau lòng, đau lòng bởi vì sao? Bởi vì ông nghĩ rằng là cái giờ cận tử nghiệp đã đến rồi mà nó không tỉnh thức, không tỉnh táo, có nghĩa là nó đi vào hôn mê mà đi vào hôn mê như thế thì sẽ đọa lạc không thể nào sanh về cảnh giới lành được. Thì như thế sau khi cô con gái mất, cái nỗi buồn đau của ông bởi vì người con gái chắc sẽ sanh vào ác đạo, vì thế ông buồn. Rồi một hôm ông đến đảnh lễ Đức Thế Tôn thì Đức Thế Tôn hỏi:
"Này ông Cấp Cô Độc, sao trên mặt ông còn vương nỗi buồn như thế?"
Thì ông nói rằng:
"Bạch Đức Thế Tôn, con buồn không phải vì đứa con gái con đã mất mà con buồn bởi vì nó đọa vào ác thú".
"Thế tại sao ông biết nó đọa vào ác thú?"
"Bạch ĐứcThế Tôn, trước giờ nhắm mắt nó lẫn lộn, nó không biết con là ba của nó, mà nói gọi con là em của nó."
Thì Đức Thế Tôn mới nói:
"Này Cấp Cô Độc, không phải thế đâu, ông là đã chứng quả Tu Đà Hoàn rồi, nhưng con gái út của ông chứng quả Tư Đà Hàm. Có nghĩa rằng xét trên vai vế của đạo thì con gái của ông đã chứng cao hơn ông một bậc nên nó gọi ông là em là đúng rồi".
Thì như vậy, cho đến cái cuộc tử sinh này chúng ta không biết ai là người là Thánh, chả biết ai là phàm, chúng ta đừng có vội phán xét khi chúng ta còn là những kẻ phàm phu lặn ngụp trong cuộc đời sanh tử này, mà sự ra đi của Hòa Thượng là một minh chứng cho chúng ta thấy đó là xá lợi của Ngài để lại. Và trong kinh sách có để lại là "những ai để lại xá lợi thì người đó đã triệt tận tất cả các lậu hoặc thì mới có xá lợi", cho nên chúng tôi tin tưởng và tin tưởng rất mạnh, tin tưởng rất sâu là Hòa Thượng không phải là một vị tu sĩ bình thường mà Ngài có thể là một Thánh Tăng của thời cận đại ngày hôm nay.
A Di Đà Phật.
Video Của Chùa Pháp Luân - Tang Lễ Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác
Video 1 của Chùa Pháp Luân - Ngày 12-12-2012 Lễ Nhập Kim Quan Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác .
Video 2 của Chùa Pháp Luân - Ngày 12-12-2012 Thọ Tang Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác .
Video 3 của Chùa Pháp Luân - Ngày 12-12-2012 Lễ Tang Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác - Pháp Hội Hoa Khai Kiến Phật 1) Thấy Phật bằng mắt thấy Phật bằng tâm - TT Giác Đẳng và TT Tuệ Siêu.
Video 4 của Chùa Pháp Luân - Ngày 12-12-2012 Lễ Tang Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác - Pháp Hội Hoa Khai Kiến Phật 2) Hành trạng một danh Tăng - TT Giác Đẳng và HT. Thiện Tâm và HT. Huyền Việt.
Video 5 của Chùa Pháp Luân - Ngày 16-12-2012 Lễ Tang Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác - Lễ Truy Niệm Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác.
Video 6 của Chùa Pháp Luân - Ngày 16-12-2012 Lễ Tang Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác - Lễ Trà Tỳ Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác.
TT Giác Đẳng: Trong việc học đạo chúng ta có kinh nghiệm rất quan trọng, đó là, chúng ta học qua kinh điển và chúng ta cũng có thể học qua đời sống của những người hành đạo. Cuộc đời của chính Đức Phật cũng như cuộc đời của các Thánh Đệ Tử của Ngài và sau đó nhiều thế hệ từ đời này qua đời kia thì cuộc đời của chư vị tiền bối những tiền nhân đi trước quả thật cho chúng ta rất nhiều bài học quan trọng.
Chúng tôi nhớ, hồi còn nhỏ có đọc quyển sách trong đó nói rằng: "có rất nhiều người nhờ đọc những gương danh nhân mà từ đó đã thay đổi cuộc sống của chính bản thân mình". Chúng tôi tin rằng cuộc sống của Đại Lão Hòa Thượng cho chúng ta nhiều bài học ý niệm trong việc tu tập cũng như phục sự. Ngài đã đi một hành trình dài mà có quá nhiều điều để chúng ta có thể trầm tư.
Hôm nay trong tang lễ của Ngài với chương trình của Pháp Hội Hoa Khai Kiến Phật, vào giờ này là 4:00 giờ thứ Tư ngày 12-12-2012, chúng ta đặc biệt có một giờ để chiêm nghiệm. Một giờ chiêm nghiệm hôm nay và ngày mai ngày mốt cho đến thứ Bảy cũng vậy, riêng giờ chiêm nghiệm này chúng ta dành trọn thì giờ để nhắc lại hành trạng của Hòa Thượng thuở sanh thời qua những vị đã từng tiếp xúc đã từng làm việc và đã từng quen biết nhiều với Đại Lão Hòa Thượng.
Hòa Thượng Thích Thiện Tâm, Ngài là Chủ Tịch Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Canada, và cũng là Tổng Ủy Viên đặc trách liên lạc Canada của văn phòng II Viện Hóa Đạo. Có lẽ là một ở trong những vị pháp lữ quen biết với Hòa Thượng rất nhiều năm tháng, nhất là thời Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại Canada mới vừa thành lập. Năm nào Ngài Đại Lão Hoà Thượng cũng sang Canada để sinh hoạt trong những đại hội, trong những mùa an cư. Chúng tôi nghĩ rằng Ngài Hòa Thượng có nhiều giai thoại nhiều kỷ niệm và nhiều điều để chia sẻ với chúng ta ở trong cái quan hệ thân thiết với Đại Lão Hoà Thượng.
Bên cạnh Ngài, Hòa Thượng Huyền Việt thì có lẽ qúi vị ở đây không có xa lạ gì. Hòa Thượng Huyền Việt là Tổng Ủy Viên Thanh Niên của Giáo Hội Văn Phòng ÌI Viện Hóa Đạo và Hòa Thượng cũng là vị Tổng Ủy Trưởng Tổng Vụ Thanh Niên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất Hải Ngoại tại Hoa Kỳ. Và thưa quí vị, có lẽ quan hệ của Hòa Thượng Huyền Việt với Đại Lão Hòa Thượng của chúng ta bắt đầu rất sớm, từ thời Hòa Thượng còn ở Việt Nam và sang xứ này thì thật sự ở tại địa phương này thì Hòa Thượng Huyền Việt giống như người anh cả ở trong gia đình và chúng tôi cùng với những Sư khác như là em út sống quây quần bên chân của Hòa Thượng. Do vậy không nói gì với sự hoạt động ở trong Giáo Hội mà chỉ riêng công việc Phật sự tại địa phương này thì Hoà Thượng Huyền Việt cũng có nhiều thỉnh ý Ngài Đại Lão Hòa Thượng.
Do đó trong giờ này khi chiêm nghiệm về hành trạng của một Danh Tăng chúng con xin thay mặt đại chúng cung thỉnh nhị vị Hòa Thượng xin chia sẻ trong chương trình Pháp Hội này.
HT Huyền Việt: Là người sống bên cạnh Hòa Thượng, sống bên cạnh chư anh em huynh đệ đặc biệt dưới mái chùa Pháp Luân, những ngôi chùa thân thương thành viên của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, đó là, chùa Pháp Luân, chùa Bửu Môn, chùa Liên Hoa, và xa hơn thì có chùa Từ Bi, chùa Huyền Quang. HT Thích Thiện Tâm ngồi bên cạnh chúng tôi là người đã giúp đỡ để làm sao ngôi chùa Huyền Quang với danh nghĩa phương danh của Hòa Thượng Đệ Tứ Tăng Thống vẫn còn là ngôi chùa với danh hiệu của Ngài phục vụ cho Giáo Hội, phục vụ cho cộng đồng.
Hôm nay với đề tài "hành trình của một danh Tăng" tôi cũng cảm nhận được rằng TT Thích Giác Đẳng, Ngài đã soạn một chương trình tang lễ với Pháp Hội "Hoa Khai Kiến Phật" rất đẹp, được trong nước hội đồng lưỡng viện Chư Hòa Thượng, Đức Đệ Ngũ Tăng Thống, Chư Tôn Giáo Phẩm trong Hội Đồng Lưỡng Viện, Chư Tôn trong Văn Phòng ÌI Hội Đồng Điều Hành, và các Châu rất hoan hỉ với chương trình lễ tang đượm nhuần Phật Pháp như vậy.
Và khi nói "hành trình của một vị danh Tăng", ở đây chúng ta muốn nói Đức Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, cũng là Tăng Thống Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam tức là Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác. Chúng tôi cảm nhận, không biết là có đúng và có đủ không, tức là sinh thời khi Hòa Thượng ra hải ngoại năm 1982 cũng là lúc TT Giác Đẳng cũng có mặt ở tại đây và gần như việc rời khỏi Việt Nam sau biến cố đau thương của dân tộc năm 1975, tất cả chúng ta nói chung, trong đó có Thầy, Tổ, huynh đệ, ngoài đời thì cha mẹ, vợ chồng con cái ra đi như ong vỡ tổ và chúng tôi cũng vậy, Thầy Tổ, huynh đệ cũng vậy, vì đoạn đường rời bỏ Việt Nam không phải là đoạn đường dễ để đến được những xứ tự do. Do vậy, không ai rủ ai, không dám, cho đến lúc nào mình đến được bến bờ tự do rồi thì lúc bấy giờ ngồi tưởng nghĩ lại "phải chi lúc bấy giờ có Thầy Tổ, có huynh đệ, có bạn bè, có cha có mẹ, có anh em đi cùng, vợ chồng đi cùng v.v... nhưng trong khi gặp phải hoạn nạn lao đao trong rừng sâu núi thẳm hay lênh đênh trên biển cả với sóng to gió lớn thì lúc đó chỉ có một mình mình thôi, có rủi ro thì cũng chỉ mình thôi.
Thì sự đến Hoa Kỳ này, Đại Lão Hòa Thượng đã gặp TT Thích Giác Đẳng, và chúng tôi suốt chiều dài hiểu rằng cái gì mà Hòa Thượng phục vụ TT Thích Giác Đẳng thì tùy hỉ 100%, cái gì mà TT Thích Giác Đẳng tuy rằng còn trẻ nhưng mà những gì TT Thích Giác Đẳng hướng nguyện phục vụ, nghĩa là có tài thuyết giảng Phật Pháp, có tài tổ chức, có tài thẩm thấu những thông tin rút lại những thông tin cần phải biết, đặc biệt là những Phật sự lớn của Giáo Hội thì Hòa Thượng và Thượng Tọa như bóng với hình như cặp bài trùng. Khi nói vậy thì nghĩ đến bây giờ Hòa Thượng Thích Viên Lý cũng vậy, như bóng với hình như cặp bài trùng, sinh ra các Ngài trùng hợp với nhau.
Và điều đó nói lên là cái phước của Đại Lão Hòa Thượng Đức Phó Tăng Thống đức rất là lớn. Và ngày hôm nay chúng ta ngồi đây, chúng ta cảm nhận từng giờ, từng phút, từng ngày trôi qua cái đức của Hòa Thượng chúng ta đã hiểu được một chút qua những thông tin, qua những lời đọc từ ngắn đã thấy rằng Hòa Thượng chúng ta quả thật là một vị Danh Tăng đương đại của Phật Giáo Việt nam, của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam, của Phật Giáo Bắc Tông, đặc biệt là Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Hình ảnh nổi bậc của thế kỷ đương đại này, từ Đức Đệ Tam Tăng Thống sau biến cố đau thương cộng sản cưỡng chiếm miền Nam, Đức Đệ Tam Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Trung Hậu nổi bậc trong cái thế giới sầu, bi, khổ, ưu, não của Việt Nam, của vận mệnh linh đinh của dân tộc.
Sau Đức Đệ Tam Tăng Thống là Đức Đệ Tứ Tăng Thống, Đại Lão Hòa Thượng Thích Huyền Quang, sau Đức Đệ Tứ Tăng Thống là, Đệ Ngũ Tăng Thống Đại Lão Hòa Thượng Thích Quảng Độ. Và ở hải ngoại này sáng chói một vị Danh Tăng đó là Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác, Phó Tăng Thống Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Hình bóng của mỗi Ngài, khi chúng ta nhắc đến như vậy là những hình bóng sừng sững giữa quê hương đau khổ Việt Nam quốc nạn liền kéo theo tôn giáo đảng vào trong đó chúng ta gọi với cụm từ là "Pháp nạn". Các Ngài đã đến để làm một công trình đồ sộ ở giữa loài người đau thương, ở giữ dân tộc đau thương, ở giữa tôn giáo đau thương, ở giữa Phật Giáo đau thương.
Bây giờ chúng ta những người đang ngồi đây, hoặc là chúng ta đã nghe những thông tin xa gần, và thế giới ngày hôm nay. Chúng ta cảm nhận và tri nhận ra rằng Ngài đã đến, Ngài đã đi trong cao trào thông tin đại chúng rộng rãi, do đó những ngày tang lễ từ lúc Ngài sức khỏe kém kéo dài như là cây đèn dầu đã hao, tim đã lụt thì không có gì khác hơn cây đèn sẽ tắt, và đèn đã vụt tắt, Phó Tăng Thống của chúng ta đã ra đi.
Chúng tôi cảm nhận rằng là sự ra đi của Ngài, cuộc đời của Ngài như ngọn đèn, mỗi chúng ta như cây đèn mồi , chúng ta mồi hòai không thấy hết, không lưng cái ánh sáng của đèn gốc, là Ngài, là Hòa Thượng, rồi mỗi ngọn đèn của chúng ta nếu không phát triển thì chỉ bấy nhiêu thôi và nếu phát triển, phát triển ra hoài thì ngọn đèn của mình cũng không lưng.
Tôi cảm nhận được, sự suy nghĩ của tôi với Ngài Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác, Ngài như ngọn đèn đầu tiên cho tất cả môn đồ pháp quyến, pháp lữ, chư tôn Hòa Thượng, Chư Thượng Tọa, Đại Đức, Nam Bắc tông xa gần, chư vị Phật tử, chư vị thiện hữu tri thức, những ai mà biết Ngài, quí Ngài, kính ngài, thương Ngài, thì mỗi người đều như ngọn đèn thắp lên, mồi lên từ ngọn đèn của Ngài.
Như vậy, ngọn đèn đầu tiên vụt tắt đi, vụt tắt đi ngọn đèn đầu tiên, điều đó không có gì là đau buồn, vụt tắt đi chỉ là một hiện tượng, nhưng mà từ ngọn đèn đó biết bao nhiêu ngọn đèn khác được thắp lên, mỗi chúng ta đang ngồi đây là một ngọn đèn dầu mờ hay tỏ chúng ta cũng được mồi từ ánh sáng từ bi, trí tuệ, đại hùng đại lực của Đức Phó Tăng Thống.
Với pháp thoại hôm nay "hành trình của vị Danh Tăng" cá nhân chúng tôi ngồi bên Hòa Thượng Thích Thiện Tâm, không biết nói gì để mà bộc lộ hết tấm lòng của mình, và tôi cũng không biết nói gì để chúng ta có thể nói hết một nhân vật lỗi lạc kiệt xuất như vậy ở giữa chúng ta.
Ngôn ngữ rất giới hạn, sự hiểu biết của mình có giới hạn, cách trình bày của mình quá giới hạn trong cái con người của Ngài thật là vô hạn. Một chút nào đó của Ngài mà mình thấy mình học hoài không hết, đức nhẫn nại của Ngài nói học hoài không hết, là tôi nói là bản thân của tôi, nhẫn nại, biết Ngài nhẫn nại mà học hoài không hết, cái đức từ ái của Ngài mà mình học hoài không hết, cái thông minh kiệt xuất của Ngài mà mình học hoài không hết, như là một đấng thiên tài ra đời với thiên chức của mình, thiên chức đó là cùng gánh vác cái trọng trách vừa cao cả và bi hùng của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất.
Từ khi Ngài đi khởi từ 1963 cho tới bây giờ Ngài tắt hơi thở ở giữa xã hội Hoa Kỳ nơi đây chúng ta đang ngồi mà thi hài của Ngài còn đó, Ngài đi một cách trọn vẹn, chưa bao giờ thấy Ngài thối thất vai trò trách nhiệm của Ngài đối với Giáo Hội. Và lúc nào Ngài cũng là tàng cao bóng cả cho chư huynh đệ pháp lữ, chư tôn Hòa Thượng, Thượng Toạ, Đại Đức Tăng Ni, chư Phật tử và đối với đồng hương Việt Nam ở hải ngoại, Ngài là cái chỗ ánh sáng niềm hi vọng.
Và rồi trong tang lễ của Ngài chúng ta ngồi lại với nhau, trên Chư Tôn Đức, Chư Hòa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức Tăng Ni, dưới có nam nữ cư sĩ, huynh trưởng gia đình Phật tử, qúi vị thiện hữu tri thức, chúng ta có chút thì giờ từ hôm nay cho đến Chủ Nhật đối với chúng ta mà ngồi đây tới mấy ngày chúng ta thấy lâu lắm, nhưng nếu chúng ta trầm mình trong biển công đức của Ngài, trong tinh thần phục vụ của Ngài, trong hiến dâng của Ngài, trong từ bi trí tuệ của Ngài, trong ánh sáng của Ngài, trong sự hi sinh của Ngài, chúng ta cảm thấy thời gian quá ngắn để chúng ta ôn, chúng ta chia sẻ, để chúng ta tâm tình, để chúng ta thổn thức ...
Kỳ tới: HT Thích Thiện Tâm "Hành Trạng Một Danh Tăng"
Nhân đầu xuân Quý Tỵ, xin thành tâm kính chúc chư tôn đức Tăng Ni, quý đồng hương, đồng bào Phật tử xa gần tân niên phúc lạc, cát tường và thăng tiến.
Chùa Pháp Luân sẽ tổ chức Tết Nguyên Đán theo dung hợp truyền thống văn hóa Phật giáo và dân tộc theo lịch trình như sau:
GIAO THỪA - TỐI THỨ BẢY 9-2-2013
11:30 Lễ bái Tam Bảo, ba hồi chuông giao thừa, thông điệp tân niên, chú nguyện phước lành, múa lân, thỉnh lộc.
MÙNG MỘT TẾT - CHỦ NHẬT 10-2-2013
10:30 Khóa lễ cầu quốc thái dân an – thuyết pháp: Những Cái Mới Đáng Hoan Hỷ - Trai tăng. 6:30 Lễ Tam Bảo – dâng sớ cầu an tân niên – pháp thoại.
MÙNG HAI TẾT – THỨ HAI 11-2-2013
10:30 Nghi thức Paritta – Thuyết pháp: Niềm Hy Vọng Đích Thực Của Cuộc Sống – Trai Tăng. 6:30 Lễ Tam Bảo – thâm nhập thông điệp xuân của Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất - pháp thoại.
MÙNG BA TẾT – THỨ BA 12-2-2013
10:30 Nghi thức Hướng nguyện Công đức – Thuyết pháp: Tôn Giáo và Văn Hóa trong Ngày Tết Nguyên Đán Việt Nam – trai tăng. 6:30 Lễ Tam Bảo - tuyên sớ cầu siêu đầu năm – pháp thoại.
MÙNG BỐN TẾT – THỨ TƯ 13-2-2013
Ngày tưởng niệm và sinh hoạt tu học tại Kỷ Niệm Đường Cố Hòa Thượng Hộ Giác từ 10 giờ sáng đến 9 giờ tối.
MÙNG NĂM TẾT – THỨ NĂM 14-2-2013
Hành hương thập tự tri ân các chùa viện tại Houston.
MÙNG SÁU TẾT – THỨ SÁU 15-1-2013
Hành hương thập tự tri ân các chùa viện tại Dallas Fort Worth
Kính mời quý đồng hương, đồng bào Phật tử về chùa đón xuân và cầu nguyện đầu năm. Xin chư thiện thần hộ pháp gia hộ chúng ta.
Trụ trì
Tỳ kheo Giác Đẳng
Tin Tức Phật Giáo
Ngày 4-2-2013 - TT Giác Đẳng nói về chương trình sinh hoạt Phật sự trong những ngày Tết Nguyên Đán
Minh Hạnh chuyển biên
TT Giác Đẳng:Ngày hôm qua Chủ Nhật, ở tại thành phố Hololulu, Hawaìi, một phái đoàn của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam tại Hải Ngoại đã tổ chức một buổi lễ tưởng niệm một năm ngày ra đi của Hòa Thượng Giác Tâm là Phó Tăng Thống của Giáo Hội Tăng Già Nguyên Thủy Việt Nam. Nghi lễ được tổ chức tại Hawaìi Ala Moana park, nơi này cũng là nơi giữ một phần di cốt của Hòa Thượng. Trong nghi lễ có sự tham dự của một số những đệ tử rất thân với Hòa Thượng và Chư Tăng, sau khóa lễ tụng kinh đã có vài bài nói chuyện của từng vị nhắc về công hạnh cũng như hình ảnh của Hòa Thượng Giác Tâm.
Hòa Thượng Giác Tâm là một người tương đối đặc biệt về thân thế, Ngài vào chùa khi còn nhỏ ở chùa Giác Quang, Sàigòn. Và từ thập niên 50 của thế kỷ vừa rồi, Ngài đã rời Việt Nam để sang Thái Lan học và sau đó Ngài đi sang Singapore, Tích Lan, Pháp và sang Hoa Kỳ.
Trong cuộc sống của Ngài Hòa Thượng Giác Tâm thì bao nhiêu năm sống ở xứ người, Ngài là người đặc biệt thường nói về niềm tin ở Phật Pháp và niềm tin ở năng lực phước lành. Và có lẽ chính về điều này nên chi nhiều đệ tử của Ngài đã có những cách sinh hoạt tương đối rất đặc biệt, lúc nào cũng nghĩ đến việc tu tập tạo phước hồi hướng.
Nghi lễ đã được diễn ra trong vòng hai tiếng. Mặc dù những ngày cuối năm chùa nào cũng bận Tết nhưng Hòa Thượng Chơn Trí, TT Trí Tịnh và cá nhân chúng tôi đã dành thì giờ sang đây cùng với qúi Phật tử để tụng kinh nhân kỷ niệm một năm ngày ra đi của Ngài.
Nói đến ngày Tết thì. Tết Nguyên Đán gần kề và cũng như tất cả các chùa Phật Giáo Việt Nam ở hải ngoại, ngày Tết Nguyên Đán là một ngày Tết có tánh cách văn hóa nhung mà lại là những ngày rất bận rộn. Đa số những người Phật tử về chùa để cầu phước, để cầu an ngày đầu năm. Nhưng, vui xuân ở tại chùa là một trong những nét văn hóa còn gìn giữ tại hải ngoại cho đến ngày hôm nay. Những người già hoặc những người trẻ đều có lý do riêng về chùa.
Một điểm có thể nói liên quan đến các ngôi chùa ở hải ngoại là những bạn trẻ ở trong các tổ chức như Gia Đình Phật Tử, Hướng Đạo Phật Tử thường có một bộ phận chuyên biệt thành lập ra đội lân. Đội múa lân này cung ứng một nhu cầu rất quan trọng cho các cơ sở thương mại khi họ muốn có đội lân múa ở tại các cơ sở của mình. Và ở hải ngoại khi mà nghĩ đến những đội lân thì người ta thường nghĩ đến những đội lân xuất phát từ các chùa. Có lẽ là điều này đã trở nên một nét độc đáo riêng biệt cũng giống như bên Thiên Chúa giáo có những ca đoàn cho chương trình nhạc lễ tại nhà thờ thì tại các ngôi chùa ở hải ngoại các em trẻ thường tổ chức những đội múa lân.
Có thể nói rằng qua những sinh hoạt múa lân thì người ta nhận ra được một điều là các bạn trẻ rất say sưa thích thú đối với môn nghệ thuật truyền thống này. Các em thích đi múa lân, các em thích mặc ở trên người những gì mà có tánh cách làm văn hóa của Đông Phương. Nhưng, cũng có lẽ là sinh hoạt của đội lân đã trở thành một cái sinh hoạt rất là biểu tượng cho những ngày tết và cho một số các sinh hoạt của ngày lễ.
Riêng tại chùa Pháp Luân năm nay, không khí Tết sẽ được diễn ra một cách tương đối nhẹ nhàng, bởi vì sự ra đi của Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác, chùa không có trang hoàng ngày Tết giống như mọi năm nhưng thay vào đó thì chùa đặc biệt sẽ dành ra ba ngày trong dịp Tết để tưởng nhớ Hòa Thượng hoặc giả là liên quan đến sự ra đi của Hòa Thượng.
Như tất cả chúng ta đều biết Tết năm nay vào tối thứ Bảy, rất nhiều năm mới có một ngày Tết đón giao thừa vào tối thứ Bảy.
Ngày Mùng Một, Mùng Hai, Mùng Ba sẽ là của những ngày mở cửa để qúi Phật tử đi lễ chùa vào ngày Tết.
Riêng ngày Mùng Bốn thì chùa sẽ có một ngày tu học ở tại tịnh thất của Ngài.
Sau đó, ngày Mùng Năm, Mùng Sáu sẽ có một chuyến đi hành hương thăm viếng các ngôi chùa ở tại thành phố Houston và thành phố Dallas để bày tỏ lòng tri ân về sự giúp đỡ hoặc giả là tham dự tang lễ Ngài của các ngôi chùa địa phương.
Trong thời gian tổ chức tang lễ của Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác ở tại chùa Pháp Luân thì các ngôi chùa và Chư Vị Tăng Ni ở trong vùng đã hết sức tích cực để giúp đỡ như là trang trí hoặc giả là tổ chức đoàn diễn hành.
Và đầu xuân đi thăm viếng các ngôi chùa cũng như bày tỏ lòng tri ân, đó cũng là một điều mà những Chư Tăng và Phật tử tại chùa muốn nói rằng cho dù là ngày Tết Nguyên Đán, ngày mà đa số chúng ta đều thích những cuộc vui, riêng đối với chùa Pháp Luân và đối với Chư Tăng và Phật tử chùa Pháp Luân thì Tết năm nay để dành ra ba ngày để tưởng nhớ và làm những điều gì mà thật sự thấy có ý nghĩa khi mà tưởng nghĩ về Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác, một bậc Thầy vừa ra đi.
Video - Chùa Pháp Luân - Lễ Chung Thất và Nhập Thất của Cố Đại Lão HT Thích Hộ Giác
Video Chùa Pháp Luân - Ngày 20-1-2013 Lễ Chung Thất Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác .
Video Chùa Pháp Luân - Ngày 20-1-2013 Lễ Nhập Thất Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác .
Hình Ảnh Chụp Trong Lễ Chung Thất Ngài Cố Đại Lão Hòa Thượng Thích Hộ Giác
Hình ảnh do Phật tử Trần Kim Long chụp
TT Giác Đẳng trong nghi thức cúng dường Dakkhinadana - 20-1-2013
TT Giác Đẳng trong nghi thức cúng dường Dakkhinadana - 20-1-2013
Hòa Thượng Pháp Nhẫn trong Lễ Chung Thất do Hòa thượng Chơn Trí chủ lễ - 20-1-2013
Lễ Chung Thất do Hòa thượng Chơn Trí chủ lễ - 20-1-2013
TT Giác Đẳng nói về chương trình sinh hoạt Phật sự liên quan đến sự ra đi của Hòa Thượng Hộ Giác. Ngày 14-1-2013
Minh Hạnh chuyển biên
TT Giác Đẳng: chúng tôi trở lại một chương trình sinh hoạt Phật sự liên quan đến sự ra đi của Hòa Thượng Hộ Giác. Trong tang lễ của Hòa Thượng được tổ chức trong năm ngày và khi tang lễ diễn ra thông thường thì có rất nhiều chương trình tụng niệm, tuy vậy, chúng tôi đã thay thế vào đó bằng một pháp hội có nhiều bài giảng mỗi ngày và khi chư vị Giảng Sư ở xa về thì chúng tôi cũng mời để giảng dạy. Sau khi tang lễ hoàn tất, thì chúng tôi lại nghĩ đến một chuyện là, thông thường ở trong phong tục của người Việt Nam người Trung Hoa có ba năm cư tang, tức là để tang cho người mất nhất là đại tang thì ba năm, nhưng thật sự chỉ có 24 tháng, như Hòa Thượng mất tháng 12 năm 2012 thì năm tới tháng 12 năm 2013 là tiểu tường tính là năm thứ hai và năm sau nữa là đại tường thì tính là năm thứ ba.
Nhưng chúng tôi thì có một ý nghĩ là ở trong ba năm cư tang này chúng tôi sẽ có một chương trình sinh hoạt đặc biệt thay thế vào phong tục mà chúng ta thường có ở tại phương đông của chúng ta. Điều mà chúng tôi muốn làm đó là mặt dầu Hòa Thượng đã ra đi nhưng tinh thần, phong thái, tình thương và tấm gương sáng của Hoà Thượng sẽ tiếp tục tồn tại ở trong lòng của chúng ta.
Do vậy, chúng tôi đang biến tịnh thất của Ngài trở thành một Kỷ Niệm Đường. Và để thực hiện phần này thì Kỷ Niệm Đường sẽ được lập ngói lại và làm Stucco (tường bằng ciment) ở chúng quanh thay vì bằng siding (tường bằng ván). Thật ra hai điều này chúng tôi đã thưa trước với Hoà Thượng trước đây nhưng làm không kịp thì Ngài đã ra đi.
Và chẳng những vậy, ở tại Kỷ Niệm Đường này, ngoài phòng sinh hoạt lớn tức là trước kia là phòng khách và phòng ăn bây giờ thì chúng tôi cho sửa lại thành nơi diễn giảng.
Ba phòng ngủ còn lại trước kia là phòng ngủ của Hòa Thượng, phòng làm việc của Ngài, đồng thời có một phòng ngủ cho vị thị giả, thì riêng phòng ngủ của Hòa Thượng chúng tôi sẽ giữ nguyên như là lúc Ngài còn sinh tiền, phòng làm việc của Ngài chúng tôi sẽ biến thành nơi để triển lãm một số những hình ảnh văn kiện hiện vật liên quan đến Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam Thống Nhất, và phòng của thị giả Ngài sẽ được biến cải trở lại thành nơi triển lãm những sinh hoạt của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam ở hải ngoại.
Chương trình làm việc của Kỷ Niệm Đường là, một tuần lễ thì Kỷ Niệm Đường sẽ được đặc biệt mở cửa vào hai ngày thứ Bảy và Chủ Nhật, dĩ nhiên, những ngày còn lại sẽ được mở theo sự thăm viếng yêu cầu riêng của các phái đoàn, nhưng riêng ngày thứ Bảy và Chủ Nhật thì mỗi tuần như vậy chúng tôi sẽ tìm một số người tình nguyện tối thiểu là hai người trực tại Kỷ Niệm Đường từ sáng thứ Bảy cho đến chiều Chủ Nhật tức là liên tục hai ngày, những người này sẽ làm vai trò người đón tiếp các phái đoàn những người đến thăm viếng và hướng dẫn những gì cần thiết.
Ở bên trong Kỷ Niệm Đường sẽ là nơi triển lãm về hình ảnh, video, và những hiện vật liên quan đến cuộc đời của Ngài, chẳng những vậy mà còn là phòng đọc sách. Riêng về phòng đọc sách thì chúng tôi sẽ làm một thư viện điện toán có tất cả là 20 cái Ipad để cho những người đến đọc sách có thể xem hình ảnh của Hòa Thượng và đọc kinh điển qua Ipad thay vì đọc sách ở trên kệ sách và những video liên quan đến Phật học cũng có thể xem xuyên qua những Ipad này .
Điều chúng tôi muốn nói ở tại đây là, khi Hòa Thượng còn sinh tiền hàng năm có nhiều Phật tử ở xa như ở Âu Châu, Canada, Úc hoặc ở những tiểu bang xa xôi về tham dự như là thăm Hòa Thượng, bây giờ thì khi Ngài Hòa Thượng ra đi thì những vị này vẫn có thể về thăm viếng Hòa Thượng nhưng chúng tôi kêu gọi qúi vị đó trở thành những người thiện nguyện công quả để đứng ra đón tiếp những phái đoàn và những khách đến thăm viếng. Điều mà chúng tôi muốn làm là Chư Tăng và Phật tử ở trong chùa cũng như thân thích của Ngài Hòa Thượng sẽ giống như những người con ở trong gia đình đón tiếp những người khách ở xa về thăm viếng Hòa Thượng. Và như vậy những vị nào từ ở những phương trời xa xôi, thí dụ như một Phật tử Âu Châu mà hàng năm muốn sang để thăm Hòa Thượng mà bây giờ Hòa Thượng không còn nữa thì qúi vị có thể tình nguyện công quả hai ngày thứ Bảy và Chủ Nhật ở tại Kỷ Niệm Đường để làm công việc của một người đón tiếp hướng dẫn cho các phái đoàn và các Phật tử đến thăm viếng.
Và liên tục ở trong 24 tháng thì chúng tôi sẽ mời thỉnh những vị Giảng Sư, mời Chư Tăng, mời những vị cư sĩ Phật tử đã từng quen biết với Ngài để mỗi một tuần lễ sẽ có một đề tài nói chuyện về Phật Pháp hay là những kỷ niệm liên quan đến Ngài. Chúng tôi lấy ví dụ là, một Phật tử ở Minnesota vốn rất thân với Hòa Thượng và hai vị đó đã tình nguyện về vào tháng 10 năm nay để giúp cho một cuối tuần, và chẳng những vậy mà hai vị này lại thỉnh theo bốn nhà Sư người Cambochia đến để trình bày những nét đẹp của nền văn hóa Cambochia ở tại tịnh thất của Ngài, vì hai vị này nghĩ rằng lúc Ngài còn niên thiếu Ngài đã từng sống ở Cambochia và văn hóa của Cambochia đã trở thành một phần ở trong cuộc sống của Ngài nên hai vị này muốn làm một cuộc cúng dường bằng cách là thỉnh Chư Tăng về trong thời gian đó, sẽ tụng kinh, sẽ kệ kinh, và đồng thời nói lên một số điểm liên quan đến Phật Giáo Cambochia. Thì đó cũng là một dịp tốt để qúi Phật tử đến thưởng lãm một nền văn hóa Phật Giáo lân cận và đồng thời chúng ta cũng nhắc nhiều về Ngài Hòa Thượng qua sinh hoạt như vậy.
Thì mỗi tuần lễ như vậy sẽ có một người được mời đến nói chuyện tại Kỷ Niệm Đường.
- Sinh hoạt hàng tuần của chùa Pháp Luân từ 12 giờ cho đến 2 giờ
- và từ 2 giờ cho đến 4 giờ là sinh hoạt tại Kỷ Niệm Đường của Ngài tức là tại tịnh thất của Ngài bây giờ biến thành Kỷ Niệm Đường.
Và cũng là một nỗ lực của chúng tôi là mỗi một tuần lễ sẽ in một ấn phẩm khổ nhỏ như là một booklet. Quí vị nào mà có đọc quyển "Những bước thăng trầm" hay quyển "Bông hồng cái áo" thì đó là tiểu phẩm nhỏ, mỗi tuần in một tiểu phẩm như vậy, trong 52 tuần lễ chúng ta sẽ có 52 tiểu phẩm và những tiểu phẩm này mang những nội dung có tánh cách thực dụng ở trong đời sống vừa làm công đức pháp thí để cúng dường đến Hòa Thượng mà vừa làm một nét đặc biệt trong sinh hoạt của Kỷ Niệm Đường. Chúng tôi mong rằng, Ngài Hòa Thượng là một người rất ưa chuộng đọc kinh đọc sách thì khi Ngài ra đi rồi những tác phẩm như vậy sẽ là những món quà rất có ý nghĩa để dâng lên Hòa Thượng.
Khi xây dựng Kỷ Niệm Đường để tưởng nhớ Hòa Thượng chúng tôi không nghĩ đơn thuần đó là chỉ là một ngôi nhà kỷ niệm mà chúng tôi muốn đó là một nơi mà Phật tử có thể quây quần tìm được không khí ấm cúng trong sự tu học trong sự hoan hỉ trong sự an lạc và những người Phật tử từ xa về nếu muốn thăm Ngài thì có thể trở thành những người Phật tử công quả, trở thành những người đứng ra để đón tiếp, để hướng dẫn qúi Phật tử và các phái đoàn, thì như vậy tất cả chúng ta sẽ cùng tưởng nhớ Ngài một cách có ý nghĩa.
Chùa Sanjusangen-dō'- Một kiến trúc tuyệt vời của nghệ thuật Phật giáo Nhật Bản
Viết Bởi Igor I. Solar, Digital Journal, Jan 17, 2013
Nguyễn Văn Hoà Việt dịch
Kyoto, Nhật Bản -- Chùa Sanjusangen-dō tọa lạc tại thủ đô Kyoto, Nhật Bản, là nơi thờ phượng hơn 1000 tôn tượng gỗ được chạm khắc, phủ vàng lá, các tôn tượng có niên đại từ thế kỷ Mười ba, là một trong những tài sản văn hóa nổi bật nhất của Phật giáo Nhật Bản .
Tên chính thức của ngôi chùa Phật là "Renge-o-in", có nghĩa là "đền thờ của Vua Lotus", nhưng được biết đến nhiều hơn với cái tên là "Sanjusangen-dō ", có nghĩa là "Đại sảnh với số 33 cột trụ chống đỡ". Tên này đề cập đến 33 khoản không gian nằm giữa các trụ cột giữ mái nhà của đại sảnh dài 120-mét, được coi là một trong những kiến bằng gỗ dài nhất thế giới.
Con số 33 có một ý nghĩa đặc biệt trong tín ngưỡng Phật Giáo. Liên quan đến 33 hình thái của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát, là vị Bồ Tát Từ Bi Cứu Khổ Cứu Nạn, thị hiện với mục đích cứu con người khỏi nguy hiểm và đau khổ, và trao sự thịnh vượng và hạnh phúc cho những người cầu nguyện.
Trong Phật giáo, Đức Quán Thế Âm không nhất định là nam hay nữ, đôi khi là nam và cũng có khi là nữ, với thuộc tính chính là "thấy và nghe" tất cả những nỗi thống khổ và sự cầu xin giúp đỡ và sự cứu rỗi. Đức Quán Thế Âm, là một trong Bồ Tát được thở nhiều tại Nhật Bản và tất cả các khu vực châu Á là một "Bồ Tát" (aka Bosatsu), có nghĩa là một người đã đủ để đạt được "giác ngộ" (đạt Niết Bàn), nhưng vẫn còn thị hiện để nghe những nỗi thống khổ của con người và giúp đỡ những người gặp khó khăn, khổ nạn.
Chùa Sanjusangen-dō có từ năm 1164. Chùa được xây dựng tại thủ đô Kyoto theo lệnh của Hoàng đế Go-Shirakawa (1127 - 1192), một người tôn kính Đức Quán Thế Âm Bồ Tát là người thực hiện những nỗ lực tuyệt vời để mang lại hòa bình và thịnh vượng cho đất nước Nhật bằng cách truyền bá đức tin Phật giáo. Đại sảnh cũ chỉ có 124 tôn tượng đứng của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát. Vào năm 1249, ngôi chùa bị thiêu hủy trong lửa, nhưng những bức tượng đã được cứu kịp. Đại sảnh được xây dựng lại vào năm 1266 theo phong cách tương tự như kiến trúc ban đầu. Kể từ năm 1266, chùa đã được trùng tu lại bốn lần, nhưng phong cách vẫn như ngôi chùa cũ của thế kỷ XIII.
Những tác phẩm của nhà điêu khắc Tankei
Viết Bởi Igor I. Solar, Digital Journal, Jan 17, 2013
Nguyễn Văn Hoà Việt dịch
Các nhà điêu khắc nổi tiếng Nhật Bản Tankei (1173 - 1256), với hai cháu trai và khoảng 70 đệ tử của ngài, những nhà điêu khắc Phật giáo từ Kyoto và Nara, đã phục hồi 124 bức tượng gốc được lưu lại từ đám cháy, và tạo ra bức tượng Quan Thế Âm lớn trong tư thế ngồi tại trung tâm, và 876 pho tượng Quán Thế Âm nhỏ, có 28 vị thần giám hộ chịu trách nhiệm bảo vệ Phật giáo và bảo vệ tất cả các tôn tượng Quán Thế Âm, cộng thêm hai bức tượng của thần gió và thần sấm sét.
Hiện nay, chùa là nơi thờ 1.031 bức tượng, như là bộ sưu tập lớn nhất và tốt nhất của Nghệ thuật Phật giáo tại Nhật Bản. Những bức tượng được coi là tài sản quốc gia hoặc có giá trị như là tài sản văn hoá quan trọng của Nhật Bản.
Tôn tượng Bồ Tát chính của ngôi chùa, Quán Thế Âm Bồ Tát cao 3,4 m trong thế ngồi tráng với một kết sơn và phủ lá vàng. Hai tay chắp trước ngực, như là một dấu hiệu của sự được tôn trọng.
Ở mỗi bên của tôn tượng chính, có 500 tôn tượng Đức Quán Thế Âm Bồ Tát đứng với kích cỡ (khoảng 1,6 mét) được khắc trên cây bách Nhật Bản và cũng được phủ vàng lá. Được đặt trên 10 bậc tăng dần lên cao mỗi bậc có 50 bức tượng
1000 bức tượng rất giống nhau, sự khác biệt nếu có thì rất nhỏ có thể nhìn kỹ trong các biểu hiện của mắt và khuôn mặt của mỗi bức tượng. Ngoài ra, một số bức tượng mỏng hơn so với những bức tượng khác và trong một số trường hợp, y áo cũng cho thấy sự khác biệt nhỏ.
Hai mươi tám vị thần hộ pháp đứng trong một đường thẳng, phía trước hàng các tôn tượng Bồ Tát Quán Thế Âm, có 30 bức tượng biểu hiệ cho 28 vị thần hộ pháp là những vị có nhiệm vụ bảo vệ Đức Quán Thế Âm là những người tôn kính và tin tưởng vào Đức Quán Thế Âm. Ở đầu mỗi hàng có hai tượng được mô tả là thần Raijin, vị chúa tể của sấm sét và thần Fujin vị chúa tể của gió. Những tôn tượng của những vị thần hộ pháp có nguồn gốc từ Phật giáo Ấn Độ, và họ có tên Nhật Bản, nhưng cũng được biết đến bằng tên trong tiếng Phạn, ngôn ngữ Indo-Aryan cổ đại được sử dụng như ngôn ngữ học, văn học và thiêng liêng của Ấn Độ giáo và Phật giáo.
Những tôn tượng này có kích thước khoản từ 1,56 và 1,70 mét. Tùy thuộc vào chức năng của họ hoặc các thuộc tính thần thoại, hoặc có biểu hiện hòa bình và giữ các dụng cụ âm nhạc, hoặc họ có hiển hiện sự khốc liệt, sự giận dữ, cho thấy các cơ bắp hoặc mặc áo giáp và giữ vũ khí. Một vài bức tượng có tinh thể mắt bóng truyền đạt một biểu thức thực tế cho đôi mắt và khuôn mặt.
Các tôn tượng của chùa Sanjusangen-do là tài sản quan trọng của văn hóa và ảnh hưởng của Phật giáo Ấn Độ phát và nghệ thuật của Nhật Bản. Mỗi bức tượng ở ngôi đền này, bao gồm 1001 tôn tượng của Đức Bồ Tát Quán Thế Âm và các vị thần hộ pháp, rất là đẹp, nhưng tầm ảnh hưởng của hơn một nghìn bức tượng trong hơn bảy thế kỷ, và được hiển thị như là một khối, rất sâu rộng.
Người tu sĩ Campuchia với khuynh hướng tập võ đạo Karate
bởi Ravi Nagahawatte, The Ntion (Sri Lanka), 25 November 2012 Nguyễn Văn Hoà Việt dịch
Colombo, Sri Lanka - Sự giao hảo giữa Campuchia và Sri Lanka về niềm tin Phật giáo đã có từ nhiều thế kỷ. Phật giáo Sri Lanka đã có một ảnh hưởng lớn đến Phật giáo Campuchia, đặc biệt là bởi vì các nhà sư Phật giáo của Tích Lan đã đóng góp to lớn trong việc thành lập Phật giáo tại các nước Đông Nam Á.
Trong nhiều năm qua Sri Lanka đã đón tiếp một số lượng ổn định các nhà Sư đến từ Campuchia. Tất cả trong số họ đến đây để nghiên cứu tu tập Phật giáo. Tuy nhiên, họ đã nhận thấy một vị tăng sĩ có một sự sinh hoạt khác với những người khác. Vị tăng sĩ này đã sắp xếp thời gian mỗi ngày để học võ đạo karate ngoài giờ học Giáo Pháp.
Nhà sư Campuchia 27 tuổi, tên là Ven. Em Hong đến đây để hoàn thành bằng cấp của mình trong Phật giáo. Ông đến Sri Lanka vào năm 2010 với các sự chúc lành của cha mẹ mình, cả những người nông dân địa phương nơi ông ở. Ông nói với người viết rằng ông muốn tiếp tục cuộc nghiên cứu học tập của mình cao hơn và Thầy của ông đã cho ông nhiều cơ hội để theo đuổi giấc mơ của mình.
"Ở Campuchia, cuộc sống bận rộn và mọi người hầu như bị kiệt sức khi về nhà sau những giờ làm việc, do đó không thể có thời gian để nghiên cứu và tu tập", ông Ven. Hong và nói thêm: "Tôi không thích lối sống bận rộn tại Campuchia." Mong muốn của ông là hoàn thành bằng cấp của mình ở Sri Lanka và trở về Campuchia. Nhưng sẽ có một thay đổi lớn trong sự lựa chọn lối sống của mình trong tương lai. Ông muốn trở về cuộc sống của một người cư sĩ.
"Sau khi hoàn thành việc nghiên cứu tu tập của tôi, tôi sẽ tiếp tục là một vị tu sĩ để học hỏi thêm trong một vài năm trước khi tôi cởi bỏ bộ áo cà sa để trở về đời sống người thường. Mục tiêu của ông là trở thành một giáo viên và phục vụ cộng đồng. Những năm qua tôi dành thời gian trong việc học Phật Pháp như một tăng sĩ sẽ giúp tôi bước vào xã hội như là một người dân tốt ", ông xác nhận . Trước khi trở thành một vị tu sĩ, Ven. Hồng là một giáo sư dạy tiếng Anh tại Campuchia. Ông dường như không có ấn tượng những hạn chế khi nói về giáo dục ở Campuchia. "Đây không phải là quốc gia cho nghiên cứu. Có rất nhiều tiêu cực, "ông nhấn mạnh.
Tuy nhiên, ông đã nhanh chóng chỉ ra rằng ông rất thích sự kinh nghiệm tự do của các nhà sư ở Sri Lanka so với lối sống nghiêm ngặt dẫn đầu bởi các nhà sư Campuchia. "Quay trở lại đất nước của tôi, tôi là một tu sĩ sẽ không được phép tập luyện võ đạo karate ", ông nói. Ông là một trong những sinh viên có triển vọng nhất trong trường Toyo Kai Karate Federation của Sri Lanka (Nằm ở Nugegoda) và cũng rất xuất sắc trong tất cả các bài kiểm tra kể từ khi ông tham gia các lớp học cách đây ba năm. "Tôi luyện tập võ đạo karate hai lần một ngày. Cám ơn cho đời sống khỏe mạnh mà tôi được hưởng tôi không nhớ nổi lần chót mà tôi bị bịnh là khi nào. Võ đạo Karate thì tương tự như thiền định và giúp nuôi dưỡng tâm trí và cơ thể, "Ven. Hồng tập môn thể thao võ đạo Karate đạt tới đai nâu.
Mặc dù ông là một nhà sư, ông không ép mình trong các hạn chế về chế độ ăn uống của mình vì ông tin rằng nhu cầu dinh dưỡng quan trọng cho thể thao. Ông đã tuân thủ cuộc sống của một tu sĩ và dùng một ngày trên hai bữa ăn. Khi ông đến Sri Lanka, ông sống trong một ngôi chùa ở Homagama. Nhưng bây giờ ông sống trong một căn phòng thuê ở Pitipana và các chi phí cho thuê là do các Hiệp hội các nhà sư Phật giáo Campuchia ở Sri Lanka đài thọ.
Ông đã giảng về Phật giáo cho các bạn bè tập võ đạo karate với ông và dạy cho họ những bài học quan trọng. Ven, Hong nói ông thích triết học. Từ lối nói chuyện cho tới sự tiếp cận với đời sống Phật giáo người ta có thể dồn hết tất cả những gì mà người ta có trong việc đạt được tiềm năng của mình như một con người. "Tôi tin rằng con đường Bát Chánh Đạo được giảng dạy bởi Đức Phật là con đường phía trước. Bạn làm tốt, bạn nhận được tốt ", ông nói. Giống như Sri Lanka bị khủng bố bởi phiến quân Tiger, Cam-pu-chia cũng đã trải qua một thời kỳ đen tối khi quân đội Khmer Đỏ cai trị . "Phật giáo có thể giúp thúc đẩy hòa bình ở tất cả các quốc gia", Ven. Hồng kết luận.
Danh Ngôn Thế Giới - Lời Hay Ý Đẹp
Trong thiên hạ có ba cái nguy:
Đức ít mà được ân sủng nhiều.
Tài kém mà ở địa vị cao.
Thân không lập được công to mà hưởng bổng lộc nhiều.
Hòai Nam Tử .
Chuyện Cười
Xui xẻo đủ đường
Một người đàn ông với vẻ mặt buồn bã đang ngồitrong quán bar. Ông ta nhìn vào ly rượu trước mặt suốt nửa tiếngđồng hồ như muốn tự đắm mình trong cái ly. Một thanh niên bước vàoquán, đến ngồi bên cạnh người đàn ông, vỗ mạnh vào lưng ông, cầm lyrượu đặt trên bàn và uống cạn. Người đàn ông thấy vậy khóc òa lên... Anh thanh niên vội nói:
- Thôi mà, ông đừng khóc nữa. Tôi chỉ muốn đùa thôi! Tôi sẽ gọi một ly khác cho ông...
- Không phải tôi khóc vì chuyện này - Người đànông giải thích - Hôm nay là ngày tồi tệ nhất trong đời tôi. Buổisáng, tôi đã thức dậy muộn và đi làm trễ. Sếp nổi giận và cho tôinghỉ việc. Khi ra khỏi văn phòng, tôi phát hiện chiếc xe của mìnhđã bị đánh cắp. Cảnh sát cho biết không thể làm gì và tôi sẽ khôngbao giờ tìm lại được chiếc xe... Sau đó tôi đã đón taxi để về nhà,nhưng khi ra khỏi xe, tôi lại bỏ quên chiếc ví trên ghế nệm và xeđã chạy mất. Lúc bước vào nhà, tôi nhìn thấy vợ mình đang ở trêngiường cùng với ông hàng xóm. Tôi ra khỏi nhà và quyết định kếtliễu cuộc đời mình. Tôi vào quán bar này và khi định chết, thì anhđến và đã uống cạn ly rượu có chứa thuốc độc của tôi...
Những câu chuyện ngụ ngôn hay
Gà rừng và cáo
Gà rừng đậu trên cây. Cáo đi tới gần và bảo:
- Chào anh bạn gà rừng bé bỏng của tôi ! Vừa nghe thấy tiếng gáy lảnh lót của bạn, tôi liền tìm đến thăm bạn ngay.
Cáo giả bộ không nghe thấy, nó nói tiếp:
- Anh bạn nói gì thế ? Tôi không nghe thấy gì. Anh bạn gà rừng bé bỏng của tôi, giá bạn xuống bãi cỏ này mà dạo chơi, chuyện trò với tôi, chứ ở trên cây tôi chẳng nghe rõ.
Gà rừng bảo:
- Tôi sợ xuống bãi cỏ. Họ nhà chim muông chúng tôi đi dưới mặt đất nguy hiểm lắm.
- Hay bạn sợ tôi ? -Cáo hỏi
- Không phải sợ chị, mà tôi sợ là sợ các con thú khác - Gà rừng trả lời - Trên đời có đủ loại thú khác nhau.
- Không, anh bạn gà rừng bé bỏng của tôi, vừa có lệnh ban bố rằng trên khắp mặt đất này hoà bình rồi.
- Thế thì tốt - Gà rừng nói - chứ không thì thấy bầy chó đang chạy kia, cứ theo lệ cũ thì chị hẳn đã phải chuồn cho mau rồi, còn bây giờ thì chị chẳng phải lo sợ gì nữa.
Cáo nghe nói đến chó, vểnh tai lên và đã toan bỏ chạy.
- Chị định đi đâu thế ? -Gà rừng nói - Bây giờ lệnh đã ban bố rồi kia mà, chó sẽ không động đến chị.
- Nhưng ai mà biết được - Cáo nói - Có thể bọn họ chưa nghe gì về lệnh ấy.
Và nó ù té chạy.
Cổ Học Tinh Hoa
86. CỨU NGƯỜI LÚC NGUY CẤP
Trang Chu nghèo túng sang hỏi vay thóc Ngụy Văn Hầu. Ngụy Văn Hầu nói:
“Tôi có cái ấp, người ta sắp nộp tiền thóc, tôi sẽ cho ông vay ba trăm lạng, ông có bằng lòng không?”
Trang Chu giận nói: “Khi Chu đến đây, đi giữa đường nghe có tiếng gọi, ngoảnh lại thấy một con cá đang ngắc ngải trong cái vết bánh xe. Chu này hỏi: Cá ở đây làm gì thế? -Cá đáp: Tôi là thủy thần ở bên bể Đông mắc nạn tại đây, ông có thể cho tôi bát nước để cứu tôi lúc nguy cấp này không? -Chu này bảo: Để tôi qua chơi nước Ngô, nước Việt rồi lấy nước sông Tây Giang về đón ngươi, ngươi có bằng lòng không? Cá giận nói: Tôi đang cần đến nước, ông chỉ cho tôi được một ít là tôi sống. Nay ông nói như thế; đợi đến lúc ông về, thì có khi ông đến chỗ hàng cá khô đã thấy tôi đấy rồi.”
Thuyết Uyển
GIẢI NGHĨA
Ngụy Văn Hầu: Văn Hầu nước Ngụy, cứ theo sách Trang Tử tuyết thi là Giám Hà Hầu
LỜI BÀN
Thành Tâm Cầu Nguyện.
Cố Tu Nữ Diệu Từ thân mẫu TT Giác Đẳng mãn phần ngày 8 tháng 8 năm 2010
được về cõi an lạc.