Fragments of a Teaching |
Vài Đoạn Ngắn Của Giáo Pháp |
All of you have believed in Buddhism for many years now through hearing about the Buddhist Teachings from many sources — especially from various monks and teachers. In some cases Dhamma is taught in very broad and vague terms to the point where it is difficult to know how to put it into practice in daily life. In other instances Dhamma is taught in high language or special jargon to the point where most people find it difficult to understand, especially if the teaching is done too literally from scripture. |
Tất cả quư vị đều có niềm tin nơi Phật Giáo từ nhiều năm qua v́ đă được nghe nhiều người đề cập đến những Lời Dạy của Phật Giáo -- nhất là các nhà sư và các thầy dạy học ngoài đời. Trong vài trường hợp Giáo Pháp được giảng dạy một cách bao quát và mơ hồ đến độ khó hiểu, khó nhận thức, để có thể đem ra thực hành trong đời sống hằng ngày. Trong những trường hợp khác, Giáo Pháp được thuyết giảng với ngôn ngữ quá cao siêu hay với những danh từ quá đặc biệt chuyên môn làm cho phần đông khó lănh hội, nhất là khi lời dạy theo quá sát văn tự của kinh điển. |
Lastly there is Dhamma taught in a balanced way, neither too vague nor too profound, neither too broad nor too esoteric — just right for the listener to understand and practice to personally benefit from the Teachings. Today I would like share with you Teachings of the sort I have often used to instruct my disciples in the past; Teachings which I hope may possibly be of personal benefit to those of you here listening today. |
Sau cùng, có một lối giảng b́nh dị, thông thường, không quá mơ hồ cũng không quá sâu sắc, không quá rộng răi bao quát cũng không quá bí ẩn -- chỉ vừa phải cho người nghe lănh hội và thực hành để tự ḿnh thọ hưởng lợi ích của Giáo Huấn. Hôm nay Sư muốn chia sẻ với quư vị lời thuyết giảng Giáo Pháp mà trong quá khứ Sư thường áp dụng để dạy đệ tử; Giáo Huấn mà Sư hy vọng sẽ có thể mang lợi ích đến cho từng cá nhân quư vị đang ngồi đây lắng nghe. |
One who wishes to reach the Buddha-Dhamma |
Người Có Ước Vọng Đạt Đến Phật Pháp |
One who wishes to reach the Buddha-Dhamma must firstly be one who has faith or confidence as a foundation. He must understand the meaning of Buddha-Dhamma as follows: |
Người có ước vọng đạt đến Giáo Pháp của Đức Phật (Buddha-Dhamma, Phật Pháp) trước tiên phải có đức tin, hay niềm tin vững chắc nơi Tam Bảo để làm nền tảng. Người ấy phải thấu hiểu ư nghĩa của Phật Pháp như sau: |
Buddha: the One-Who-Knows, the one who has purity, radiance and peace in his heart. |
Phật, Buddha - Người giác ngộ, người thông suốt, người có tâm trong sạch, sáng ngời và thanh b́nh an lạc. |
Dhamma: the characteristics of purity, radiance and peace which arise from morality, concentration and wisdom. |
Pháp, Dhamma - Các đặc tính của sự trong sạch, sáng ngời và thanh b́nh an lạc phát sanh từ Giới, Định, Tuệ. |
Therefore, one who is to reach the Buddha-Dhamma is one who cultivates and develops morality, concentration and wisdom within himself. |
V́ lẽ ấy, người có nguyện vọng tiến đạt đến Phật Pháp là người gia công trau giồi và phát triển Giới, Định, Tuệ bên trong ḿnh. |
Walking the Path of Buddha-Dhamma |
Đi Trên Con Đường Của Phật Pháp |
Naturally people who wish to reach their home are not those who merely sit and think of traveling. They must actually undertake the process of traveling step by step, and in the right direction as well, in order to finally reach home. If they take the wrong path they may eventually run into difficulties such as swamps or other obstacles which are hard to get around. Or they may run into dangerous situations in this wrong direction, thereby possibly never reaching home. |
Lẽ dĩ nhiên, những ai muốn về nhà ḿnh đến nơi đến chốn sẽ không chỉ giản dị ngồi yên một chỗ rồi suy tư về cuộc hành tŕnh. Vị ấy phải thật sự dấn thân vào cuộc đi, bước từng bước một theo đúng chiều hướng, để cuối cùng về đến nhà. Nếu đi lạc đường họ có thể gặp phải những khó khăn như bị đầm lầy hoặc các chướng ngại khác, cản ngăn mà không thể đi bọc ṿng quanh. Hoặc nữa, trong khi lầm đường lạc nẽo họ có thể rơi vào những hoàn cảnh hiểm nguy và sẽ không bao giờ về được đến nhà. |
Those who reach home can relax and sleep comfortably — home is a place of comfort for body and mind. Now they have really reached home. But if the traveler only passed by the front of his home or only walked around it, he would not receive any benefit from having traveled all the way home. |
Người về đến nhà có thể nghỉ ngơi thoải mái và an giấc ngon lành -- nhà cửa ḿnh là nơi có đầy đủ tiện nghi cho cả thân lẫn tâm. Giờ đây họ thật sự về đến nhà. Tuy nhiên, nếu khách lữ hành chỉ đi ngang qua trước nhà, hoặc chỉ đi ṿng quanh nhà, th́ không thọ nhận được lợi ích của người đă về đến tận nhà. |
In the same way, walking the path to reach the Buddha-Dhamma is something each one of us must do individually ourselves, for no one can do it for us. And we must travel along the proper path of morality, concentration and wisdom until we find the blessings of purity, radiance and peacefulness of mind that are the fruits of traveling the path. However, if one only has knowledge of books and scriptures, sermons and sutras, that is, only knowledge of the map or plans for the journey, even in hundreds of lives one will never know purity, radiance and peacefulness of mind. Instead one will just waste time and never get to the real benefits of practice. Teachers are those who only point out the direction of the Path. After listening to the teachers, whether or not we walk the Path by practicing ourselves, and thereby reap the fruits of practice, is strictly up to each one of us. |
Cùng thế ấy, đi trên con đường nhằm đạt đến Phật Pháp là công tŕnh mà mỗi người chúng ta, từng cá nhân, phải tự ḿnh gia công nỗ lực, bởi v́ không ai khác có thể làm cho ta. Và chúng ta phải dấn thân đi dài theo con đường Giới, Định, Tuệ cho đến khi t́m được quả phúc cao thượng của trạng thái tâm trong sạch, sáng ngời và thanh b́nh an lạc, vốn là quả lành của cuộc hành tŕnh trên con đường. Dầu sao sự hiểu biết suông qua sách vở và kinh điển, qua những thời Pháp hay những bài kinh, chỉ giống như kiến thức của người xem bản đồ hay nghiên cứu kế hoạch đi đường, dầu có phải trải qua hằng trăm kiếp sống đi nữa, cũng sẽ không bao giờ biết được trạng thái trong sạch, sáng ngời, và thanh b́nh an lạc của tâm. Chỉ hoang phí th́ giờ mà không bao giờ thành đạt những lợi ích của pháp hành. Các bậc Đạo Sư là những người chỉ vạch cho ta hướng đi trên con đường. Sau khi đă nghe lời dạy của Thầy, có đi theo con đường cùng không, có gia công thực hành để thọ hưởng những quả lành của con đường cùng không, hoàn toàn do nơi mỗi người chúng ta. |
Another way to look at it is to compare practice to a bottle of medicine a doctor leaves for his patient. On the bottle is written detailed instructions on how to take the medicine, but no matter how many hundred times the patient reads the directions, he is bound to die if that is all he does. He will gain no benefit from the medicine. And before he dies he may complain bitterly that the doctor wasn't any good, that the medicine didn't cure him! He will think that the doctor was a fake or that the medicine was worthless, yet he has only spent his time examining the bottle and reading the instructions. He hasn't followed the advice of the doctor and taken the medicine. |
Một lối nh́n khác là so sánh pháp hành với lọ thuốc mà vị bác sĩ trao cho bệnh nhân. Trên chai thuốc có những ḍng chữ chỉ dẫn rành mạch với đầy đủ chi tiết về phương cách dùng thuốc. Tuy nhiên, dầu có đọc đi đọc lại hằng trăm lần những lời chỉ dẫn ấy, và chỉ làm có thế thôi, bệnh nhân ắt phải chết, không thọ hưởng lợi ích nào của thuốc. Có thể trước khi ĺa đời người bệnh ấy sẽ chua cay trách móc, than phiền rằng thầy dở, thuốc xấu, không chữa được bệnh anh! Anh ta sẽ nghĩ rằng vị bác sĩ là hạng lang băm, hạng lương y giả mạo, c̣n thuốc th́ không công hiệu, trong khi ấy anh chỉ phung phí th́ giờ để quan sát lọ thuốc và đọc lời chỉ dẫn. Anh không theo đúng lời dặn của bác sĩ, không uống thuốc. |
However, if the patient actually follows the doctor's advice and takes the medicine regularly as prescribed, he will recover. And if he is very ill, it will be necessary to take a lot of medicine, whereas if he is only mildly ill, only a little medicine will be needed to finally cure him. The fact that we must use a lot of medicine is a result of the severity of our illness. It's only natural and you can see it for yourself with careful consideration. |
Nếu thật sự tuân hành theo lời chỉ dẫn của bác sĩ và đều đặn uống thuốc, bệnh nhân sẽ b́nh phục. Nếu là chứng bệnh trầm trọng bệnh nhân sẽ cần phải uống thật nhiều thuốc, c̣n như chỉ ốm đau sơ sài th́ người bệnh chỉ cần uống một ít cũng đủ lành bệnh. Sở dĩ phải uống nhiều thuốc là v́ chứng bệnh của ta trầm trọng. Đó chỉ là tự nhiên, và nếu thận trọng suy tư, tự chính ta có thể thấy rơ điều nầy. |
Doctors prescribe medicine to eliminate disease from the body. The Teachings of the Buddha are prescribed to cure disease of the mind, to bring it back to its natural healthy state. So the Buddha can be considered to be a doctor who prescribes cures for the ills of the mind. He is, in fact, the greatest doctor in the world. |
Bác sĩ biên toa cho thuốc để tiêu trừ chứng bệnh của thân. Những lời dạy của Đức Phật được ban truyền để chữa trị những chứng bệnh tâm thần, đem tâm trở về trạng thái lành mạnh thiên nhiên. Như vậy Đức Phật có thể được xem là vị bác sĩ cho thuốc để chữa bệnh của tâm. Trong thực tế, Ngài là bậc Tối Thượng Y Vương trên thế gian. |
Mental ills are found in each one of us without exception. When you see these mental ills, does it not make sense to look to the Dhamma as support, as medicine to cure your ills? Traveling the path of the Buddha-Dhamma is not done with the body. You must travel with the mind to reach the benefits. |
Những chứng bệnh tâm linh ấy đều có hiện hữu bên trong mỗi người chúng ta, không loại trừ ai. Như vậy, mỗi khi thấy bệnh mà ta hướng cái nh́n về Pháp Bảo để t́m nương tựa, t́m phương thuốc trị liệu cho căn bệnh tâm linh của ḿnh, th́ có hợp lư chăng? Trên "con đường Phật Pháp" ta không đi bằng thân. Cuộc hành tŕnh phải được trải qua bằng tâm mới thành đạt lợi ích. |
We can divide these travelers into three groups: |
Và khách lữ hành có thể được phân làm ba nhóm người ở ba mức độ khác nhau như sau: |
First Level: this is comprised of those who understand that they must practice themselves, and know how to do so. They take the Buddha, Dhamma and Sangha as their refuge and have resolved to practice diligently according to the Teachings. These persons have discarded merely following customs and traditions, and instead use reason to examine for themselves the nature of the world. These are the group of "Buddhist believers." |
Mức độ thứ nhất: bao gồm những người hiểu biết rằng họ phải tự ḿnh gia công thực hành, và họ cũng hiểu biết phải thực hành như thế nào. Họ quy y Tam Bảo, trở về nương tựa nơi Phật, Pháp, Tăng và lập tâm nhất quyết chuyên cần thực hành Giáo Pháp. Những người ấy chỉ tự ḿnh tách rời ra khỏi những phong tục tập quán quen thuộc mà họ đă theo, và dùng lư trí tự ḿnh quán chiếu bản chất thiên nhiên của vạn pháp. Đó là nhóm người "Phật tử có đức tin". |
Middle Level: This group is comprised of those who have practiced until they have an unshakable faith in the Teachings of the Buddha, the Dhamma and the Sangha. They also have penetrated to the understanding of the true nature of all compounded formations. These persons gradually reduce clinging and attachment. They do not hold onto things and their minds reach deep understanding of the Dhamma. Depending upon the degree of non-attachment and wisdom they are progressively known as stream-enterers, once-returners and nonreturners, or simply, Noble Ones. |
Mức độ trung b́nh: bao gồm những người nỗ lực thực hành cho đến khi đức tin nơi Giáo Pháp trở nên vững chắc, tức niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng của ḿnh không thể c̣n bị lay chuyển. Các vị nầy cũng thấm nhuần, tiến sâu vào sự hiểu biết bản chất thật sự của tất cả các pháp hữu vi. Các Ngài dần dần buông bỏ, giảm bớt bám níu và luyến ái, không nắm giữ sự vật, và tâm tiến đạt đến mức sâu sắc thấu triệt Giáo Pháp. Tùy thuộc mức độ buông bỏ -- tức không luyến ái -- và trí tuệ, các Ngài tiến dần từ bậc Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm, đến A Na Hàm, hay nói một cách giản dị, các Ngài tuần tự chứng đắc các tầng Thánh. |
Highest Level: This is the group of those whose practice has led them to the body, speech and mind of the Buddha. They are above the world, free of the world, and free of all attachment and clinging. They are known as Arahats or Free Ones, the highest level of the Noble Ones. |
Mức độ cao nhất: bao gồm những vị mà pháp hành đă đưa các Ngài đến trạng thái thân, khẩu, ư của Đức Phật. Các Ngài đă vượt lên trên thế gian, ra khỏi thế gian, và qua khỏi mọi h́nh thức bám níu và luyến ái. Các Ngài được tôn là bậc A La Hán (Arahat), hoàn toàn giải thoát, mức độ cao siêu nhất trong các tầng Thánh. |
How to Purify One's Morality |
Làm Thế Nào Thanh Lọc Giới Đức? |
Morality is restraint and discipline of body and speech. On the formal level this is divided into classes of precepts for lay people and for monks and nuns. However, to speak in general terms, there is one basic characteristic — that is INTENTION. When we are mindful or self-recollected, we have right intention. Practicing self-recollection and mindfulness will generate good morality. |
Giới đức là thu thúc và kiểm soát thân, khẩu, khép hành động và lời nói của ḿnh vào khuôn khổ kỷ cương. Về phương diện nghi thức, giới luật được phân làm hai hạng: giới cho người cư sĩ tại gia và giới của hàng xuất gia, tỳ khưu và tỳ khưu ni. Tuy nhiên, một cách tổng quát, đặc tính căn bản của giới luật là "tác ư", "ư muốn" nằm phía sau hành động và lời nói. Khi có chánh niệm, tự hay biết ḿnh, ắt chúng ta suy tư chân chánh và có "ư muốn làm" chân chánh. Công tŕnh tự hay biết ḿnh và gom tâm chú niệm sẽ dẫn đến giới đức thanh cao trong sạch -- giới tịnh. |
It is only natural that when we put on dirty clothes and our bodies are dirty, that out minds too will feel uncomfortable and depressed. However, if we keep our bodies clean and wear clean, neat clothes, it makes our minds light and cheerful. So too, when morality is not kept, our bodily actions and speech are dirty, and this is a cause for making the mind unhappy, distressed and heavy. We are separated from right practice and this prevents us from penetrating in the essence of the Dhamma in our minds. The wholesome bodily actions and speech themselves depend on mind, properly trained, since mind orders body and speech. Therefore, we must continue practice by training our minds. |
Đó chỉ là lẽ dĩ nhiên, khi ta mặc áo quần dơ dáy và ḿnh mẩy của ta cũng nhơ bẩn th́ tâm sẽ cảm nghe kém thoải mái, bực bội, và khó chịu. Trái lại, nếu chúng ta giữ thân ḿnh sạch sẽ và quần áo tươm tất gọn gàng th́ tâm sẽ cảm nghe nhẹ nhàng khoan khoái và dễ chịu. Cùng thế ấy, khi giới đức không được thanh tịnh nghiêm tŕ, thân và khẩu ắt nhơ bẩn và đó là nguyên nhân làm cho tâm ưu phiền, sầu muộn và nặng nề. Chúng ta đă xa ĺa pháp hành chân chánh, và điều nầy gây trở ngại, không để cho ta thấm nhuần, ăn sâu vào tinh chất nguyên thể của Giáo Pháp trong nội tâm. Trạng thái lành mạnh trong sạch của thân và khẩu tùy thuộc nơi mức độ mà tâm được chân chánh rèn luyện, v́ tâm điều khiển hành động và lời nói. V́ lẽ ấy chúng ta phải gia công thực hành pháp luyện tâm. |
Practice of Concentration Training |
Thực Hành Thiền Tập |
The training in concentration is practiced to make the mind firm and steady. This brings about peacefulness of mind. Usually our untrained minds are moving and restless, hard to control and manage. Mind follows sense distractions wildly just like water flowing this way and that, seeking the lowest level. Agriculturists and engineers, though, know how to control water so that it is of greater use to mankind. Men are clever, they know how to dam water, make large reservoirs and canals — all of this merely to channel water and make it more useable. In addition the water stored becomes a source of electrical power and light, further benefits from controlling its flow so that it doesn't run wild and eventually settle into a few low spots, its usefulness wasted. |
Thực tập an trụ tâm là pháp hành làm cho tâm trở nên vững chắc, không chao động. Pháp hành nầy đưa tâm đến trạng thái an tĩnh, vắng lặng. Thông thường, cái tâm không được rèn luyện của chúng ta luôn luôn di động, khó kiểm soát, khó điều khiển. Tâm bay nhảy điên cuồng hoang dại theo những mê loạn của giác quan giống như nước chảy tán loạn đầu nầy đầu kia, t́m đến nơi thấp nhất. Mặc dầu vậy, các chuyên viên nông nghiệp và các kỹ sư hiểu biết phải làm thế nào để kiểm soát và dùng nước vào những việc có lợi ích nhất cho nhân loại. Con người thông minh, biết cách giữ chứa nước lại, biết xây đắp những hồ chứa thật rộng lớn, và đào kinh -- tất cả những công tŕnh nầy chỉ nhắm vào mục đích duy nhất là dẫn nước và làm cho nước trở nên hữu dụng. Hơn nữa, nước được tích trữ trong hồ chứa lại được xử dụng để tạo điện lực, ánh sáng và các công dụng khác cũng do nhờ ta biết kiểm soát lưu lượng, không để nó tự nhiên trôi chảy một cách hoang phí và ứ đọng trong các vũng đầm nhỏ. |
So too, the mind which is dammed and controlled, trained constantly, will be of immeasurable benefit. The Buddha Himself taught, "The mind that has been controlled brings true happiness, so train you minds well for the highest of benefits." Similarly, the animals we see around us — elephants, horses, cattle, buffalo, etc., must be trained before they can be useful for work. Only after they have been trained is their strength of benefit to us. |
Tâm ta cũng vậy. Được chứa giữ và kiểm soát, được cần mẫn và kiên tŕ rèn luyện, tâm sẽ đem lại những lợi ích to tát không thể lường. Đức Phật dạy, "Tâm được kiểm soát đem lại chân hạnh phúc. V́ lẽ ấy các con hăy gia công tu tập, rèn luyện tâm ḿnh để thành đạt lợi ích cao thượng nhất". Các con thú mà ta thấy quanh đây cũng thế, như voi, ngựa, ḅ, trâu v.v.. đều phải được tập luyện mới có thể dùng được. Chỉ khi nào được rèn luyện đầy đủ, sức mạnh của con vật mới thật sự hữu dụng cho ta. |
In the same way, the mind that has been trained will bring many times the blessings of that of an untrained mind. The Buddha and His Noble Disciples all started out in the same way as us — with untrained minds; but afterwards look how they became the subjects of reverence for us all, and see how much benefit we can gain through their teaching. Indeed, see what benefit has come to the entire world from these men who have gone through the training of the mind to reach the freedom beyond. The mind controlled and trained is better equipped to help us in all professions, in all situations. The disciplined mind will keep our lives balanced, make work easier and develop and nurture reason to govern our actions. In the end our happiness will increase accordingly as we follow the proper mind training. |
Một cái tâm được rèn luyện thuần thục sẽ đem lại phước lành không biết bao nhiêu lần nhiều hơn là tâm buông lung hoang dại. Đức Phật và chư vị Thánh đệ tử của Ngài đều khởi đầu y như chúng ta -- với cái tâm không được rèn luyện. Vậy mà về sau, hăy xem các Ngài đă trở nên đối tượng kỉnh mộ tôn sùng của tất cả chúng ta như thế nào, và hăy nh́n xem bao nhiêu lợi ích mà chúng ta đă thọ nhận từ những lời dạy của các Ngài. Quả thật vậy, hăy nh́n xem những lợi ích mà toàn thể thế gian đang thọ hưởng do những vị đă trải qua suốt công tŕnh luyện tâm và thành đạt tự do cùng tột. Một cái tâm được cẩn trọng kiểm soát và rèn luyện ắt cũng được trang bị hoàn hảo để hỗ trợ chúng ta trong mọi nghề nghiệp, ở mọi hoàn cảnh. Một cái tâm được uốn nắn và khép vào khuôn khổ kỷ cương sẽ giữ cho cuộc sống quân b́nh, công ăn việc làm dễ dàng hơn và phát triển dưỡng nuôi lư trí để điều hành các sinh hoạt của ta. Cuối cùng, hạnh phúc của chúng ta sẽ tăng trưởng cùng nhịp, tương xứng với pháp luyện tâm thích nghi. |
The training of the mind can be done in many way, with many different methods. The method which is most useful and which can be practiced by all types of people is known as "mindfulness of breathing." It is the developing of mindfulness on the in-breath and the out-breath. In this monastery we concentrate our attention on the tip of the nose and develop awareness of the in- and out-breaths with the mantra word "BUD-DHO." If the meditator wishes to use another word, or simply be mindful of the air moving in and out, this is also fine. Adjust the practice to suit yourself. The essential factor in the meditation is that the noting or awareness of the breath be kept up in the present moment so that one is mindful of each in-breath and each out-breath just as it occurs. While doing walking meditation we try to be constantly mindful of the sensation of the feet touching the ground. |
Công tŕnh luyện tâm có thể được thực hiện theo nhiều đường lối, với nhiều phương thức khác nhau. Phương pháp hữu ích nhất và có thể được tất cả mọi người -- với những tâm tánh khác nhau -- áp dụng thực hành là pháp "niệm hơi thở". Đó là trau giồi và phát triển tâm, chú niệm hơi-thở-ra, thở-vào. ở tu viện nầy chúng tôi tập trung sự chú ư vào chót mũi và gom tâm hay biết nơi hơi-thở-vào và hơi-thở-ra bằng cách niệm thầm hai chữ "BUD-DHO" như câu chú. Nếu hành giả muốn dùng chữ nào khác để niệm, hoặc không niệm chữ nào mà chỉ chú tâm vào hơi gió di chuyển ra vào cũng được. Hành giả thay đổi, tự điều chỉnh, t́m lối thực hành nào thích hợp nhất với ḿnh. Yếu tố chánh yếu trong pháp hành là luôn luôn giữ chánh niệm, luôn luôn ghi nhận, hay biết hơi thở trong khoảnh khắc hiện tại, để theo dơi gom tâm vào mỗi hơi-thở-vào và mỗi hơi-thở-ra, ngay lúc nó xảy diễn. Trong khi đi kinh hành, hăy cố gắng luôn luôn giữ tâm niệm ở cảm giác của bàn chân chạm xuống đất. |
This practice of meditation must be pursued as continuously as possible in order for it to bear fruit. Don't meditate for a short time one day and then in one or two weeks, or even a month, meditate again. This will not bring results. The Buddha taught us to practice often, to practice diligently, that is, to be as continuous as we can in the practice of mental training. To practice meditation we should also find a suitably quiet place free from distractions. In gardens or under shady trees in our back yards, or in places where we can be alone are suitable environments. If we are a monk or nun we should find a suitable hut, a quiet forest or cave. The mountains offer exceptionally suitable places for practice. |
Pháp hành thiền nầy phải được kiên tŕ thực hành, càng liên tục càng tốt, để mang lại kết quả tốt đẹp. Không nên chỉ hành một thời gian ngắn trong ngày rồi ngưng luôn một hai tuần hay cả tháng mới hành trở lại. Hành gián đoạn như thế sẽ không gặt hái thành quả. Đức Phật dạy nên siêng năng hành thiền, và chuyên cần hành thiền, có nghĩa là ta phải tận lực cố gắng, giữ cho pháp hành luôn luôn liên tục, không gián đoạn. Khi hành thiền chúng ta nên t́m một nơi yên tĩnh, thanh vắng, để có thể hành mà không bị ngoại cảnh làm xao lăng. Trong vườn hoặc dưới một cội cây có tàng bóng mát mẻ, kín đáo, phía sau nhà hoặc nơi nào khác mà ta có thể ở một ḿnh không bị khuấy động, là những nơi thích hợp. Nếu là tỳ khưu hay nữ tu sĩ th́ ta nên t́m một cái cốc (tịnh thất nhỏ) thích nghi, một khu rừng yên tĩnh hoặc một hang đá hoang vu vắng vẻ. Cảnh núi non có nhiều nơi đặc biệt thích nghi với pháp hành. |
In any case, wherever we are, we must make an effort to be continuously mindful of breathing in and breathing out. If the attention wanders to other things, try to pull it back to the object of concentration. Try to put away all other thoughts and cares. Don't think about anything — just watch the breath. If we are mindful of thoughts as soon as they arise and keep diligently returning to the meditation subject, the mind will become quieter and quieter. When the mind is peaceful and concentrated, release it from the breath as the object of concentration. Now begin to examine the body and mind comprised of the five khandas: material form, feelings, perceptions, mental formations and consciousness. Examine these five khandas as they come and go |
Trong bất luận trường hợp nào, dù ở đâu, chúng ta phải nỗ lực gia công chú tâm niệm hơi-thở-ra, thở-vào một cách liên tục. Nếu sự chú tâm xao lăng, hướng đến điều ǵ khác, hăy cố gắng kéo nó trở về đề mục. Cố gắng dẹp qua một bên tất cả những suy tư hay những lo âu khác. Không nghĩ đến bất cứ ǵ. Chỉ theo dơi bám sát vào hơi thở. Nếu ta giữ chánh niệm, ghi nhận và hay biết những ư nghĩ ngay lúc nó vừa khởi sanh và chuyên cần quay về đề mục hành thiền, tâm sẽ càng lúc càng trở nên vắng lặng. Khi tâm thư thái tự tại và an trụ vững vàng, hăy buông rơi hơi thở, không dùng hơi thở làm đề mục hành thiền nữa. Bây giờ hăy quán chiếu thân và tâm (danh và sắc), vốn bao gồm năm uẩn; sắc, thọ, tưởng, hành, và thức. Hăy theo dơi và quán sát năm uẩn ấy ngay lúc nó đến rồi đi. |
You will see clearly that they are impermanent, that this impermanence makes them unsatisfactory and undesirable, and that they come and go of their own — there is no "self" running things. There is to be found only nature moving according to cause and effect. All things in the world fall under the characteristics of instability, unsatisfactoriness and being without a permanent ego or soul. Seeing the whole of existence in this light, attachment and clinging to the khandas will gradually be reduced. This is because we see the true characteristics of the world. We call this the arising of wisdom. |
Ta sẽ thấy rơ ràng rằng ngũ uẩn là vô thường, rằng trạng thái vô thường làm cho nó là bất toại nguyện và không đáng được ưa thích, rằng tự nó đến rồi đi -- không có một cái "ngă" điều khiển sự vật. Chỉ có thiên nhiên, di chuyển theo định luật nhân quả. Tất cả mọi sự vật trên thế gian đều nằm trong những đặc tính bất ổn định, bất toại nguyện, và không có một tự ngă thường c̣n, hay một linh hồn trường cửu. Khi nh́n toàn thể kiếp sinh tồn dưới ánh sáng nầy mọi luyến ái và bám níu vào ngũ uẩn sẽ dần dần suy giảm. Đó là do chúng ta thấy được những đặc tính thật sự của thế gian, bản chất thật sự của vạn hữu. Ta gọi đó là sự phát sanh trí tuệ. |
The Arising of Wisdom |
Trí Tuệ Phát Sanh |
Wisdom is to see the truth of the various manifestations of body and mind. When we use our trained and concentrated minds to examine the five khandas, we will see clearly that both body and mind are impermanent, unsatisfactory and soul-less. In seeing all compounded things with wisdom we do not cling or grasp. Whatever we receive, we receive mindfully. We are not excessively happy. When things of ours break up or disappear, we are not unhappy and do not suffer painful feelings — for we see clearly the impermanent nature of all things. When we encounter illness and pain of any sort, we have equanimity because our minds have been well trained. The true refuge is the trained mind. |
Trí tuệ là nh́n thấy thực tướng những biểu hiện khác nhau của thân và tâm. Khi dùng cái tâm an trụ và được rèn luyện thuần thục của ḿnh để quán chiếu năm uẩn ta sẽ thấy rơ ràng rằng cả hai, thân và tâm, là vô thường, bất toại nguyện, và vô ngă. Thấy tất cả các pháp hữu vi với trí tuệ như vậy ta không c̣n luyến ái hay bám níu vào nó nữa. Bất luận ǵ thọ nhận, ta thọ nhận với chánh niệm. Chúng ta không quá đổi vui mừng. Khi vật ǵ của ta tan vỡ, hư hoại hay biến tan, chúng ta không quá âu sầu phiền muộn, và khi bị đau đớn chúng ta không buồn khổ -- bởi v́ ta thấy rơ bản chất vô thường của tất cả mọi sự vật. Khi lâm bệnh và phải chịu đau nhức như thế nào đi nữa ta vẫn b́nh thản, giữ tâm xả, bởi v́ tâm của ta đă được rèn luyện đầy đủ. Tâm thuần thục là nơi nương tựa thật sự. |
All of this is known as wisdom which knows the true characteristics of things as they arise. Wisdom arises from mindfulness and concentration. Concentration arises from a base of morality or virtue. All of these things, morality, concentration and wisdom, are so inter-related that it is not really possible to separate them. In practice it can be looked at in this way: first there is the disciplining of the mind to be attentive to breathing. This is the arising of morality. When mindfulness of breathing is practiced continuously until the mind is quiet, this is the arising of concentration. Then examination showing the breath as impermanent, unsatisfactory and not-self, and the subsequent non-attachment, is the arising of wisdom. Thus the practice of mindfulness of breathing can be said to be a course for the development of morality, concentration and wisdom. They all come together. |
Tất cả những điều nầy được gọi là trí tuệ, cái trí tuệ thấu triệt chân tướng của sự vật ngay lúc nó vừa khởi sanh. Tuệ phát sanh do niệm và định. Định phát sanh từ nền tảng giới luật, hay đức hạnh. Tất cả những pháp nầy -- giới, định và tuệ -- tương quan với nhau rất mật thiết, đến độ không thể thật sự tách rời ra. Theo kinh nghiệm của pháp hành ta có thể nh́n ba pháp nầy như sau: Trước tiên, đặt tâm trong khuôn khổ kỷ luật để niệm hơi thở. Đó là sự khởi sanh của Giới. Khi chánh niệm được kiên tŕ và liên tục an trụ vào hơi thở cho đến khi trở nên vắng lặng, đó là sự phát sanh của Định. Đến lúc công tŕnh quán chiếu cho thấy rằng hơi thở là vô thường, bất toại nguyện và vô ngă, và tiếp theo đó là tâm buông bỏ, không luyến ái, đến với hành giả. Đó là sự phát sanh của Tuệ. Như vậy có thể nói rằng pháp niệm hơi thở là một pháp môn tu tập nhằm trau giồi và phát triển Giới, Định, Tuệ. Cả ba cùng đến chung với nhau. |
When morality, concentration and wisdom are all developed, we call this practicing the Eightfold Path which the Buddha taught as our only way out of suffering. The Eightfold Path is above all others because if properly practiced it leads directly to Nibbana, to peace. We can say that this practice reaches the Buddha-Dhamma truly and precisely. |
Khi Giới, Định và Tuệ đều cùng được trau giồi và phát triển ta gọi là thực hành Bát Chánh Đạo. Đức Phật dạy rằng đó là con đường duy nhất dẫn thoát ra khỏi mọi khổ đau. Bát Chánh Đạo cao siêu hơn tất cả các pháp, v́ nếu thực hành thích nghi, đó là con đường đưa thẳng đến Niết Bàn, đến thanh b́nh an lạc. Ta có thể nói rằng pháp hành nầy thật sự đưa đến tận Đức Phật và Giáo Pháp một cách chính xác. |
Benefits from Practice |
Những Lợi ích Của Pháp Hành |
When we have practiced meditation as explained above, the fruits of practice will arise in the following three stages: |
Khi ta hành thiền như đă được giải thích ở phần trên, những quả lành của pháp hành nầy sẽ trổ sanh theo ba giai đoạn như sau: |
First, for those practitioners who are at the level of "Buddhist be faith," there will arise increasing faith in the Buddha, Dhamma and Sangha. This faith will become the real inner support of each person. Also, they will understand the cause-and-effect nature of all things, that wholesome action brings wholesome result and that unwholesome action brings unwholesome result. So for such a person there will be a great increase in happiness and mental peace. |
Trước tiên, đối với những vị hành giả ở mức độ "Phật tử có đức tin" th́ niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng càng tăng trưởng mạnh mẽ hơn. Niềm tin nầy trở thành nguyên động lực thật sự dũng mănh, hỗ trợ bên trong mỗi người. Các vị nầy cũng thấu hiểu tận tường hơn, bản chất "nhân sanh quả" của vạn pháp, rằng thiện nghiệp sẽ đưa đến quả lành và bất thiện nghiệp sẽ đưa đến quả dữ. Đối với người như thế ấy hạnh phúc càng thêm dồi dào và nội tâm càng thêm thanh b́nh an lạc. |
Second, those who have reached the noble attainments of stream-winner, once-returner or nonreturner, have unshakable faith in the Buddha, Dhamma and Sangha. They are joyful and are pulled towards Nibbana. |
Thứ đến là những vị đă thành đạt các Thánh Quả Tu Đà Huờn, Tư Đà Hàm, hoặc A Na Hàm. Niềm tin nơi Phật, Pháp, Tăng, của những vị nầy không c̣n có thể lay chuyển. Các Ngài vô cùng an lạc và vững vàng tiến bước trên con đường dẫn đến Niết Bàn. |
Third, for those Arahats or Perfected Ones, there will be the happiness free from all suffering. These are the Buddhas, free from the world, complete in the Faring of the Holy Way. |
Thứ ba là chư vị A La Hán, bậc Toàn Thiện, những vị đang thọ hưởng loại hạnh phúc hoàn toàn vượt ra khỏi mọi h́nh thức đau khổ. Các Ngài đă là Phật, đă vượt ra khỏi thế gian và đă viên măn hoàn tất cuộc hành tŕnh trên Con Đường của bậc Thánh Nhân. |
We all have had the good fortune to be born as human beings and to hear the Teachings of the Buddha. This is an opportunity that millions of other beings do not have. Therefore do not be careless or heedless. Hurry and develop merits, do good and follow the path of practice in the beginning, in the middle and in the highest levels. Don't let time roll by unused and without purpose. Try to reach the truth of the Buddha's Teachings even today. Let me close with a Lao folk-saying: "Many rounds of merriment and pleasure past, soon it will be evening. Drunk with tears now, rest and see, soon it will be too late to finish the journey." |
Tất cả chúng ta đă có diễm phúc được sanh làm người và được nghe Giáo Huấn của Đức Phật. Đó là cơ hội ngàn vàng mà hàng triệu chúng sanh khác không được có. Như vậy, chớ nên hờ hững dể duôi hoặc buông lung không chuyên cần. Hăy nhanh chóng tạo phước, hành thiện, và noi theo con đường của pháp hành từ đoạn đầu, đoạn giữa, đến mức độ cao thượng nhất. Không nên để thời gian trôi qua một cách hoang phí mà không có mục tiêu. Hăy cố gắng vượt đến chân lư của những lời dạy mà Đức Từ Phụ đă ban truyền, ngay trong ngày hôm nay. Bây giờ, để chấm dứt thời Pháp hôm nay, Sư nhắc lại một bài ca dao của người Lào, đại ư như sau: "Nhiều cuộc vui đă tàn, nhiều lạc thú đă trôi vào dĩ văng. Trời sắp xế chiều và màn đêm sẽ nhanh chóng rủ xuống. Giờ đây, đang say sưa với những ḍng lệ tuôn rơi, hăy ngừng nghỉ và nh́n xem, không bao lâu nữa sẽ quá muộn để viên măn hoàn tất cuộc hành tŕnh." |
A Gift of Dhamma |
Món Quà Pháp Bảo |
(A Discourse delivered to the assembly of Western Monks, Novices and Lay-disciples at Bung Wai Forest Monastery, Ubon, on 10th October, 1977. This Discourse was offered to the parents of one of the monks on the occasion of their visit from France.) |
(Dưới đây là thời Pháp do Ngài Ajahn Chah thuyết giảng tại chùa Bung Wai, một ngôi chùa rừng tại tĩnh Ubon, ngày 10 tháng 10, năm 1977, trước một cử tọa gồm những vị tỳ khưu, sa di và cư sĩ người Tây Phương. Ngài đặc biệt giảng cho cha mẹ một vị sư người Pháp, nhân dịp ông bà nầy đến chùa thăm người con tu học tại đó.) |
I am happy that you have taken this opportunity to come and visit Wat Pah Pong, and to see your son who is a monk here, however I'm sorry I have no gift to offer you. France already has so many material things, but of Dhamma there's very little. Having been there and seen for myself, there isn't really any Dhamma there which could lead to peace and tranquillity. There are only things which continually make one's mind confused and troubled |
Sư lấy làm hoan hỷ hôm nay thấy hai Ông Bà có cơ hội đến viếng Wat Pah Pong và thăm con là một nhà sư đang tu học tại đây. Nhưng Sư cũng lấy làm tiếc v́ không có quà tặng nào để biếu Ông Bà. Tại Pháp đă có nhiều vật quư giá, nhưng Giáo Pháp th́ quả thật hiếm hoi. Sư đă có qua bên đó và đă nh́n thấy tận mắt rằng ở đó không có Giáo Pháp nào khả dĩ thật sự dẫn đến thanh b́nh an tĩnh. Chỉ có những sự vật không ngừng khuấy động tâm tư con người. |
France is already materially prosperous, it has so many things to offer which are sensually enticing — sights, sounds, smells, tastes and textures. However, people ignorant of Dhamma only become confused by them. So today I will offer you some Dhamma to take back to France as a gift from Wat Pah Pong and Wat Pah Nanachat. |
Pháp là một quốc gia phồn thịnh, có đời sống vật chất phong phú dồi dào và có nhiều quyến rũ đủ loại để kích thích giác quan: sắc, thinh, hương, vị, xúc. Tuy nhiên, người không thông hiểu Giáo Pháp sẽ bị rối loạn và lạc lối giữa ḍng lôi cuốn mê ly ấy. Do vậy, hôm nay Sư thân tặng hai Ông Bà một ít Giáo Pháp để mang về quê nhà như một món quà của Wat Pah Pong và Wat Pah Nanachat. |
What is Dhamma? Dhamma is that which can cut through the problems and difficulties of mankind, gradually reducing them to nothing. That's what is called Dhamma and that's what should be studied throughout our daily lives so that when some mental impression arises in us, we'll be able to deal with it and go beyond it. |
Giáo Pháp là ǵ? Giáo Pháp là cái ǵ có thể cắt ngang và chận đứng, làm suy giảm dần dần và tận diệt những vấn đề phiền phức và những khó khăn của nhân loại. Đó là cái được gọi là Giáo Pháp. Và đó là cái ǵ phải được nghiên cứu và học hỏi hằng ngày, xuyên qua suốt kiếp sống, để mỗi khi có một cảm xúc khởi phát chúng ta có thể đối phó và vượt qua một cách an toàn. |
Problems are common to us all whether living here in Thailand or in other countries. If we don't know how to solve them, we'll always be subject to suffering and distress. That which solves problems is wisdom and to have wisdom we must develop and train the mind. |
Tất cả chúng ta đều phải gặp những vấn đề khó khăn, dầu sống ở Thái Lan hay trong một quốc gia nào khác. Nếu ta không biết phương cách để giải quyết ắt phải chịu đau khổ và phiền muộn âu sầu. Phép mầu có khả năng giải quyết những vấn đề khó khăn của đời sống là trí tuệ, và muốn thành đạt trí tuệ phải rèn luyện, phát triển và trau giồi tâm. |
The subject of practice isn't far away at all, it's right here in our body and mind. Westerners and Thais are the same, they both have a body and mind. A confused body and mind means a confused person and a peaceful body and mind, a peaceful person. |
Đối tượng của pháp môn tu tập nầy không phải ở đâu xa lạ mà nằm ngay trong thân và tâm của ta. Dầu người Phương Tây hay người Thái cũng vậy, ai ai cũng đều có thân và tâm, sắc và danh. Thân tâm rối loạn có nghĩa là con người rối loạn. Thân tâm an lạc là con người an lạc. |
Actually, the mind, like rain water, is pure in its natural state. If we were to drop green coloring into clear rain water, however, it would turn green. If yellow coloring it would turn yellow. The mind reacts similarly. When a comfortable mental impression "drops" into the mind, the mind is comfortable. When the mental impression is uncomfortable, the mind is uncomfortable. The mind becomes "cloudy" just like the colored water. |
Trong thực tế, cũng như nước mưa, bản chất thiên nhiên của tâm là trong sạch. Mặc dầu vậy, nếu ta nhỏ vào nước mưa trong trẻo một vài giọt màu, màu xanh chẳng hạn, nước sẽ trở nên xanh. Nếu nhỏ màu vàng, nước sẽ vàng. Phản ứng của tâm cũng dường thế ấy. Khi vài "giọt" cảm thọ thoải mái dễ chịu được "nhỏ" vào tâm, tâm sẽ thoải mái dễ chịu. Những thọ cảm bực bội khó chịu sẽ làm cho tâm bực bội khó chịu. Giống như nước có pha màu, tâm sẽ trở nên "lu mờ", không c̣n trong trẻo. |
When clear water contacts yellow, it turns yellow. When it contacts green, it turns green. It will change color every time. Actually, that water which is green or yellow is naturally clean and clear. This is also the natural state of the mind, clean and pure and unconfused. It becomes confused only because it pursues mental impressions; it gets lost in its moods! |
Pha lẫn màu vàng vào nước trong, nước sẽ vàng. Pha màu xanh, nước sẽ xanh. Nước đổi màu mỗi khi pha trộn với màu. Trong thực tế, bản chất thiên nhiên thật sự của nước, dầu xanh hay vàng, vốn là trong trẻo và sạch sẽ. Trạng thái thiên nhiên của tâm cũng vậy, sạch sẽ và trong trẻo, tinh khiết và an tĩnh. Những thọ cảm khác nhau làm cho tâm trở nên rối ren cuồng loạn; tâm bị lạc lối giữa mê hồn trận, trong những cơn buồn vui lẫn lộn của cuộc sống. |
Let me explain more clearly. Right now we are sitting in a peaceful forest. Here, if there's no wind, a leaf remains still. When a wind blows it flaps and flutters. The mind is similar to that leaf. When it contacts a mental impression, it, too, "flaps and flutters" according to the nature of that mental impression. And the less we know of Dhamma, the more the mind will continually pursue mental impressions. Feeling happy, it succumbs to happiness. Feeling suffering, it succumbs to suffering. It's constant confusion! |
Để Sư giải thích rơ thêm. Hiện giờ chúng ta đang ngồi tại khu rừng an tĩnh nầy. ở đây không có gió. Lá cây im ĺm, không chao động. Khi có gió thoảng qua th́ lá cây rung chuyển, phất phơ. Tâm cũng như chiếc lá. Khi tiếp nhận thọ cảm tâm cũng "rung chuyển và phất phơ" như lá, tùy thuộc và tương ứng với bản chất của loại thọ. Càng ít hiểu biết Giáo Pháp tâm càng liên tục theo đuổi những thọ cảm nhiều hơn. Nếu là cảm giác sung sướng, thọ lạc, tâm rơi vào trạng thái hạnh phúc. Nếu là đau đớn, thọ khổ, tâm sẽ bị lôi cuốn vào buồn khổ. Măi măi bị rối loạn! Trong cả hai trường hợp, đàng nào tâm cũng bị khuấy động. |
In the end people become neurotic. Why? Because they don't know! They just follow their moods and don't know how to look after their own minds. When the mind has no one to look after it, it's like a child without a mother or father to take care of him. An orphan has no refuge and, without a refuge, he's very insecure. |
Cuối cùng người ta bị loạn thần kinh. Tại sao? Bởi v́ họ không hiểu biết! Họ chỉ chạy theo cảm xúc vui buồn tùy hứng và không biết phải làm thế nào để chăm sóc cái tâm của ḿnh. Khi tâm không được ai trông nom chăm sóc th́ nó giống như trẻ con không cha không mẹ, không được ai trông chừng dạy dỗ. Đứa bé mồ côi không nơi nương tựa ắt phải sống trong t́nh trạng vô cùng bấp bênh, bất an toàn. |
Likewise, if the mind is not looked after, if there is no training or maturation of character with right understanding, it's really troublesome. |
Cùng một thế ấy, nếu cái tâm không được giữ ǵn chăm sóc, nếu nó không được rèn luyện thuần thục theo đường hướng của chánh kiến, th́ rơ thật là phiền phức. |
The method of training the mind which I will give you today is Kammatthana. "Kamma" means "action" and "thana" means "base." In Buddhism it is the method of making the mind peaceful and tranquil. It's for you to use in training the mind and with the trained mind investigate the body. |
Phương pháp rèn luyện tâm mà Sư sẽ tặng cho quư vị hôm nay là kammatthàna. "Kamma" là hành động. "Thàna" là nền tảng. Trong Phật Giáo, đây là pháp làm cho tâm thanh b́nh, vắng lặng, phương pháp mà quư vị áp dụng để rèn luyện tâm. Với tâm được rèn luyện, quư vị sẽ quán chiếu thân. |
Our being is composed of two parts: one is the body, the other, the mind. There are only these two parts. What is called "the body," is that which can be seen with our physical eyes. "The mind," on the other hand, has no physical aspect. The mind can only be seen with the "internal eye" or the "eye of the mind." These two things, body and mind, are in a constant state of turmoil. |
Con người gồm có hai thành phần: thân là một, và phần kia là tâm. Chỉ có hai phần ấy. Phần mà chúng ta gọi là "thân" th́ mắt thịt có thể thấy. C̣n "tâm" th́ không có h́nh tướng vật chất. Chỉ có thể thấy tâm được bằng "nội nhăn", hay "tâm nhăn", mắt của tâm. Cả hai thành phần nầy -- thân và tâm -- đều ở trong trạng thái luôn luôn biến chuyển, luôn luôn chao động. |
What is the mind? The mind isn't really any "thing." Conventionally speaking, it's that which feels or senses. That which senses, receives and experiences all mental impressions is called "mind." Right at this moment there is mind. As I am speaking to you, the mind acknowledges what I am saying. Sounds enter through the ear and you know what is being said. That which experiences this is called "mind." |
Tâm là ǵ? Tâm không phải thật sự là "cái ǵ". Theo ngôn ngữ quy ước thông thường, tâm là cái ǵ cảm thọ hay tri giác. Cái ǵ cảm thọ và kinh nghiệm tất cả mọi cảm giác được gọi là tâm. Trong khi Sư đang ngỏ lời cùng quư vị, chính cái "tâm" của quư vị cảm nhận và hiểu biết những ǵ Sư nói. Âm thanh lọt vào tai, và quư vị biết Sư nói ǵ. Cái ǵ hiểu biết đó là "tâm". |
This mind doesn't have any self or substance. It doesn't have any form. It just experiences mental activities, that's all! If we teach this mind to have right view, this mind won't have any problems. It will be at ease. |
Cái tâm ấy không có thực chất hay tự ngă. Nó không có h́nh thể. Nó chỉ kinh nghiệm những sinh hoạt tâm linh, thế thôi! Nếu chúng ta rèn luyện, dạy dỗ cho cái tâm ấy có được cái nh́n chân chánh (chánh kiến) nó sẽ không gặp khó khăn mà sẽ được thoải mái dễ chịu. |
The mind is mind. Mental objects are mental objects. Mental objects are not the mind, the mind is not mental objects. In order to clearly understand our minds and the mental objects in our minds, we say that the mind is that which receives the mental objects which pop into it. |
Tâm là tâm. Những đối tượng của tâm là đối tượng của tâm. Đối tượng của tâm không phải là tâm. Tâm không phải là đối tượng của tâm. Nhằm hiểu biết rành rẽ cái tâm và những đối tượng của nó, ta nói rằng tâm là cái ǵ thọ nhận, và đối tượng của tâm là cái ǵ "thoạt nhiên nhảy vào" tâm. |
When these two things, mind and its object, come into contact with each other, they give rise to feelings. Some are good, some bad, some cold, some hot, all kinds! Without wisdom to deal with these feelings, however, the mind will be troubled. |
Khi hai yếu tố -- tâm và đối tượng của nó -- tiếp xúc với nhau th́ có thọ khởi sanh. Những thọ cảm nầy có thể tốt hay xấu, có thể lạnh, có thể nóng, đủ tất cả loại! Nếu không có trí tuệ để đối phó với những thọ cảm ấy tâm sẽ bị rối loạn. |
Meditation is the way of developing the mind so that it may be a base for the arising of wisdom. Here the breath is a physical foundation. We call it Anapanasati or "mindfulness of breathing." Here we make breathing our mental object. We take this object of meditation because it's the simplest and because it has been the heart of meditation since ancient times. |
Hành thiền là đường lối trau giồi tâm để có thể dùng tâm nầy làm căn bản cho trí tuệ khởi sanh. Nơi đây, hơi thở là nền tảng vật chất. Chúng ta gọi là Ànàpànasati, niệm hơi-thở-ra, thở-vào. Dùng hơi thở làm đối tượng của tâm, tức lấy hơi thở làm đề mục hành thiền, bởi v́ dùng nó giản tiện nhất và cũng v́ từ ngàn xưa hơi thở vẫn là trung tâm điểm của pháp hành thiền. |
When a good occasion arises to do sitting meditation, sit cross-legged: right leg on top of the left leg, right hand on top of the left hand. Keep your back straight and erect. Say to yourself, "Now I will let go of all my burdens and concerns." You don't want anything that will cause you worry. Let go of all concerns for the time being. |
Khi có cơ hội tốt để ngồi thiền, chúng ta ngồi tréo hai chân lại, chân mặt đặt trên chân trái và tay mặt trên tay trái. Giữ lưng ngay thẳng và lập tâm tự nhủ, "Bây giờ ta sẽ buông bỏ, để cho tất cả những gánh nặng và những lo âu trôi qua". Ta không muốn điều ǵ sẽ gây phiền năo lo âu. Trong hiện tại hăy để cho tất cả những băn khoăn lo ngại trôi qua. |
Now fix your attention on the breath. Then breathe in and breathe out. In developing awareness of breathing, don't intentionally make the breath long or short. Neither make it strong or weak. Just let it flow normally and naturally. Mindfulness and self-awareness, arising from the mind, will know the in-breath and the out-breath. |
Giờ đây hăy tập trung sự chú tâm vào hơi thở, rồi thở vào, thở ra. Trong khi nỗ lực ghi nhận và hay biết hơi thở, không nên cố ư làm cho nó dài ra hay ngắn lại. Cũng không nên làm cho nó mạnh hay yếu. Hăy để nó trôi chảy b́nh thường và tự nhiên. Sự chú niệm và tự hay biết ḿnh, phát sanh trong tâm, sẽ biết hơi-thở-vào và hơi-thở-ra. |
Be at ease. Don't think about anything. No need to think of this or that. The only thing you have to do is fix your attention on the breathing in and breathing out. You have nothing else to do but that! Keep your mindfulness fixed on the in-and out-breaths as they occur. Be aware of the beginning, middle and end of each breath. On inhalation, the beginning of the breath is at the nose tip, the middle at the heart, and the end in the abdomen. On exhalation, it's just the reverse: the beginning of the breath is in the abdomen, the middle at the heart, and the end at the nose tip. Develop the awareness of the breath: 1, at the nose tip; 2, at the heart; 3, in the abdomen. Then in reverse: 1, in the abdomen; 2, at the heart; and 3, at the nose tip. |
Hăy cứ tự nhiên thoải mái. Không suy tư điều ǵ. Không cần phải nghĩ đến việc nầy hay điều nọ. Chỉ có một việc phải làm là gom tâm chăm chú đặt trên hơi thở-vào và hơi-thở-ra. Không có ǵ khác phải làm, chỉ có bao nhiêu đó! Giữ tâm niệm vững chắc bám sát hơi-thở-vào và hơi-thở-ra, đúng ngay lúc nó xảy diễn. Khi thở vào, hơi thở bắt đầu từ chót mũi, xuống đến ngực, và chấm dứt nơi bụng. Khi thở ra th́ ngược lại, bắt đầu nơi bụng, lên đến ngực và chấm dứt ở mũi. Hăy trau giồi tâm, hay biết hơi thở: 1. Tại chót mũi, 2. Ở ngực, 3. Nơi bụng. Rồi ngược lại: 1. Nơi bụng, 2. Đến ngực và 3. Ở chót mũi. |
Focusing the attention on these three points will relieve all worries. Just don't think of anything else! Keep your attention on the breath. Perhaps other thoughts will enter the mind. It will take up other themes and distract you. Don't be concerned. Just take up the breathing again as your object of attention. The mind may get caught up in judging and investigating your moods, but continue to practice, being constantly aware of the beginning, middle and the end of each breath. |
Vững vàng an trụ tâm vào ba điểm ấy sẽ làm suy giảm những lo âu. Không nên suy tư đến bất luận ǵ khác! Hăy cứ giữ tâm ở hơi thở. Những ư nghĩ khác có thể khởi sanh. Tâm sẽ chụp lấy một đề tài nào khác và xao lăng. Không nên lo. Hăy kéo tâm về và cột chặt trở lại vào hơi thở v́ hiện thời đó là đề mục của pháp hành. Có thể tâm vướng mắc trong t́nh trạng đang t́m hiểu hay xét đoán những cảm xúc của ta lúc bấy giờ, nhưng hăy cứ tiếp tục pháp hành, luôn luôn hay biết từ đoạn đầu, đoạn giữa, đến đoạn cuối cùng của hơi thở. |
Eventually, the mind will be aware of the breath at these three points all the time. When you do this practice for some time, the mind and body will get accustomed to the work. Fatigue will disappear. The body will feel lighter and the breath will become more and more refined. Mindfulness and self-awareness will protect the mind and watch over it. |
Đến một lúc nào tâm sẽ luôn luôn hay biết hơi thở nơi ba điểm ấy. Khi thực hành như vậy trong một thời gian, tâm và thân sẽ quen thuộc với công tŕnh tu tập nầy, không c̣n nghe mệt mỏi. Ta sẽ cảm nghe cơ thể nhẹ nhàng hơn và hơi thở sẽ trở nên ngày càng vi tế. Công phu chú niệm và tự hay biết ḿnh sẽ canh pḥng và bảo vệ tâm. |
We practice like this until the mind is peaceful and calm, until it is one. One means that the mind will be completely absorbed in the breathing, that it doesn't separate from the breath. The mind will be unconfused and at ease. It will know the beginning, middle and end of the breath and remain steadily fixed on it. |
Chúng ta thực hành như vậy cho đến khi tâm vắng lặng và an lạc chỉ c̣n một. Một ở đây có nghĩa là tâm sẽ trọn vẹn và hoàn toàn an trụ vào hơi thở, sẽ bám chắc vào, không tách rời ra khỏi hơi thở. Tâm sẽ không vọng động, không rối loạn, mà ở trong trạng thái tự tại, nhàn lạc. Nó sẽ hiểu biết lúc khởi đầu, đoạn giữa và nơi chấm dứt hơi thở. |
Then when the mind is peaceful, we fix our attention on the in-breath and out-breath at the nose tip only. We don't have to follow it up and down to the abdomen and back. Just concentrate on the tip of the nose where the breath comes in and goes out. |
Đến chừng ấy tâm thật an tĩnh, ta chỉ giữ chặt nó ở hơi thở-vào, thở-ra tại chót mũi, không c̣n theo dơi xuống bụng và trở lên mũi nữa. Chỉ an trụ vững chắc tâm ngay tại điểm mà hơi gió chạm vào mũi. |
This is called "calming the mind," making it relaxed and peaceful. When tranquillity arises, the mind stops; it stops with its single object, the breath. This is what's known as making the mind peaceful so that wisdom may arise. |
Hành như vậy được gọi là "lắng tâm", làm cho tâm trở nên vắng lặng, thoải mái dễ chịu và an lạc. Lúc ấy, khi trạng thái vắng lặng khởi sanh th́ tâm dừng lại. Tâm dừng lại để chỉ an trụ vào một điểm duy nhất, hơi thở. Đó là trau giồi, phát triển tâm thanh b́nh an lạc để trí tuệ có thể phát sanh. |
This is the beginning, the foundation of our practice. You should try to practice this every single day, wherever you may be. Whether at home, in a car, lying or sitting down, you should be mindfully aware and watch over the mind constantly. |
Đây là giai đoạn đầu tiên, xây đắp nền tảng cho pháp hành của chúng ta. Phải tận lực thực hành mỗi ngày, từng ngày một, bất luận ở đâu mà ta có thể hành. Dầu ở nhà, đi trên xe, nằm hoặc ngồi, phải giữ chánh niệm, hay biết và luôn luôn nh́n cái tâm của ḿnh. |
This is called mental training which should be practiced in all the four postures. Not just sitting, but standing, walking and lying as well. The point is that we should know what the state of the mind is at each moment, and, to be able to do this, we must be constantly mindful and aware. Is the mind happy or suffering? Is it confused? Is it peaceful? Getting to know the mind in this manner allows it to become tranquil, and when it does become tranquil, wisdom will arise. |
Đó là pháp luyện tâm mà ta phải cố gắng thực hành trong tất cả bốn oai nghi: đi, đứng, nằm, ngồi, không phải chỉ lúc ngồi (tọa thiền) mà luôn cả khi đi, khi đứng và nằm. Điểm quan trọng là phải biết trạng thái tâm của ḿnh trong mỗi khoảnh khắc. Muốn làm được vậy phải luôn luôn giữ chánh niệm, ghi nhận và hay biết. Tâm vui hay buồn? Tâm có vọng động không? Có an tĩnh không? Khi hiểu biết tâm như vậy nó sẽ trở nên vắng lặng. Tâm có vắng lặng trí tuệ mới phát sanh. |
With the tranquil mind investigate the meditation subject which is the body, from the top of the head to the soles of the feet, then back to the head. Do this over and over again. Look at and see the hair of the head, hair of the body, the nails, teeth and skin. In this meditation we will see that this whole body is composed of four "elements': earth, water, fire and wind. |
Với tâm vắng lặng nầy bây giờ ta hăy quán thân, đề mục hành thiền của ḿnh. Quán chiếu từ đỉnh đầu xuống đến ḷng bàn chân, và từ bàn chân trở lên đỉnh đầu. Lặp đi lặp lại nhiều lần như vậy. Nh́n và thấy tóc, lông, móng, răng và da. Trong pháp hành nầy ta sẽ thấy rằng toàn thể thân ḿnh được cấu thành do bốn nguyên tố: đất, nước, lửa và gió. |
The hard and solid parts of our body make up the earth element; the liquid and flowing parts, the water element. Winds that pass up and down our body make up the wind element, and the heat in our body, the fire element. |
Những phần cứng và ở thể đặc của thân do nguyên tố đất cấu thành. Những thành phần lỏng do nguyên tố nước. Hơi, chạy lên xuống trong cơ thể do nguyên tố gió, và nhiệt độ của thân là do nguyên tố lửa. |
Taken together, they compose what we call a "human being." However, when the body is broken down into its component parts, only these four elements remain. The Buddha taught that there is no "being" per se, no human, no Thai, no Westerner, no person, but that ultimately, there are only these four elements — that's all! We assume that there is a person or a "being" but, in reality, there isn't anything of the sort. |
Bốn nguyên tố ấy cấu hợp lại thành cái được gọi là "cơ thể con người". Tuy nhiên, khi phân chia thân nầy ra từng thành phần cấu tạo của nó th́ chỉ c̣n lại bốn nguyên tố ấy. Chỉ có bốn nguyên tố ấy c̣n lại. Đức Phật dạy rằng không có "chúng sanh" tự ḿnh hiện hữu, không có con người, không có người Thái hay người Tây Phương, không có một cá nhân. Đến mức cùng tột chỉ có bốn nguyên tố ấy. Chỉ có vậy thôi! Chúng ta giả định rằng có một người, một "chúng sanh", nhưng trong thực tế không có cái ǵ như vậy |
Whether taken separately as earth, water, fire and wind, or taken together labelling what they form a "human being," they're all impermanent, subject to suffering and not-self. They are all unstable, uncertain and in a state of constant change — not stable for a single moment! |
Dầu ta phân chia ra từng loại như đất, nước, lửa, gió hay hợp chung lại, và dán lên trên cái giả hợp ấy nhăn hiệu "con người", tất cả đều vô thường, phải chịu đau khổ, và vô ngă. Tất cả đều bấp bênh, không bền vững, bất ổn định, và ở trong trạng thái luôn luôn biến chuyển, không thể ngừng đổi thay, dầu trong một khoảnh khắc vi tế. |
Our body is unstable, altering and changing constantly. Hair changes, nails change, teeth change, skin changes — everything changes, completely! |
Thân của ta bất ổn định, hư hoại, và luôn luôn biến đổi. Tóc biến đổi, móng tay móng chân biến đổi, răng biến đổi, da biến đổi -- mỗi mỗi đều biến đổi, tất cả đều hoàn toàn biến đổi. |
Our mind, too, is always changing. It isn't a self or substance. It isn't really "us," not really "them," although it may think so. Maybe it will think about killing itself. Maybe it will think of happiness or of suffering — all sorts of things! It's unstable. If we don't have wisdom and we believe this mind of ours, it'll lie to us continually. And we alternately suffer and be happy. |
Tâm của ta cũng vậy, cũng luôn luôn biến đổi. Nó không phải là tự ngă hay cái ǵ có thực chất. Nó không phải thật sự là "ta", cũng không phải là "chúng nó", mặc dầu tâm có thể nghĩ như vậy. Tâm có thể nghĩ đến tự sát. Tâm có thể nghĩ đến hạnh phúc, hay nghĩ đến đau khổ -- nghĩ đủ chuyện. Nó không ổn định. Nếu ta không có trí tuệ và tin rằng cái tâm nầy là của ḿnh, nó sẽ lừa dối và luôn luôn phỉnh gạt ta. Và chúng ta sẽ hạnh phúc và đau khổ, đau khổ và hạnh phúc, hết hạnh phúc đến đau khổ, hết đau khổ đến hạnh phúc, triền miên không cùng tận. |
This mind is an uncertain thing. This body is uncertain. Together they are impermanent. Together they are a source of suffering. Together they are devoid of self. These, the Buddha pointed out, are neither a being, nor a person, nor a self, nor a soul, nor us, nor they. They are merely elements: earth, water, fire and wind. Elements only! |
Tâm nầy bấp bênh, bất ổn định. Thân nầy bấp bênh, bất ổn định. Cả hai cấu hợp lại là nguồn cội của đau khổ. Cả hai cấu hợp lại không có tự ngă thường c̣n. Phật Giáo chỉ vạch sáng tỏ rằng cả hai không phải là một chúng sanh, không phải một người, không phải tự ngă, không phải là linh hồn trường cửu, không phải ta, không phải chúng nó -- mà chỉ là những nguyên tố: đất, nước, lửa, gió. Chỉ là những nguyên tố! |
When the mind sees this, it will rid itself of attachment which holds that "I" am beautiful, "I" am good, "I" am evil, "I" am suffering, "I" have, "I" this or "I" that. You will experience a state of unity, for you'll have seen that all of mankind is basically the same. There is no "I." There are only elements. |
Đoạn này không được dịch |
When you contemplate and see impermanence, suffering and not-self, there will no longer be clinging to a self, a being, I or he or she. The mind which sees this will give rise to Nibbida, world-weariness and dispassion. It will see all things as only impermanent, suffering and not-self. The mind then stops. The mind is Dhamma. Greed, hatred and delusion will then diminish and recede little by little until finally there is only mind — just the pure mind. This is called "practicing meditation." |
Khi ta quán chiếu và thấy rơ rằng tất cả là vô thường, khổ và vô ngă ắt sẽ không c̣n bám níu vào một cái ta, một con người nam hay nữ. Cái tâm mà đă thấu triệt thông suốt như vậy sẽ hướng về trạng thái nhàm chán thế gian, về hạnh buông bỏ không luyến ái, hướng đến Niết Bàn. Tâm ấy sẽ thấy tất cả mọi sự vật là vô thường, khổ và vô ngă. Chừng ấy tâm dừng lại. Tâm là Giáo Pháp. Tham, sân, si sẽ suy giảm và biến dạng dần dần cho đến khi cuối cùng, chỉ c̣n có tâm -- chỉ c̣n lại cái tâm thanh tịnh. Đó là "pháp hành thiền". |
Thus, I ask you to receive this gift of Dhamma which I offer you to study and contemplate in your daily lives. Please accept this Dhamma Teaching from Wat Pah Pong and Wat Pah Nanachat as an inheritance handed down to you. All of the monks here, including your son, and all the Teachers, make you an offering of this Dhamma to take back to France with you. It will show you the way to peace of mind, it will render your mind calm and unconfused. Your body may be in turmoil, but your mind will not. Those in the world may be confused, but you will not. Even though there is confusion in your country, you will not be confused because the mind will have seen, the mind is Dhamma. This is the right path, the proper way. |
Đến đây Sư yêu cầu hai Ông Bà hăy nhận lănh món quà Pháp Bảo mà Sư lấy làm hân hạnh trao tặng ngày hôm nay để đem về nghiên cứu học hỏi và quán tưởng hằng ngày. Xin Ông Bà hăy nhận quà tặng Giáo Pháp nầy của hai chùa, Wat Pah Pong và Wat Pah Nanachat, xem như một di sản tinh thần. Tất cả quư Sư ở đây, trong đó có con của hai Ông Bà, và tất cả quư vị Thiền Sư, trao tặng đến Ông Bà Giáo Pháp nầy để đem về Pháp quốc. Giáo Pháp nầy sẽ rọi sáng cho con đường dẫn đến trạng thái tâm an tĩnh, sẽ làm cho tâm trở nên vắng lặng, tự tại và không giao động. Thân Ông Bà có thể bị xáo trộn, nhưng tâm sẽ không bị. Những người khác trên thế gian có thể bị phiền lụy và rối ren, Ông Bà th́ không. Mặc dầu trong xứ có thể bị hỗn loạn, nhưng Ông Bà sẽ không bị, bởi v́ tâm của Ông Bà sẽ ở trong t́nh trạng đă có thấy, tâm là Giáo Pháp. Đây là con đường chân chánh, là đường lối thích nghi. |
May you remember this Teaching in the future. |
Ngưỡng mong rằng trong tương lai Ông Bà sẽ c̣n nhớ Lời Dạy nầy. |
May you be well and happy. |
Ngưỡng mong Ông Bà được an lành và hạnh phúc. |