I have heard that:
On one occasion the Blessed One was staying in the Kuru country. Now there is a town of the Kurus called Kammasadhamma. There the Blessed One addressed the monks: "Monks!"




Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú giữa dân chúng Kuru (Câu-lâu). Kammassadhamma (Kiềm-ma-sắt-đàm) là thị trấn của dân chúng Kuru. Tại đấy Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo : "Này các Tỷ-kheo".

 

"Yes, lord," the monks responded.



– "Thưa vâng, bạch Thế Tôn". Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn.

 

The Blessed One said: "Monks, sensuality is inconstant, hollow, vain, deceptive. It is illusory, the babble of fools. Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come: both are Mara's realm, Mara's domain, Mara's bait, Mara's range. They lead to these evil, unskillful mental states: greed, ill will, & contentiousness. They arise for the obstruction of a disciple of the noble ones here in training.



– Này các Tỷ-kheo, các dục là vô thường, trống rỗng, giả dối, thuộc ngu si tánh. Này các Tỷ-kheo, đây là lời chào xáo của kẻ ngu xây dựng trên giả dối. Các dục hiện tại, và các dục tương lai, các dục tưởng hiện tại và các dục tưởng tương lai, cả hai đều thuộc lãnh vực của ma, là cảnh giới của ma, là chỗ dinh dưỡng của ma, là chỗ ăn uống của ma.
Ở đây, các ác bất thiện ý này dẫn đến tham dục, sân hận, khích động, và chính những pháp ấy tác thành chướng ngại ở đây cho Thánh đệ tử học tập.

 

"In that case, the disciple of the noble ones considers this: 'Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come: both are Mara's realm, Mara's domain, Mara's bait, Mara's range. They lead to these evil, unskillful mental states: greed, ill will, & contentiousness. They arise for the obstruction of a disciple of the noble ones here in training. What if I — overpowering the world [of the five senses] and having determined my mind — were to dwell with an awareness that was abundant & enlarged? Having done so, these evil, unskillful mental states — greed, ill will, & contentiousness — would not come into being. With their abandoning, my mind would become unlimited, immeasurable, & well developed.' Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the imperturbable1 now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the imperturbable. This is declared to be the first practice conducive to the imperturbable.



Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Các dục hiện tại và các dục tương lai… cho Thánh đệ tử học tập. Vậy ta hãy an trú với tâm quảng đại, đại hành, sau khi chiến thắng thế giới, sau khi xác định vị trí của ý. Khi ta an trú với tâm quảng đại, đại hành chiến thắng thế giới, xác định vị trí của ý, các ác bất thiện ý : tham dục, sân hận, khích động sẽ không khởi lên; với các pháp ấy được đoạn trừ, tâm của ta không trở thành hạn hẹp, trái lại thành vô lượng, khéo tu tập". Trong khi ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu bất động ngay hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến (samvattanikam vinnanam) có thể tùy theo đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Bất động".

 

"Then again, the disciple of the noble ones considers this: 'Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come: whatever is form, every form, is the four great elements or a form derived from the four great elements.' Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the imperturbable now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the imperturbable. This is declared to be the second practice conducive to the imperturbable.



Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại, và những dục tưởng tương lai, phàm bất cứ sắc pháp gì, là bốn đại chủng và sắc do bốn đại tạo thành". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị hành đạo về lợi ích Bất động.

 

"Then again, the disciple of the noble ones considers this: 'Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come; forms here & now; forms in lives to come; form-perceptions here & now; form-perceptions in lives to come: both are inconstant. Whatever is inconstant is not worth relishing, is not worth welcoming, is not worth remaining fastened to." Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the imperturbable now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the imperturbable. This is declared to be the third practice conducive to the imperturbable.



Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những sắc tưởng hiện tại và những sắc tưởng tương lai, cả hai đều vô thường. Cái gì vô thường thời không đáng để được hoan hỷ, không đáng để được hoan nghênh, không đáng để được chấp trước". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Bất động ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Bất động. Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích Bất động.

 

"Then again, the disciple of the noble ones considers this: 'Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come; forms here & now; forms in lives to come; form-perceptions here & now; form-perceptions in lives to come; perceptions of the imperturbable: all are perceptions. Where they cease without remainder: that is peaceful, that is exquisite, i.e., the dimension of nothingness.' Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the dimension of nothingness now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the dimension of nothingness. This is declared to be the first practice conducive to the dimension of nothingness.



Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, các dục tưởng hiện tại và các dục tưởng tương lai, và những sắc tưởng tương lai, và những bất động tưởng, tất cả tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn, như vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là vô sở hữu". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ nhất hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.

 

"Then again, the disciple of the noble ones, having gone into the wilderness, to the root of a tree, or into an empty dwelling, considers this: 'This is empty of self or of anything pertaining to self.' Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the dimension of nothingness now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the dimension of nothingness. This is declared to be the second practice conducive to the dimension of nothingness.



Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử đi đến khu rừng hay đi đến dưới gốc cây và suy nghĩ như sau: "Trống không là tự ngã hay ngã này sở hữu". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong giới xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ ngay trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là đệ nhị hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.

 

"Then again, the disciple of the noble ones considers this: 'I am not anyone's anything anywhere; nor is anything of mine in anyone anywhere.' Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the dimension of nothingness now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the dimension of nothingness. This is declared to be the third practice conducive to the dimension of nothingness.



Lại nữa này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Ta không có bất cứ chỗ nào, cho ai và trong hình thức nào, và sở thuộc của ta không có bất cứ chỗ nào, (cho ai) và trong hình thức nào". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của nó). Với tâm an tịnh, vị ấy thành tựu Vô sở hữu xứ trong hiện tại hay thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Vô sở hữu xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo được gọi là đệ tam hành đạo về lợi ích Vô sở hữu xứ.

 

"Then again, the disciple of the noble ones considers this: 'Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come; forms here & now; forms in lives to come; form-perceptions here & now; form-perceptions in lives to come; perceptions of the imperturbable; perceptions of the dimension of nothingness: all are perceptions. Where they cease without remainder: that is peaceful, that is exquisite, i.e., the dimension of neither perception nor non-perception.' Practicing & frequently abiding in this way, his mind acquires confidence in that dimension. There being full confidence, he either attains the dimension of neither perception nor non-perception now or else is committed to discernment. With the break-up of the body, after death, it's possible that this leading-on consciousness of his will go to the dimension of neither perception nor non-perception. This is declared to be the practice conducive to the dimension of neither perception nor non-perception.



Và lại nữa, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại, các dục tưởng hiện tại và các dục tưởng tương lai, và những sắc tưởng và những Bất động tưởng, và những Vô sở hữu xứ tướng, tất cả các tưởng, chỗ nào các tưởng ấy được đoạn diệt không có dư tàn, như vậy là tịch tịnh, như vậy là thù diệu, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ". Trong khi vị ấy hành trì như vậy, an trú nhiều lần như vậy, tâm trí trở thành an tịnh trong trú xứ (của nó) . Với tâm an tịnh vị ấy có thể thành tựu Phi tưởng phi phi tưởng xứ ngay trong hiện tại, hoặc thiên nặng về trí tuệ. Sau khi thân hoại mạng chung, sự tình này xảy ra, thức diễn tiến ấy có thể tùy theo đây đạt đến Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là hành đạo về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

When this was said, Ven. Ananda said to the Blessed One: "There is the case, lord, where a monk, having practiced in this way — 'It should not be, it should not occur to me; it will not be, it will not occur to me. What is, what has come to be, that I abandon' — obtains equanimity. Now, would this monk be totally unbound, or not?"



Khi được nói như vậy, Tôn giả Ananda bạch Thế Tôn :
– Ở đây, bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ : "Nếu (trước) không có như vậy, thời có thể không là của ta; nếu (nay) không có như vậy thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có". Và như vậy vị ấy được xả. Bạch Thế Tôn, môt vị Tỷ-kheo như vậy có chứng được cứu cánh Niết-bàn không ?

 

"A certain such monk might, Ananda, and another might not.'



– Ở đây, này Ananda, một số Tỷ-kheo có thể chứng được cứu cánh Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng được cứu cánh Niết-bàn.

 

"What is the cause, what is the reason, whereby one might and another might not?"



– Do nhân gì, do duyên gì, bạch Thế Tôn, ở đây, một số Tỷ-kheo có thể chứng được cứu cánh Niết-bàn, và ở đây, một số Tỷ-kheo có thể không chứng cứu cánh Niết-bàn ?

 

"There is the case, Ananda, where a monk, having practiced in this way — (thinking) 'It should not be, it should not occur to me; it will not be, it will not occur to me. What is, what has come to be, that I abandon' — obtains equanimity. He relishes that equanimity, welcomes it, remains fastened to it. As he relishes that equanimity, welcomes it, remains fastened to it, his consciousness is dependent on it, is sustained by it (clings to it). With clinging/sustenance, Ananda, a monk is not totally unbound."



– Ở đây, này Ananda, một Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu (trước) không có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu (nay) không có như vậy, thời có thể sẽ không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có". Và như vậy vị ấy được xả. Vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước xả ấy. Do vị ấy hoan hỷ trong xả ấy, hoan nghênh, chấp trước xả ấy, thức lệ thuộc xả ấy và thủ trước xả ấy. Có thủ trước, này Ananda, vị Tỷ-kheo không chứng cứu cánh Niết-bàn.

 

"Being sustained, where is that monk sustained?"



– Bạch Thế Tôn, vị Tỷ-kheo ấy thủ trước là thủ trước chỗ nào ?

 

"The dimension of neither perception nor non-perception."



– Này Ananda, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.

 

"Then, indeed, being sustained, he is sustained by the supreme sustenance."



– Bạch Thế Tôn, Tỷ-kheo ấy thủ trước, thủ trước như vậy là thủ trước tối thượng ?

 

"Being sustained, Ananda, he is sustained by the supreme sustenance; for this — the dimension of neither perception nor non-perception — is the supreme sustenance. There is [however] the case where a monk, having practiced in this way — 'It should not be, it should not occur to me; it will not be, it will not occur to me. What is, what has come to be, that I abandon' — obtains equanimity. He does not relish that equanimity, does not welcome it, does not remain fastened to it. As does not relish that equanimity, does not welcome it, does not remain fastened to it, his consciousness is not dependent on it, is not sustained by it (does not cling to it). Without clinging/sustenance, Ananda, a monk is totally unbound."



– Này Ananda, Vị Tỷ-kheo ấy thủ trước, thủ trước như vậy là thủ trước tối thượng. Này Ananda, đây là thủ trước tối thượng, tức là Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Ở đây, này Ananda, vị Tỷ-kheo hành trì như vậy và suy nghĩ: "Nếu (trước) không có như vậy thời có thể không là của ta. Nếu (nay) không có như vậy, thời có thể không là của ta. Ta đoạn trừ những gì hiện có và những gì đã có". Như vậy, vị ấy được xả, vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy, không hoan nghênh, không chấp trước xả ấy. Do vị ấy không hoan hỷ trong xả ấy, không hoan nghênh, không thủ trước xả ấy, thức không lệ thuộc xả ấy và không thủ trước xả ấy. Không thủ trước, này Ananda, vị Tỷ-kheo chứng cứu cánh Niết-bàn.

 

"It's amazing, lord. It's astounding. For truly, the Blessed One has declared to us the way to cross over the flood by going from one support to the next. But what is the noble liberation?"



– Thật vi diệu thay, bạch Thế Tôn ! Thật hy hữu thay, bạch Thế Tôn ! Chính mười y cứ sự này sự kia, bạch Thế Tôn, sự vượt thoát dòng nước mạnh đã được Thế Tôn nói lên. Nhưng bạch Thế Tôn, thế nào là Thánh giải thoát ?

 

"There is the case, Ananda, where a disciple of the noble ones considers this: 'Sensuality here & now; sensuality in lives to come; sensual perceptions here & now; sensual perceptions in lives to come; forms here & now; forms in lives to come; form-perceptions here & now; form-perceptions in lives to come; perceptions of the imperturbable; perceptions of the dimension of nothingness; perceptions of the dimension of neither perception nor non-perception: that is an identity, to the extent that there is an identity. This is deathless: the liberation of the mind through lack of clinging/sustenance.'


– Ở đây, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử suy nghĩ như sau: "Những dục hiện tại và những dục tương lai, những dục tưởng hiện tại và những dục tưởng tương lai, những sắc pháp hiện tại và những sắc pháp tương lai, những Bất động tưởng, những Vô sở hữu xứ tưởng, và những Phi tưởng phi phi tưởng xứ tưởng, cái gì thuộc tự thân, là tự thân. Đây là bất tử tức là tâm giải thoát không thủ trước".

 

"Now, Ananda, I have taught the practice conducive to the imperturbable. I have taught the practice conducive to the dimension of nothingness. I have taught the practice conducive to the dimension of neither perception nor non-perception. I have taught the way to cross over the flood by going from one support to the next, the noble liberation. Whatever a teacher should do — seeking the welfare of his disciples, out of sympathy for them — that have I done for you. Over there are the roots of trees; over there, empty dwellings. Practice jhana, Ananda. Don't be heedless. Don't later fall into regret. This is our message to you all."



Này Ananda, đây là đạo lộ về lợi ích Bất động được Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Vô sở hữu xứ được Ta thuyết giảng, đạo lộ về lợi ích Phi tưởng phi phi tưởng xứ được Ta thuyết giảng, là sự vượt qua dòng nước mạnh do y cứ sự này sự kia được Ta thuyết giảng, Thánh giải thoát được Ta thuyết giảng. Những gì, Này Ananda, vị Đạo sư cần phải làm, vì lòng từ mẫn mưu tìm hạnh phúc cho các đệ tử, những điều ấy đã được Ta làm, vì lòng từ mẫn của Ta đối với Ông. Này Ananda, đây là những gốc cây, đây là những khoảng trống. Hãy tu Thiền, này Ananda, chớ có phóng dật, chớ có hối hận về sau. Đây là lời dạy của Ta cho Ông.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Ven. Ananda delighted in the Blessed One's words.



Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Tôn giả Ananda hoan hỷ tín thọ lời Thế Tôn dạy.

 

Note

1. The "imperturbable" usually denotes the four formless attainments. In this context, though, it means the fourth jhana and the first two formless attainments based on it: the dimension of the infinitude of space and the dimension of the infinitude of consciousness.

See also: SN 22.55; MN 140

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

| | trở về đầu trang | Home page |