...monks,

I have heard that on one occasion the Blessed One was dwelling among the Sakyans at Kapilavatthu in the Great Wood, together with a large Sangha of approximately 500 bhikkhus, all of them arahants...

DN 20


... các tỷ kheo,

Như vậy tôi nghe. Một thời, Thế Tôn trú tại bộ lạc Sakka (Thích-ca), thành Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ), ở Đại Lâm (Mahàvana), cùng với đại chúng Tỷ-kheo khoảng năm trăm vị, tất cả đều là bậc A-la-hán.

DN 20

 

...lepers,

Then the Blessed One, having encompassed the awareness of the entire assembly with his awareness, asked himself, "Now who here is capable of understanding the Dhamma?" He saw Suppabuddha the leper sitting in the assembly, and on seeing him the thought occurred to him, "This person here is capable of understanding the Dhamma." So, aiming at Suppabuddha the leper, he gave a step-by-step talk, i.e., a talk on generosity, on virtue, on heaven; he declared the drawbacks, degradation, & corruption of sensual passions, and the rewards of renunciation. Then when he saw that Suppabuddha the leper's mind was ready, malleable, free from hindrances, elated, & bright, he then gave the Dhamma-talk peculiar to Awakened Ones, i.e., stress, origination, cessation, & path. And just as a clean cloth, free of stains, would properly absorb a dye, in the same way, as Suppabuddha the leper was sitting in that very seat, the dustless, stainless Dhamma eye arose within him, "Whatever is subject to origination is all subject to cessation."

Ud 5.3

...những người hủi,

Rồi Thế Tôn, với tâm của mình duyên với tâm của toàn thể hội chúng tác ý rằng: "Ở đây, ai có thể hiểu được pháp". Thế Tôn thấy người hủi Suppabuddha đang ngồi trong hội chúng, thấy vậy liền suy nghĩ: "Ở đây, ngưòi này có thể hiểu pháp". Vì người hủi Suppabuddha, Thế Tôn tuần tự thuyết pháp, tức là thuyết bố thí, thuyết về trì giới, thuyết về thiên giới, thuyết về sự nguy hiểm, sự hạ liệt, sự ô nhiễm cuả các dục, sự lợi ích của xuất ly. Khi Thế Tôn biết tâm của người hủi Suppabuddha đã sẵn sàng, đã nhu thuận không còn chướng ngại, được phấn khởi, được tín thành, liền thuyết pháp mà chư Phật đã chứng ngộ, tức là Khổ, Tập, Diệt, Ðạo. Cũng như tấm vải thuần bạch, được gội rửa các vết đen, sẽ rất dễ thấm màu nhuộm, cũng vậy chính tại chỗ ngồi này, pháp nhãn xa trần ly cấu khởi lên trong tâm người hủi Suppabuddha: "Phàm cái gì được khởi lên, tất cả đều bị đoạn diệt".

Ud 5.3

 

...kings,

Then King Pasenadi Kosala approached the Blessed One in the middle of the day and, on arrival, having bowed down, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him: "Well now, great king, where are you coming from in the middle of the day?"

...các vua chúa,

Thế Tôn nói với vua Pasenadi nước Kosala đang ngồi một bên: "Thưa Ðại vương, Ðại vương đi từ đâu lại?"

 

"Just now, lord, I was engaged in the sort of royal affairs typical of head-anointed noble-warrior kings intoxicated with the intoxication of sovereignty, obsessed by greed for sensual pleasures, who have attained stable control in their country, and who rule having conquered a great sphere of territory on earth."

"Bạch Thế Tôn, con rất là bận rộn với những sự việc các vua chúa bận rộn. Các vua chúa Sát-đế-lỵ đã làm lễ quán đảnh, say đắm kiêu hãnh với vương quyền, thọ hưởng tham lam vật dục, đạt được sự an toàn quốc độ, và sống chinh phục cả vùng đất đai rộng lớn."

 

"What do you think, great king? Suppose a man, trustworthy and reliable, were to come to you from the east and on arrival would say: 'If it please your majesty, you should know that I come from the east. There I saw a great mountain, as high as the clouds, coming this way, crushing all living beings [in its path]. Do whatever you think should be done.' Then a second man were to come to you from the west... Then a third man were to come to you from the north... Then a fourth man were to come to you from the south and on arrival would say: 'If it please your majesty, you should know that I come from the south. There I saw a great mountain, as high as the clouds, coming this way, crushing all living beings. Do whatever you think should be done.' If, your majesty, such a great peril should arise, such a terrible destruction of human life — the human state being so hard to obtain — what should be done?"

"Thưa Ðại vương, Ðại vương nghĩ thế nào? Ở đây, nếu có người đến với Ðại vương từ phương Ðông, một người thân tín, đáng tin cậy. Người ấy đến Ðại vương và thưa: "Tâu Ðại vương, mong Ðại vương được biết, con từ phương Ðông lại và có thấy tại đấy một ngọn núi cao như hư không, đang di chuyển và chà đạp, đè bẹp tất cả loại hữu tình. Tâu Ðại vương, Ðại vương hãy làm những gì cần phải làm". Rồi một người khác đến từ phương Tây... Rồi một người thứ ba đến từ phương Bắc... Rồi một người thứ tư đến từ phương Nam, thân tín đáng tin cậy. Người ấy đến Ðại vương và thưa: "Tâu Ðại vương, mong Ðại vương được biết, con từ phương Nam lại và có thấy tại đấy một ngọn núi cao như hư không, đang di chuyển và chà đạp, đè bẹp lên tất cả loại hữu tình. Tâu Ðại vương, Ðại vương hãy làm những gì cần phải làm". Như vậy, thưa Ðại vương, một khủng bố lớn khởi lên cho Ðại vương, sự diệt tận nhân loại thật khủng khiếp, được tái sanh làm người thật khó khăn, thời Ðại vương có thể làm được những gì?"

 

"If, lord, such a great peril should arise, such a terrible destruction of human life — the human state being so hard to obtain — what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?"

"Như vậy, bạch Thế Tôn, một khủng bố lớn khởi lên, sự diệt tận nhân loại thật khủng khiếp, được tái sanh làm người thật khó khăn, thời con có thể làm được những gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh làm các hạnh lành, làm các công đức?"

 

"I inform you, great king, I announce to you, great king: aging and death are rolling in on you. When aging and death are rolling in on you, great king, what should be done?"

"Thưa Ðại vương, Ta nói cho Ðại vương biết, Ta cáo cho Ðại vương hay. Thưa Ðại vương, già và chết đang tiến đến chinh phục Ðại vương. Khi Ðại vương bị già chết chinh phục, Ðại vương có thể làm được gì?"

 

"As aging and death are rolling in on me, lord, what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?

"Bạch Thế Tôn, khi con bị già và chết chinh phục, thời con có thể làm được gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức?"

 

"So it is, great king! So it is, great king! As aging and death are rolling in on you, what else should be done but Dhamma-conduct, right conduct, skillful deeds, meritorious deeds?"

SN 3.25

"Như vậy là phải, thưa Ðại vương! Như vậy là phải, thưa Ðại vương! Khi Ðại vương bị già chết chinh phục, Ðại vương có thể làm được gì, ngoại trừ sống đúng pháp, sống chơn chánh, làm các hạnh lành, làm các công đức?"

SN 3.25

 

...outcastes,

In a lowly family I was born,
poor, with next to no food.
My work was degrading:
I gathered the spoiled,
the withered flowers from shrines
	and threw them away.
People found me disgusting,
despised me, disparaged me.
Lowering my heart,
I showed reverence to many.

Then I saw the One Self-awakened,
arrayed with a squadron of monks,
the Great Hero, entering the city,
supreme, of the Magadhans.
Throwing down my carrying pole,
I approached him to do reverence.
He  —  the supreme man  —  stood still
	out of sympathy
	just
	for me.
After paying homage
to the feet of the teacher,
	I stood to one side
	& requested the Going Forth from him,
supreme among all living beings.
The compassionate Teacher,
sympathetic to all the world, said:
	"Come, monk."
That was my formal Acceptance.

Alone, I stayed in the wilds,
	untiring,
I followed the Teacher's words,
just as he, the Conqueror, had taught me.

In the first watch of the night,
	I recollected previous lives;
in the middle watch,
	purified the divine eye;
in the last,
	burst the mass of darkness.

Then, as night was ending
& the sun returning,
Indra & Brahma came to pay homage to me,
hands palm-to-palm at their hearts:
	"Homage to you, O thoroughbred of men,
	Homage to you, O man supreme,
	whose fermentations are ended.
	You, dear sir, are worthy of offerings."

Thag 12.2

...những người không còn bị ràng buộc bởi đẳng cấp, địa vị trong xã hội,

Ta sanh nhà hạ tiện,
Nghèo khổ không đủ ăn,
Nghề ta rất hèn hạ,
Ta kẻ quét hoa rơi.

Ta bị người nhàm chán,
Miệt thị và khinh bỉ,
Hạ mình xuống thật thấp,
Ta kính lễ quần chúng.

Rồi ta thấy đức Phật,
Thượng thủ chúng Tỷ-kheo,
Bậc Đại Hùng vào thành,
Magadha tối thượng.

Ta quăng bỏ đòn gánh,
Đến gần để đảnh lễ,
Với lòng thương xót ta,
Bậc Thượng nhân đứng lại.

Lễ chân Đạo Sư xong,
Ta đứng liền một bên,
Ta xin được xuất gia,
Bậc tối thượng mọi loài.

Bậc Đạo Sư từ bi,
Từ mẫn khắp thế giới,
Nói: 'Hãy đến Tỷ-kheo',
Đại giới, ta thọ vậy.

Rồi ta sống trong rừng,
Một mình không biếng nhác,
Ta theo lời Đạo Sư,
Như bậc chiến thắng dạy.

Trong đêm canh thứ nhất,
Ta nhớ các đời trước,
Trong đêm canh chặn giữa,
Thiên nhãn ta thanh tịnh,

Trong đêm canh cuối cùng,
Ta phá khối si ám.
Khi đêm vừa mở rộng,
Rạng đông, trời ló rạng,

Đế Thích, Phạm Thiên đến,
Chấp tay đảnh lễ ta,
Đảnh lễ bậc Thượng sanh!
Đảnh lễ bậc Thượng nhân!

Ngài đoạn tận lậu hoặc,
Ngài xứng đáng cúng dường.
Bậc Đạo Sư thấy ta,
Đứng đầu chúng chư Thiên,

Thag 12.2

 

...seekers from other spiritual traditions,

Then Punna, a son of the Koliyans and an ox-duty ascetic, and also Seniya a naked dog duty ascetic, went to the Blessed One, and Punna the ox duty ascetic paid homage to the Blessed One and sat down at one side, while Seniya the naked dog-duty ascetic exchanged greetings with the Blessed One, and when the courteous and amiable talk was finished, he too sat down at one side curled up like a dog. When Punna the ox-duty ascetic sat down, he asked the Blessed One: "Venerable sir, this naked dog-duty ascetic Seniya does what is hard to do: he eats his food when it is thrown on the ground. That dog duty has long been taken up and practiced by him. What will be his destination? What will be his future course?"

"Enough, Punna, let that be. Do not ask me that."

...seekers from other spiritual traditions,

Rồi Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, và lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, cùng đi đến Thế Tôn, sau khi đến Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Còn lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, nói lời hỏi thăm với Thế Tôn, sau khi nói lên lời hỏi thăm thân hữu, rồi ngồi xuống một bên, ngồi chõ hỏ như con chó. Sau khi ngồi một bên, Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn: -- Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya, hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng xuống đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?"

"Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa."

 

A second time... A third time Punna the ox-duty ascetic asked the Blessed One: "Venerable sir, this naked dog-duty ascetic Seniya does what is hard to do: he eats his food when it is thrown on the ground. That dog duty has long been taken up and practiced by him. What will be his destination? What will be his future course?"

Lần thứ hai... Lần thứ ba Punna Koliyaputta, hành trì hạnh con bò, bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, lõa thể Seniya hành trì hạnh con chó, thực hành những hạnh khó hành, ăn đồ ăn quăng dưới đất, chấp nhận và hành trì hạnh con chó trong một thời gian dài, vậy sanh thú ông ấy thế nào, vận mạng ông ấy thế nào?"

 

"Well, Punna, since I certainly cannot persuade you when I say 'Enough, Punna, let that be. Do not ask me that,' I shall therefore answer you.

Này Punna, thật sự Ta đã không chấp nhận (câu hỏi) của Ông và đã nói: "Thôi vừa rồi Punna, hãy dừng lại đây, chớ có hỏi Ta nữa". Tuy vậy, Ta sẽ trả lời cho Ông.

 

"Here, Punna, someone develops the dog duty fully and unstintingly, he develops the dog-habit fully and unstintingly, he develops the dog mind fully and unstintingly, he develops dog behavior fully and unstintingly. Having done that, on the dissolution of the body, after death, he reappears in the company of dogs. But if his view is such as this: 'By this virtue or duty or asceticism or religious life I shall become a (great) god or some (lesser) god,' that is wrong view in his case. Now there are two destinations for one with wrong view, I say: hell or the animal womb. So, Punna, if his dog duty is perfected, it will lead him to the company of dogs; if it is not, it will lead him to hell."

MN 57

Ở đây, này Punna, người nào hành trì hạnh con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì giới con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì tâm con chó một cách hoàn toàn viên mãn, hành trì uy nghi con chó một cách hoàn toàn viên mãn, sau khi thân hoại mạng chung sẽ sanh thân hữu cùng với các loài chó. Nếu Ông ấy có tà kiến như sau: "Do giới này, hạnh này, khổ hạnh này, hay phạm hạnh này, ta sẽ sanh thành chư Thiên này, hay chư Thiên khác", thời này Punna, đối với kẻ có tà kiến, Ta nói có một trong hai sanh thú như sau: địa ngục hay bàng sanh. Như vậy, này Punna, nếu hạnh con chó được thành tựu, thời được sanh trong loài chó, nếu không được thành tựu, thời được sanh trong địa ngục.

MN 57

 

...and heavenly beings

"...many hundred assemblies of gods of the heaven of the Four Great Kings... many hundred assemblies of gods of the heaven of the Thirty-three... many hundred assemblies of Mara's retinue... many hundred assemblies of Brahmas. And formerly I had sat with them there and talked with them and held conversations with them..."

MN 12

...và các chúng sanh nơi Thiên Giới

...hội chúng Tứ thiên vương... hội chúng Tam thập tam thiên... hội chúng Màra... hội chúng Phạm thiên. Ta ngồi xuống tại chỗ ấy, Ta nói chuyện và Ta đàm luận ...

MN 12

 

The Buddha teaches his family, including his son Rahula,

"Renouncing the five pleasures of sense that entrance and delight the mind, and in faith departing from home, become one who makes an end of suffering!

Đức Phật giáo giới gia đình Ngài, trong đó có con trai Rahula,

"Bỏ năm dục trưởng dưỡng, khả ái và đẹp ý, với lòng tin xuất gia, hãy trở thành con người làm chấm dứt khổ đau!

 

"Associate with good friends and choose a remote lodging, secluded, with little noise. Be moderate in eating. Robes, alms-food, remedies and a dwelling, — do not have craving for these things; do not be one who returns to the world. Practice restraint according to the Discipline, and control the five sense-faculties.

"Thân cận với bạn lành, sống trú xứ xa vắng, viễn ly không ồn ào. Hãy tiết độ ăn uống. Y áo, đồ khất thực, vật dụng và sàng tọa; chớ có tham ái chúng; chớ trở lui đời này. Chế ngự trong giới bổn, phòng hộ trong năm căn,

 

"Practice mindfulness of the body and continually develop dispassion (towards it). Avoid the sign of the beautiful connected with passion; by meditating on the foul cultivate a mind that is concentrated and collected.

"Hãy tu tập niệm thân, Sống với nhiều nhàm chán. Hãy từ bỏ tịnh tướng; hệ lụy với tham ái; Tu tập tâm bất tịnh, Nhất tâm, khéo định tĩnh.

 

"Meditate on the Signless and get rid of the tendency to conceit. By thoroughly understanding and destroying conceit you will live in the (highest) peace."

In this manner the Lord repeatedly exhorted the Venerable Rahula.

Snp II.11

"Hãy tu tập vô tướng, Bỏ đi, mạn tùy miên. Do nhiếp phục kiêu mạn, Ngươi sẽ sống an tịnh."

Như vậy, Thế Tôn thường giáo giới Tôn giả Ràhula với những bài kệ này.

Snp II.11

 

...his stepmother, Mahapajapati Gotami,

I have heard that at one time the Blessed One was staying at Vesali, in the Peaked Roof Hall in the Great Forest.

...nhũ mẫu của Ngài, Mahapajapati Gotami,

Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại Mahàvana, ở ngôi nhà có nóc nhọn.

 

Then Mahapajapati Gotami went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, stood to one side. As she was standing there she said to him: "It would be good, venerable sir, if the Blessed One would teach me the Dhamma in brief such that, having heard the Dhamma from the Blessed One, I might dwell alone, secluded, heedful, ardent, & resolute."

Rồi Mahàpajàpatì Gotamì đi đến Thế Tôn ; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Đứng một bên, Mahàpajàpatì Gotamì bạch Thế Tôn : "Lành thay, bạch Thế Tôn ! Thế Tôn hãy thuyết pháp vắn tắt cho con, sau khi Thế Tôn thuyết pháp, con sẽ sống một mình, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần."

 

"Gotami, the qualities of which you may know, 'These qualities lead to passion, not to dispassion; to being fettered, not to being unfettered; to accumulating, not to shedding; to self-aggrandizement, not to modesty; to discontent, not to contentment; to entanglement, not to seclusion; to laziness, not to aroused persistence; to being burdensome, not to being unburdensome': You may definitely hold, 'This is not the Dhamma, this is not the Vinaya, this is not the Teacher's instruction.'

"Này Gotamì, những pháp nào bà biết : 'Những pháp này đưa đến tham dục, không phải ly tham ; đưa đến hệ phược, không đưa đến ly hệ phược ; đưa đến tích tập, không đưa đến không tích tập ; đưa đến dục lớn, không đưa đến ít dục ; đưa đến không biết đủ, không đưa đến biết đủ ; đưa đến tụ hội, không đưa đến nhàn tịnh ; đưa đến biếng nhác, không đưa đến tinh tấn ; đưa đến khó nuôi dưỡng, không đưa đến dễ nuôi dưỡng'. Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng : 'Đó là không phải Pháp, đó là không phải Luật, đó là không phải lời dạy của bậc Đạo sư'.

 

"As for the qualities of which you may know, 'These qualities lead to dispassion, not to passion; to being unfettered, not to being fettered; to shedding, not to accumulating; to modesty, not to self-aggrandizement; to contentment, not to discontent; to seclusion, not to entanglement; to aroused persistence, not to laziness; to being unburdensome, not to being burdensome': You may definitely hold, 'This is the Dhamma, this is the Vinaya, this is the Teacher's instruction.'"

"Và này Gotamì, những pháp nào bà biết :'Những pháp đưa đến ly tham, không đưa đến tham dục ; đưa đến ly hệ phược, không đưa đến hệ phược ; đưa đến không tích tập, không đưa đến tích tập ; đưa đến ít dục, không đưa đến dục lớn ; đưa đến biết đủ, không đưa đến không biết đủ ; đưa đến nhàn tịnh, không đưa đến tụ hội ; đưa đến tinh tấn, không đưa đến biếng nhác ; đưa đến dễ nuôi dưỡng, không đưa đến khó nuôi dưỡng'. Này Gotamì, hãy thọ trì nhứt hướng rằng : 'Đó là phải Pháp, đó là phải Luật, đó là lời dạy của bậc Đạo sư'.

 

That is what the Blessed One said. Gratified, Mahapajapati Gotami delighted at his words.

AN 8.53

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Mahapajapati Gotami hoan hỷ tín thọ lời dạy Thế Tôn

AN 8.53

 

... and he guides his brother, Nanda, to arahantship

I have heard that on one occasion the Blessed One was staying near Savatthi, in Jeta's Grove, Anathapindika's monastery. Now at that time Ven. Nanda — the Blessed One's brother, son of his maternal aunt — told a large number of monks, "I don't enjoy leading the holy life, my friends. I can't endure the holy life. Giving up the training, I will return to the common life."

... và hướng dẫn người em họ, Nanda, trở thành một vị A La Hán

Như vầy tôi nghe: Một thời, Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetavana, khu vườn của ông Anàhapindika. Lúc bấy giờ, Tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: "Này các Hiền giả, tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, tôi không chịu nổi đời sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ hoàn tục!"

 

Then a certain monk went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, he told the Blessed One: "Lord, Ven. Nanda — the Blessed One's brother, son of his maternal aunt — has told a large number of monks, 'I don't enjoy leading the holy life, my friends. I can't endure the holy life. Giving up the training, I will return to the common life.'"

Một Tỷ-kheo khác đi đến Thế Tôn, sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, vị Tỷ-kheo ấy bạch Thế Tôn: - Bạch Thế Tôn, Tôn giả Nanda, em của Thế Tôn, con của người dì, nói như sau: "Này các Hiền giả, tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, tôi không chịu nổi đời sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ hoàn tục!"

 

Then the Blessed One told a certain monk, "Come, monk. In my name, call Nanda, saying, 'The Teacher calls you, my friend.'"

Rồi Thế Tôn bảo một Tỷ-kheo:"Này Tỷ-kheo, hãy đi và nhân danh Ta bảo Tỷ-kheo Nanda: 'Hiền giả Nanda, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả '".

 

"As you say, lord," the monk answered and, having gone to Ven. Nanda, on arrival he said, "The Teacher calls you, my friend."

"Thưa vâng, Bạch Thế Tôn". Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn, đi đến Tôn giả Nanda, sau khi đến nói với Tôn giả Nanda:"Hiền giả Nanda, bậc Ðạo Sư gọi Hiền giả!"

 

"As you say, my friend," Ven. Nanda replied. Then he went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to him, sat to one side. As he was sitting there, the Blessed One said to him, "Is it true, Nanda, that you have told a large number of monks, 'I don't enjoy leading the holy life, my friends. I can't endure the holy life. Giving up the training, I will return to the common life.'?"

"Yes, lord."

"But why, Nanda, don't you enjoy leading the holy life?"

"Thưa vâng, Hiền giả". Tôn giả Nanda vâng đáp vị Tỷ-kheo ấy, đi đến Thế Tôn; sau khi đến đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với Tôn giả Nanda đang ngồi một bên:"Có thật chăng này Nanda, Thầy nói như sau với nhiều Tỷ-kheo: 'Này các Hiền giả, tôi sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, tôi không chịu nổi đời sống Phạm hạnh; sau khi bỏ học tập, tôi sẽ hoàn tục'?"

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

"Nhưng này, không hoan hỷ cái gì, Thầy sống Phạm hạnh, khiến Thầy không chịu nổi sống Phạm hạnh, từ bỏ học tập, Thầy sẽ hoàn tục?"

 

"Lord, as I was leaving home, a Sakyan girl — the envy of the countryside — glanced up at me, with her hair half-combed, and said, 'Hurry back, master.' Recollecting that, I don't enjoy leading the holy life. I can't endure the holy life. Giving up the training, I will return to the common life."

"Bạch Thế Tôn, khi con từ bỏ gia đình, một Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, với tóc chải mới nửa phần, ngó nhìn con và nói: 'Quý tử hãy về gấp!'. Bạch Thế Tôn, vì con không thể quên nàng, nên con sống Phạm hạnh không có hoan hỷ, con không có thể chịu nổi đời sống Phạm hạnh, sau khi từ bỏ học tập, con sẽ hoàn tục".

 

Then, taking Ven. Nanda by the arm — as a strong man might flex his extended arm or extend his flexed arm — the Blessed One disappeared from Jeta's Grove and reappeared among the devas of the Tavatimsa Heaven. Now at that time about 500 dove-footed nymphs had come to wait upon Sakka, the ruler of the devas. And the Blessed One said to Ven. Nanda, "Nanda, do you see those 500 dove-footed nymphs?"

"Yes, lord."

Rồi Thế Tôn cầm tay Tôn giả Nanda như người lực sĩ duỗi bàn tay dang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, biến mất ở Jetavana, và hiện ra tại cõi trời Ba mươi ba. Lúc bấy giờ, khoảng năm trăm Thiên nữ đi đến để hầu hạ Thiên chủ Sakka, và họ được gọi là "có chân như chim bồ câu". Lúc bấy giờ Thế Tôn bảo Tôn giả Nanda: "Này Nanda, Thầy có thấy năm trăm Thiên nữ này, có chân như chim bồ câu không?"

"Thưa vâng, bạch Thế Tôn."

 

"What do you think, Nanda: Which is lovelier, better looking, more charming — the Sakyan girl, the envy of the countryside, or these 500 dove-footed nymphs?"

"Này Nanda, Thầy nghĩ thế nào? Ai đẹp đẽ hơn, hay ai đáng ưa nhìn hơn, hay ai khả ái hơn, Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước hay năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu này?"

 

"Lord, compared to these 500 dove-footed nymphs, the Sakyan girl, the envy of the countryside, is like a cauterized monkey with its ears and nose cut off. She doesn't count. She's not even a small fraction. There's no comparison. The 500 dove-footed nymphs are lovelier, better looking, more charming."

"Bạch Thế Tôn, ví như một con khỉ cái bị thương, tai mũi bị chặt đứt; cũng vậy là Thích ca nữ cô gái đẹp trong nước, nếu đem so sánh với năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu này, không thể ước lường so sánh, không bằng một phần nhỏ, không thể so sánh với chúng. Năm trăm Thiên nữ này đẹp hơn, dáng ưa nhìn hơn, khả ái hơn."

 

"Then take joy, Nanda. Take joy! I am your guarantee for getting 500 dove-footed nymphs."

"If the Blessed One is my guarantee for getting 500 dove-footed nymphs, I will enjoy leading the holy life under the Blessed One."

"Hãy hoan hỷ, này Nanda! Hãy hoan hỷ, này Nanda! Ta đền cho Thầy năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu ấy."

"Bạch Thế Tôn, nếu Thế Tôn đền cho con năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu, thời bạch Thế Tôn, con sẽ sống hoan hỷ trong đời sống Phạm hạnh."

 

Then, taking Ven. Nanda by the arm — as a strong man might flex his extended arm or extend his flexed arm — the Blessed One disappeared from among the devas of the Tavatimsa Heaven and reappeared in Jeta's Grove. The monks heard, "They say that Ven. Nanda — the Blessed One's brother, son of his maternal aunt — is leading the holy life for the sake of nymphs. They say that the Blessed One is his guarantee for getting 500 dove-footed nymphs."

Rồi Thế Tôn cầm cánh tay của Tôn giả Nanda, như người lực sĩ duỗi bàn tay dang co lại, hay co lại bàn tay đang duỗi ra, như vậy biến mất ở chư Thiên cõi trời Ba mươi ba, hiện ra ở Jetavana. Các Tỷ-kheo được nghe: "Tôn giả Nanda, em Thế Tôn, con của bà dì sống Phạm hạnh vì mục đích Thiên nữ. Họ nói Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ với chân như chân chim bồ câu".

 

Then the monks who were friends of Ven. Nanda went around addressing him as they would a hired hand and a dealer: "Our friend Nanda, they say, is a hired hand. Our friend Nanda, they say, is a dealer. He's leading the holy life for the sake of nymphs. The Blessed One is his guarantee for getting 500 dove-footed nymphs."

Rồi các Tỷ-kheo bạn của Tôn giả Nanda, gọi Tôn giả Nanda là người làm thuê, là người buôn bán: "Tôn giả Nanda là người làm thuê, Tôn giả Nanda là người buôn bán. Vì mục đích Thiên nữ, Tôn giả Nanda sống Phạm hạnh. Thế Tôn có hứa đền cho năm trăm Thiên nữ có chân như chim bồ câu!"

 

Then Ven. Nanda — humiliated, ashamed, and disgusted that the monks who were his friends were addressing him as they would a hired hand and a dealer — went to dwell alone, secluded, heedful, ardent, and resolute. He in no long time entered and remained in the supreme goal of the holy life for which clansmen rightly go forth from home into homelessness, knowing and realizing it for himself in the here and now. He knew: "Birth is ended, the holy life fulfilled, the task done. There is nothing further for the sake of this world." And thus Ven. Nanda became another one of the arahants.

Ud 3.2

Rồi Tôn giả Nanda, bị bực phiền, tủi nhục, chán ngấy, bởi bị gọi là người làm thuê, là người buôn bán, sống một mình, viễn ly, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, tự tin, không bao lâu, do mục đích mà thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đình, sống không gia đình... vô thượng cứu cánh Phạm hạnh ấy, ngay trong hiện tại vị ấy tự mình với thắng trí chứng ngộ, chứng đạt và an trú. Vị ấy rõ biết: "Sanh đã tận, Phạm hạnh đã thành, việc nên làm đã làm, không trở lui trạng thái này nữa". Tôn giả Nanda đã trở thành một vị A-la-hán.

Ud 3.2

 

The Buddha's last days [go up]

Ananda notices that the Buddha is growing old

Now on that occasion the Blessed One, on emerging from seclusion in the late afternoon, sat warming his back in the western sun. Then Ven. Ananda went to the Blessed One and, on arrival, having bowed down to the Blessed One, massaged the Blessed One's limbs with his hand and said, "It's amazing, lord. It's astounding, how the Blessed One's complexion is no longer so clear & bright; his limbs are flabby & wrinkled; his back, bent forward; there's a discernible change in his faculties — the faculty of the eye, the faculty of the ear, the faculty of the nose, the faculty of the tongue, the faculty of the body."

"That's the way it is, Ananda. When young, one is subject to aging; when healthy, subject to illness; when alive, subject to death. The complexion is no longer so clear & bright; the limbs are flabby & wrinkled; the back, bent forward; there's a discernible change in the faculties — the faculty of the eye, the faculty of the ear, the faculty of the nose, the faculty of the tongue, the faculty of the body."

SN 48.41

Những ngày cuối đời của Đức Phật [go up]

Ananda nhận thấy Thế Tôn đang già đi

Lúc bấy giờ, Thế Tôn, vào buổi chiều, từ chỗ độc cư đứng dậy, ngồi sưởi ấm lưng trong ánh nắng phương Tây. Rồi Tôn giả Ananda đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn, với tay xoa bóp chân tay cho Thế Tôn, thưa rằng: "Thật kinh hoàng thay, bạch Thế Tôn! Thật kỳ dị thay, bạch Thế Tôn! Bạch Thế Tôn, màu da Thế Tôn nay không còn thanh tịnh, trong sáng, tay chân rã rời (sithilàni), nhăn nheo, thân được thấy còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn."

"Sự thể là vậy, này Ananda, tánh già nằm trong tuổi trẻ; tánh bệnh ở trong sức khỏe; tánh chết ở trong sự sống. Như vậy, màu da không còn thanh tịnh, trong sáng, tay chân rã rời, nhăn nheo, thân còm về phía trước, và các căn đang bị đổi khác, nhãn căn, nhĩ căn, tỷ căn, thiệt căn, thân căn."

SN 48.41

 

To what refuge should the Buddha's followers turn after his death?

"Now I am frail, Ananda, old, aged, far gone in years. This is my eightieth year, and my life is spent. Even as an old cart, Ananda, is held together with much difficulty, so the body of the Tathagata is kept going only with supports. It is, Ananda, only when the Tathagata, disregarding external objects, with the cessation of certain feelings, attains to and abides in the signless concentration of mind, that his body is more comfortable.

^^^^^^

 

"Therefore, Ananda, be islands unto yourselves, refuges unto yourselves, seeking no external refuge; with the Dhamma as your island, the Dhamma as your refuge, seeking no other refuge.

"And how, Ananda, is a bhikkhu an island unto himself, a refuge unto himself, seeking no external refuge; with the Dhamma as his island, the Dhamma as his refuge, seeking no other refuge?

"Vậy nên, này Ananda, hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, hãy tự mình nương tựa chính mình, chớ nương tựa một gì khác. Dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, chớ nương tựa một gì khác.

"Này Ananda, thế nào là vị Tỷ-kheo hãy tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác?

 

"When he dwells contemplating the body in the body, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world; when he dwells contemplating feelings in feelings, the mind in the mind, and mental objects in mental objects, earnestly, clearly comprehending, and mindfully, after having overcome desire and sorrow in regard to the world, then, truly, he is an island unto himself, a refuge unto himself, seeking no external refuge; having the Dhamma as his island, the Dhamma as his refuge, seeking no other refuge."

DN 16

"Này Ananda, ở đời, vị Tỷ-kheo, đối với thân quán thân, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời; đối với các cảm thọ... đối với tâm... đối với các pháp, quán pháp, tinh tấn, tỉnh giác, chánh niệm, nhiếp phục mọi tham ái, ưu bi trên đời. Này Ananda, như vậy vị Tỷ-kheo tự mình là ngọn đèn cho chính mình, tự mình nương tựa chính mình, không nương tựa một gì khác, dùng Chánh pháp làm ngọn đèn, dùng Chánh pháp làm chỗ nương tựa, không nương tựa một gì khác."

DN 16

 

He renounces his will to live on

"Today, Ananda, at the Capala shrine, Mara, the Evil One, approached me, saying: 'Now, O Lord, bhikkhus and bhikkhunis, laymen and laywomen, have come to be true disciples of the Blessed One — wise, well disciplined, apt and learned, preservers of the Dhamma, living according to the Dhamma, abiding in the appropriate conduct, and having learned the Master's word, are able to expound it, preach it, proclaim it, establish it, reveal it, explain it in detail, and make it clear; and when adverse opinions arise, they are now able to refute them thoroughly and well, and to preach this convincing and liberating Dhamma.

Đức Thế Tôn không duy trì mạng sống lâu hơn nữa

Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Ác ma đến Ta, sau khi đến liền đứng một bên. Này Ananda, Ác ma đứng một bên nói với Ta như sau: "Bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ. Bạch Thế Tôn, đây là lời Thế Tôn đã nói: "Này Ác ma, Ta sẽ không diệt độ khi nào những Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ của Ta chưa trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý, chưa có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp; khi có tà đạo khởi lên, chưa có thể chất vấn và hàng phục một cách khéo léo, chưa có thể truyền bá Chánh pháp thần diệu". Bạch Thế Tôn, nay những Tỷ-kheo,Tỷ-kheo ni, cư sĩ của Thế Tôn đã trở thành những đệ tử chơn chánh, sáng suốt, có kỷ luật, sẵn sàng, đa văn, duy trì Chánh pháp, thành tựu Chánh pháp và tùy pháp, sống chân chánh, sống theo Chánh pháp, sau khi học hỏi giáo lý đã có thể tuyên bố, diễn giảng, trình bày, xác định, khai minh, phân tách và giải thích rõ ràng Chánh pháp, khi có tà đạo khởi lên, đã có thể chất vấn và hành phục một cách khéo léo, đã có thể truyền bá Chánh pháp một cách thần diệu. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn, nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ.

 

"'And now, O Lord, this holy life taught by the Blessed One has become successful, prosperous, far-renowned, popular and widespread, and it is well proclaimed among gods and men. Therefore, O Lord, let the Blessed One come to his final passing away! Let the Happy One utterly pass away! The time has come for the Parinibbana of the Lord.'

"'Bạch Thế Tôn, nay phạm hạnh Thế Tôn giảng dạy đã được thành tựu, thịnh đạt, phổ biến, quảng bá, biến mãn nghĩa là được khéo giảng dạy cho loài Người. Như vậy, nay Thế Tôn hãy diệt độ, Thiện Thệ hãy diệt độ. Bạch Thế Tôn nay đã đến thời Thế Tôn diệt độ'.

 

"And then, Ananda, I answered Mara, the Evil One, saying: 'Do not trouble yourself, Evil One. Before long the Parinibbana of the Tathagata will come about. Three months hence the Tathagata will utterly pass away.'

"Khi được nói vậy, Ta nói với Ác ma: 'Này Ác ma, hãy an tâm, không bao lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay Như Lai sẽ diệt độ'.

 

"And in this way, Ananda, today at the Capala shrine the Tathagata has renounced his will to live on."

"Này Ananda, hôm nay tại điện thờ Càpàla, Như Lai chánh niệm, tỉnh giác, từ bỏ thọ, hành (không duy trì mạng sống lâu hơn nữa)".

 

At these words the Venerable Ananda spoke to the Blessed One, saying: "May the Blessed One remain, O Lord! May the Happy One remain, O Lord, throughout the world-period, for the welfare and happiness of the multitude, out of compassion for the world, for the benefit, well being, and happiness of gods and men!"

Khi được nói vậy, tôn giả Ananda bạch Thế Tôn: "Bạch Thế Tôn, Thế Tôn hãy ở lại cho đến trọn kiếp, Thiện Thệ hãy ở lại cho đến trọn kiếp, vì lợi ích cho chúng sanh, viứ hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc cho loài Trời và loài Người!"

 

And the Blessed One answered, saying: "Enough, Ananda. Do not entreat the Tathagata, for the time is past, Ananda, for such an entreaty."

DN 16

"Thôi đi, này Ananda, đừng có thỉnh cầu Như Lai nữa. Này Ananda, nay thỉnh cầu Như Lai không còn kịp thời."

DN 16

 

His last admonition to the monks

"Now, O bhikkhus, I say to you that these teachings of which I have direct knowledge and which I have made known to you — these you should thoroughly learn, cultivate, develop, and frequently practice, that the life of purity may be established and may long endure, for the welfare and happiness of the multitude, out of compassion for the world, for the benefit, well being, and happiness of gods and men.

Những lời dạy bảo cuối cùng của Đức Thế Tôn đến chư tỳ khưu

"Này các Tỷ-kheo, nay những pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy cho các Ngươi, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người.

 

"And what, bhikkhus, are these teachings? They are the four foundations of mindfulness, the four right efforts, the four constituents of psychic power, the five faculties, the five powers, the seven factors of enlightenment, and the Noble Eightfold Path. These, bhikkhus, are the teachings of which I have direct knowledge, which I have made known to you, and which you should thoroughly learn, cultivate, develop, and frequently practice, that the life of purity may be established and may long endure, for the welfare and happiness of the multitude, out of compassion for the world, for the benefit, well being, and happiness of gods and men."

"Này các Tỷ-kheo, thế nào là các pháp do Ta chứng ngộ và giảng dạy, các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để cho phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì an lạc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng cho đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người? Chính là Bốn Niệm xứ, Bốn Chánh cần, Bốn Thần túc, Năm Căn, Năm Lực, Bảy Bồ-đề phần, Tám Thánh đạo phần. Này các Tỷ-kheo, chính những pháp này do Ta chứng ngộ và giảng dạy, mà các Ngươi phải khéo học hỏi, thực chứng, tu tập và truyền rộng để phạm hạnh được trường tồn, vĩnh cửu, vì hạnh phúc cho chúng sanh, vì lòng thương tưởng của đời, vì lợi ích, vì hạnh phúc, vì an lạc cho loài Trời và loài Người".

 

Then the Blessed One said to the bhikkhus: "So, bhikkhus, I exhort you: All compounded things are subject to vanish. Strive with earnestness. The time of the Tathagata's Parinibbana is near. Three months hence the Tathagata will utterly pass away."

DN 16

Rồi Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo, đây là lời Ta nhắn nhủ các Ngươi. Các hành là vô thường. Hãy tinh tấn lên để tự giải thoát, không lâu Như Lai sẽ diệt độ. Sau ba tháng bắt đầu từ hôm nay, Như Lai sẽ diệt độ".

DN 16

 

His last meal

And soon after the Blessed One had eaten the meal provided by Cunda the metalworker, a dire sickness fell upon him, even dysentery, and he suffered sharp and deadly pains. But the Blessed One endured them mindfully, clearly comprehending and unperturbed.

Then the Blessed One spoke to the Venerable Ananda, saying: "Come, Ananda, let us go to Kusinara" And the Venerable Ananda answered: "So be it, Lord."

DN 16

Bữa ăn cuối cùng

Sau khi dùng cơm của thợ sắt Cunda, Thế Tôn bị nhiễm bệnh nặng, bệnh lỵ huyết, đau đớn gần như đến chết, và Thế Tôn chánh niệm tĩnh giác, nhẫn nại, chịu đựng cơn bệnh.

Rồi Thế Tôn nói với tôn giả Ananda: - Này Ananda, chúng ta hãy đi đến Kusinàra. - Xin vâng, bạch Thế Tôn! Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn.

DN 16

 

He retires to his death-bed

Then the Blessed One with a large community of monks went to the far shore of the Hiraññavati River and headed for Upavattana, the Mallans' sal-grove near Kusinara. On arrival, he said to Ven. Ananda, "Ananda, please prepare a bed for me between the twin sal-trees, with its head to the north. I am tired, and will lie down."

He retires to his death-bed

Rồi Thế Tôn, cùng với đại chúng Tỷ-kheo đi đến bên kia sông Hirannavati, tại Kusinàrà Upavattana, rừng Sàlà của dòng họ Mallà, khi đi đến nơi liền nói với Tôn giả Ananda: "Này Ananda, hãy trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ: này Ananda, Ta nay mệt mỏi, muốn nằm nghỉ".

 

Responding, "As you say, lord," Ven. Ananda prepared a bed between the twin sal-trees, with its head to the north. Then the Blessed One lay down on his right side in the lion's sleeping posture, with one foot on top of the other, mindful & alert.

"Xin vâng, bạch Thế Tôn!" Tôn giả Ananda vâng lời Thế Tôn, trải chỗ nằm, đầu hướng về phía Bắc giữa hai cây sàlà song thọ. Và Thế Tôn nằm xuống, về phía hông bên phải, như dáng nằm con sư tử, hai chân để lên nhau chánh niệm và giác tỉnh.

 

Now at that time the twin sal-trees were in full bloom, even though it was not the time for flowering. They showered, strewed, & sprinkled on the Tathagata's body in homage to him. Heavenly coral-tree blossoms fell from the sky, showering, strewing, & sprinkling the Tathagata's body in homage to him. Heavenly sandalwood powder fell from the sky, showering, strewing, & sprinkling the Tathagata's body in homage to him. Heavenly music was playing in the sky, in homage to the Tathagata. Heavenly songs were sung in the sky, in homage to the Tathagata.

DN 16

Lúc bấy giờ, cây sàlà song thọ trổ hoa trái nmùa, tràn đầy cành lá. Những đóa hoa này rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài. Những thiên hoa Mandàrava từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài. Bột trời chiên đàn từ trên hư không rơi xuống, rơi lên, gieo khắp và tung vãi trên thân Như Lai để cúng dường Ngài, nhạc trời trên hư không trổi dậy để cúng dường Như Lai. Thiên ca trên hư không vang lên để cúng dường Như Lai.

DN 16

 

The Buddha recommends four pilgrimage sites

"Ananda, there are these four places that merit being seen by a clansman with conviction, that merit his feelings of urgency & dismay (samvega). Which four? 'Here the Tathagata was born' is a place that merits being seen by a clansman with conviction, that merits his feelings of urgency & dismay. 'Here the Tathagata awakened to the unexcelled right self-awakening'... 'Here the Tathagata set rolling the unexcelled wheel of Dhamma'... 'Here the Tathagata was totally unbound in the remainderless property of Unbinding' is a place that merits being seen by a clansman with conviction, that merits his feelings of urgency & dismay. These are the four places that merit being seen by a clansman with conviction, that merit his feelings of urgency & dismay. They will come out of conviction, Ananda — monks, nuns, male lay followers, & female lay followers — to the spots where 'Here the Tathagata was born,' 'Here the Tathagata awakened to the unexcelled right self-awakening,' 'Here the Tathagata set rolling the unexcelled wheel of Dhamma,' 'Here the Tathagata was totally unbound in the remainderless property of Unbinding.' And anyone who dies while making a pilgrimage to these memorials with a bright, confident mind will — on the break-up of the body, after death — reappear in a good destination, the heavenly world."

DN 16

Đức Thế Tôn nói đến bốn thánh tích cần phải chiêm ngưỡng

Này Ananda, có bốn Thánh tích kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Thế nào là bốn? 'Đây là chỗ Như Lai đản sanh'đó là thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. 'Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Giác'... 'Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng'... 'Đây là chỗ Như Lai diệt độ, nhập Vô dư y Niết-bàn' đó là Thánh tích, kẻ thiện tín cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. đó là bốn Thánh tích, kẻ thiện tín cư sĩ cần phải chiêm ngưỡng và tôn kính. Này Ananda, các thiện tín Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, cư sĩ nam, cư si nữ sẽ đến với niềm suy tư: "Đây là chỗ Như Lai đản sanh", "Đây là chỗ Như Lai chứng ngộ vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác", "Đây là chỗ Như Lai chuyển Pháp luân vô thượng", "Đây là chỗ Như Lai diệt độ, Nhập Vô dư y Niết-bàn". Và những ai, trong khi chiêm bái những Thánh tích mà từ trần với tâm thâm tín hoan hỷ, thời những vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung sẽ được sanh cõi thiện thú, cảnh giới chư Thiên.

DN 16

 

Thousands lament the imminent passing of the Buddha

Now at that time the Kusinara Mallans had met for some business in their assembly hall. Ven. Ananda went to the assembly hall and on arrival announced to them, "Tonight, Vasitthas, in the last watch of the night, the total Unbinding of the Tathagata will occur. Come out, Vasitthas! Come out, Vasitthas! Don't later regret that 'The Tathagata's total Unbinding occurred within the borders of our very own town, but we didn't get to see him in his final hour!'" When they heard Ven. Ananda, the Mallans together with their sons, daughters, & wives were shocked, saddened, their minds overflowing with sorrow. Some of them wept, tearing at their hair; they wept, uplifting their arms. As if their feet were cut out from under them, they fell down and rolled back & forth, crying, "All too soon, the Blessed One will be totally unbound! All too soon, the One Well-gone will be totally unbound! All too soon, the One with Eyes will disappear from the world!"

Then the Mallans together with their sons, daughters, & wives — shocked, saddened, their minds overflowing with sorrow — went to Ven. Ananda at Upavattana, the Mallans' sal-grove near Kusinara.

DN 16

Thousands lament the imminent passing of the Buddha

Lúc bấy giờ, dân Mallà ở Kusinàrà đang tụ họp tại giảng đường vì một vài cộng sự. Tôn giả Ananda đến tại giảng đường của dân Mallà ở Kusinàrà. Sau khi đến, tôn giả liền nói vói dân Mallà ở Kusinàrà: "Này Vàsetthà, đêm nay, vào canh cuối cùng Như Lai sẽ diệt độ, Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Này Vàsetthà, các Ngươi hãy đến. Về sau chớ có hối hận: "Như Lai đã diệt độ tại làng vườn chúng ta mà chúng ta không được chiêm ngưỡng Như Lai" Dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ, khi nghe tôn giả Ananda nói như vậy, liền dau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não. Kẻ thì khóc than với đầu bù tóc rối, kẻ thì khóc than với cánh tay duỗi cao, kẻ thì khóc than thân bổ nhoài dưới đất, lăn lộn qua lại: "Thế Tôn nhập diệt quá sớm, Thiện Thệ nhập diệt quá sớm, Pháp nhãn biến mất ở trên đời quá sớm"

Và dân Mallà cùng với con trai, con gái và vợ đau đớn, sầu muộn, tâm tư khổ não, đi đến Upavattana, khu rừng Sàlà của dòng họ Mallà và đến chỗ tôn giả Ananda.

DN 16

 

As long as the noble Eightfold Path is practiced, there will be arahants

"In any doctrine & discipline where the noble eightfold path is not found, no contemplative of the first... second... third... fourth order [stream-winner, once-returner, non-returner, or arahant] is found. But in any doctrine & discipline where the noble eightfold path is found, contemplatives of the first... second... third... fourth order are found. The noble eightfold path is found in this doctrine & discipline, and right here there are contemplatives of the first... second... third... fourth order. Other teachings are empty of knowledgeable contemplatives. And if the monks dwell rightly, this world will not be empty of arahants."

DN 16

Ngày nào Bát Chánh Đạo còn được thực hành, ngày đó không vắng những vị A La Hán

"Trong pháp luật nào không có Bát Thánh đạo, thời ở đây không có (đệ nhất) Sa-môn, ở đây cũng không có đệ nhị Sa-môn, cũng không có đệ tam Sa-môn, cũng không có đệ tứ Sa-môn. Trong pháp luật nào có Bát Thánh đạo thời ở đây có (đệ nhứt) Sa-môn, cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, ở đấy cũng có đệ tứ Sa-môn. Chính trong pháp luật này có Bát Thánh Đạo, ở đây có đệ nhất Sa-môn, ở đây cũng có đệ nhị Sa-môn, cũng có đệ tam Sa-môn, cũng có đệ tứ Sa-môn. Những hệ thống ngoại đạo khác đều không có những Sa-môn. Nếu những vị Tỷ-kheo này sống chơn chánh, thời đời này không vắng những vị A-la-hán."

DN 16

 

The Buddha's parting words

[Date: 1 BE]

Then the Blessed One addressed the monks, "Now, then, monks, I exhort you: All fabrications are subject to decay. Bring about completion by being heedful." Those were the Tathagata's last words.

Then the Blessed One entered the first jhana. Emerging from that he entered the second jhana. Emerging from that, he entered the third... the fourth jhana... the dimension of the infinitude of space... the dimension of the infinitude of consciousness... the dimension of nothingness... the dimension of neither perception nor non-perception. Emerging from that, he entered the cessation of perception & feeling.

...

Then the Blessed One, emerging from the cessation of perception & feeling, entered the dimension of neither perception nor non-perception. Emerging from that, he entered the dimension of nothingness... the dimension of the infinitude of consciousness... the dimension of the infinitude of space... the fourth jhana... the third... the second... the first jhana. Emerging from the first jhana he entered the second... the third... the fourth jhana. Emerging from the fourth jhana, he immediately was totally Unbound.

DN 16

The Buddha's parting words

Và Thế Tôn nói với các Tỷ-kheo: "Này các Tỷ-kheo, nay Ta khuyên dạy các Ngươi: "Các pháp hữu vi là vô thường, hãy tinh tấn, chớ có phóng dật".Đó là lời cuối cùng Như Lai.

Rồi Thế Tôn nhập định Sơ thiền. Xuất Sơ thiền, Ngài nhập Nhị thiền. Xuất Nhị thiền Ngài nhập Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập Tứ thiền, Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Không vô biên xứ. Xuất Không vô biên xứ, Ngài nhập định Thức vô biên xứ. Xuất Thức vô biên xứ, Ngài nhập định Vô sở hữu xứ. Xuất Vô Sở hữu xứ, Ngài nhập định Phi tưởng phi phi tưởng xứ. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Diệt thọ tưởng định..

Rồi xuất Diệt thọ tưởng định. Ngài nhập Phi tưởng phi phi tưởng xứ định. Xuất Phi tưởng phi phi tưởng xứ, Ngài nhập Vô sở hữu xứ định. Xuất Vô sở hữu xứ, Ngài nhập Thức vô biên xứ định. Xuất thức Vô biên xứ, Ngài nhập Hư không vô biên xứ định. Xuất Hư không vô biên xứ, Ngài nhập định Tứ thiền. Xuất Tứ thiền, Ngài nhập định Tam thiền. Xuất Tam thiền, Ngài nhập định Nhị thiền. Xuất Nhị thiền, Ngài nhập định Sơ thiền. .

DN 16

 

Postscript:[go up]
Many names for the Buddha

Here are a few of the many epithets that appear in the suttas in reference to the Buddha. The indicated sutta passages contain examples.

See also: Refuge: An Introduction to the Buddha, Dhamma, and Sangha by Thanissaro Bhikkhu.

^^^^^^

 Chủ biên và điều hành: TT Thích Giác Đẳng.

 Những đóng góp dịch thuật xin gửi về TT Thích Giác Đẳng tại giacdang@phapluan.com
Cập nhập ngày: Thứ Sáu 08-11-2006

Kỹ thuật trình bày: Minh Hạnh & Thiện Pháp

|Trang trước | trở về đầu trang | Home page |