[1] "Monks, as far as Kasi & Kosala extend, as far as the rule of King Pasenadi the Kosalan extends, King Pasenadi the Kosalan is reckoned supreme. Yet even in King Pasenadi the Kosalan there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Này các Tỷ-kheo, xa trông như thế nào là nước Kàsi Kosalà, xa rộng như thế nào, là sự trị v́ của vua Pasenadi nước Kosalà, trong phạm vi như vậy, vua Pasenadi nước Kosalà được xem là tối thượng ! Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với vua Pasenadi, nước Kosalà có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong (vấn đề) ấy ; do nhàm chán trong (vấn đề) ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ đối với hạ liệt.

 

[2] "As far as the sun & moon revolve, illumining the directions with their light, there extends the thousand-fold cosmos.


Này các Tỷ-kheo, xa cho đến mặt trăng, mặt trời di chuyển, xoay chuyển, chói sáng các phương, cho đến như vậy là ngàn thế giới.

 

In that thousand-fold cosmos there are:
-A thousand moons,
-A thousand suns,
-A thousand Sunerus — kings of mountains;
-A thousand Rose-apple continents,1
-A thousand Deathless Ox-cart [continents],
-A thousand northern Kuru [continents],
-A thousand eastern Videha [continents];
-Four thousand great oceans,
-Four thousand Great Kings,
-A thousand [heavens of the] Four Great Kings,
-A thousand [heavens of the] Thirty-three,
-A thousand [heavens of the] Yamas,
-A thousand [heavens of the] Tusitas,
-A thousand heavens of the Nimmanaratis,
-A thousand heavens of the Paranimmitavasavattis,2
-A thousand Brahma worlds.
And in that thousand-fold cosmos, the Great Brahma is reckoned supreme.


Trong ngàn thế giới ấy có:
-Một ngàn mặt trăng,
-Một ngàn mặt trời,
-Một ngàn vua núi Suneru,
-Một ngàn cơi Diêm phù đề,
-Một ngàn Tây ngưu Hóa châu,
-Một ngàn Bắc-cu-lô-châu,
-Một ngàn Đông thắng Thần châu,
-Bốn ngàn biển lớn,
-Bốn ngàn Đại vương,
-Một ngàn Bốn đại Thiên vương,
-Một ngàn Tam thập tam thiên,
-Một ngàn Dạ-ma-thiên,
-Một ngàn Đâu-suất-thiên,
-Một ngàn Tha hóa Tự tại thiên,
-Một ngàn Hóa-lạc-thiên,
-Một ngàn Phạm thiên giới.
Này các Tỷ-kheo, xa rộng cho đến một ngàn thế giới, Đại phạm Thiên ở đấy được xem là tối thượng.

 

Yet even in the Great Brahma there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Tuy vậy, này các Tỷ-kheo, đối với Đại Phạm thiên có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong (Đại Phạm thiên) ấy, do nhàm chán trong (Đại Phạm thiên) ấy, từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ đối với hạ liệt.

 

[3] "There comes a time when this cosmos devolves. When the cosmos is devolving, most beings head to the [heaven of] the Radiant. There they remain for a long, long time — mind-made, feeding on rapture, self-radiant, faring through the sky, abiding in splendor. When the cosmos is devolving, the Radiant Devas are reckoned supreme.


Này các Tỳ-kheo, có một thời, đến thời ấy, thế giới này chuyển hoại, này các Tỷ-kheo, các loài hữu t́nh phần lớn sanh qua cơi Àbhassara (Quang âm thiên). Ở tại đấy, chúng sanh này do ư sanh, nuôi sống bằng hỷ, tự chiếu hào quang, phi hành trên hư không, sống trong sự quang vinh, và sống như vậy một thời gian khá dài. Này các Tỷ-kheo, trong khi thế giới chuyển hoại, các Quang âm thiên được xem là tối thượng.

 

Yet even in the Radiant Devas, there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Nhưng này các Tỷ-kheo, đối với chư Quang âm thiên, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong (chư Quang âm thiên) ấy ; do nhàm chán trong (Quang âm thiên) ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ đối với hạ liệt.

 

[4] "There are these ten totality-dimensions. Which ten?


Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền án xứ này. Thế nào là mười ?

 

-One perceives the earth-totality above, below, all-around: non-dual,3 unlimited.
-One perceives the water-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The fire-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The wind-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The blue-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The yellow-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The red-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The white-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The space-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
-The consciousness-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited.
These are the ten totalities.


-Một người tưởng tri Thiền án đất, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án nước phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án lửa phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án gió phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án xanh phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án vàng phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền đỏ phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án trắng phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án hư không phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
-Một người tưởng tri Thiền án thức, phía trên, phía dưới, bề ngang, không hai, vô lượng.
Này các Tỷ-kheo, có mười Thiền án xứ này.

 

Now, of these ten totalities, this is supreme: when one perceives the consciousness-totality above, below, all-around: non-dual, unlimited. And there are beings who are percipient in this way.Yet even in the beings who are percipient in this way there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong mười Thiền án xứ này, tức là Thiền án thức. Đối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều nhàm chán trong ấy ; do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ với hạ liệt.

 

[5] "There are these eight dimensions of [mental] mastery. Which eight?


Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ này. Thế nào là tám ?

 

"One percipient of form internally sees forms externally as limited, beautiful & ugly. Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.' This is the first dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng nội sắc, thấu các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ thứ nhất.

 

"One percipient of form internally sees forms externally as immeasurable, beautiful & ugly. Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.' This is the second dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng nội sắc, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ thứ hai.

 

"One percipient of the formless internally sees forms externally as limited, beautiful & ugly. Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.' This is the third dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc có hạn lượng, đẹp, xấu. Vị ấy nhận thức rằng : Sau khi nhiếp thắng chúng vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, Ta thấy". Đó là thắng xứ thứ ba.

 

"One percipient of the formless internally sees forms externally as immeasurable, beautiful & ugly. Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.' This is the fourth dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc vô lượng, đẹp, xấu. Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy". Đó là thắng xứ thứ tư.

 

"One percipient of the formless internally sees forms externally as blue, blue in their color, blue in their features, blue in their glow.
-Just as a flax-flower is blue, blue in its color, blue in its features, blue in its glow,
-Just as Benares muslin, smooth on both sides, is blue, blue in its color, blue in its features, blue in its glow,
In the same way one percipient of the formless internally sees forms externally as blue, blue in their color, blue in their features, blue in their glow.
Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.'
This is the fifth dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu xanh, sắc màu xanh, tưởng sắc xanh, h́nh sắc xanh, ánh sáng xanh
- Như bông gai màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, h́nh sắc xanh, ánh sáng xanh
- Như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu xanh, sắc màu xanh, tướng sắc xanh, h́nh sắc xanh, ánh sáng xanh.
Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta thấy, ta biết".
Đó là thắng xứ thứ năm.

 

"One percipient of the formless internally sees forms externally as yellow, yellow in their color, yellow in their features, yellow in their glow.
-Just as a kannikara-flower is yellow, yellow in its color, yellow in its features, yellow in its glow,
-Just as Benares muslin, smooth on both sides, is yellow, yellow in its color, yellow in its features, yellow in its glow,
In the same way one percipient of the formless internally sees forms externally as yellow, yellow in their color, yellow in their features, yellow in their glow.
Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.'
This is the sixth dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu vàng, sắc màu xám, tướng sắc vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng
-Như bông kannikàra màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng
-Như lụa Ba-la-nại cả hai mặt láng trơn màu vàng, sắc màu vàng, tướng sắc vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng.
Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoài sắc màu vàng, sắc màu vàng, tưởng sắc màu vàng, h́nh sắc vàng, ánh sáng vàng.
Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy".
Đó là thắng xứ thứ sáu.

 

"One percipient of the formless internally sees forms externally as red, red in their color, red in their features, red in their glow.
-Just as a bandha-jivaka-flower is red, red in its color, red in its features, red in its glow,
-Just as Benares muslin, smooth on both sides, is red, red in its color, red in its features, red in its glow,
In the same way one percipient of the formless internally sees forms externally as red, red in their color, red in their features, red in their glow.
Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.'
This is the seventh dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, h́nh màu đỏ.
-Như bông hoa Bandha-jivaka màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, h́nh sắc đỏ, ánh sáng đỏ.
-Như lụa Ba-la-nại, cả ai mặt láng trơn, màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng màu đỏ, h́nh sắc đỏ, ánh sáng đỏ.
Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu đỏ, sắc màu đỏ, tướng sắc đỏ, ánh sáng đỏ.
Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy".
Đó là thắng xứ thứ bảy.

 

"One percipient of the formless internally sees forms externally as white, white in their color, white in their features, white in their glow.
-Just as the morning star is white, white in its color, white in its features, white in its glow,
-Just as Benares muslin, smooth on both sides, is white, white in its color, white in its features, white in its glow,
In the same way one percipient of the formless internally sees forms externally as white, white in their color, white in their features, white in their glow.
Mastering them, he is percipient of 'I know; I see.'
This is the eighth dimension of [mental] mastery.


Một vị quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng
-Như sao mai Osadhi màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng
-Như lụa Ba-la-nại, cả hai mặt láng trơn, màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng.
Như vậy, vị này quán tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, sắc màu trắng, tướng sắc trắng, h́nh sắc trắng, ánh sáng trắng.
Sau khi nhiếp thắng chúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy".
Đó là thắng xứ thứ tám

 

These are the eight dimensions of mental mastery.
Now, of these eight dimensions of mastery, this is supreme: when one percipient of the formless internally sees forms externally as white, white in their color, white in their features, white in their glow. And there are beings who are percipient in this way. Yet even in the beings who are percipient in this way there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Này các Tỷ-kheo, có tám thắng xứ này. Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong tám thắng xứ này, tức là có người tưởng vô sắc ở nội tâm, thấy các loại ngoại sắc màu trắng, tướng màu trắng, h́nh sắc màu trắng, ánh sáng trắng. Sau khi nhiếp thắng cúng, vị ấy tưởng tri như sau : "Ta biết, ta thấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nó ǵ đối với hạ liệt.

 

[6] "There are these four modes of practice. Which four?


Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường này. Thế nào là bốn ?

 

-Painful practice with slow intuition.
-Painful practice with quick intuition.
-Pleasant practice with slow intuition.
-Pleasant practice with quick intuition.
These are the four modes of practice.


-Con đường khổ thắng tri chậm.
-Con đường khổ thắng tri mau.
-Con đường lạc thắng tri chậm.
-Con đường lạc thắng tri mau.
Này các Tỷ-kheo, có bốn con đường này.

 

Now, of these four modes of practice, this is supreme: pleasant practice with quick intuition. And there are beings whose practice is like this. Yet even in the beings whose practice is like this there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong bốn con đường này, tức là con đường lạc thắng tri mau. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh thực hành như vậy. Đối với các chúng sanh thực hành như vậy, này các Tỷ-kheo có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ đối với hạ liệt.

 

[7] "There are these four perceptions. Which four?


Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này. Thế nào là bốn ?

 

-One perceives the limited [ordinary perceptions].
-One perceives the enlarged [the mind in jhana].
-One perceives the immeasurable [the mind in the Brahma attitudes].
-One perceives the dimension of nothingness: 'There is nothing.'
These are the four perceptions.


-Có người tưởng tri có hạn lượng.
-Có người tưởng tri đại hành.
-Có người tưởng tri Không vô biên xứ.
-Có người tưởng tri Vô sở hữu xứ, nghĩ rằng : "Không có sự vật ǵ"
Này các Tỷ-kheo, có bốn tưởng này.

 

Now, of these four perceptions, this is supreme: when one perceives the dimension of nothingness: 'There is nothing.' And there are beings who are percipient in this way. Yet even in the beings who are percipient in this way there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong bốn tưởng này, tức là có người tưởng tri Vô sở hữu, nghĩ rằng : "Không có sự vật ǵ". Này các Tỷ-kheo có những chúng sanh có tưởng như vậy. Đối với các chúng sanh có tưởng như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ đối với hạ liệt.

 

[8] "The supreme view-point external [to the Dhamma] is this:
-I should not be; it should not occur to me;
-I will not be; it will not occur to me.'
Of one with this view it may be expected that 'the unloathsomeness of becoming will not occur to him, and the loathsomeness of the cessation of becoming will not occur to him.'


Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các thành khiến của các dị học, tức là :
-Nếu ta không có trong lúc ấy, thời nay đă không có của ta.
-Nếu ta sẽ không có, thời sẽ không có của ta".
Với người có tri kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, có thể chờ đợi như sau : Sự không nhàm chán này đối với hữu sẽ không có đối với người ấy. Sự nhàm chán này đối với hữu diệt sẽ không có đối với người ấy.

 

And there are beings who have this view. Yet even in the beings who have this view there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có tri kiến như vậy. Đối với chúng sanh có tri kiến như vậy, này các Tỷ-kheo, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do vậy nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng, c̣n nói ǵ đối với các hạ liệt.

 

[9] "There are some priests & contemplatives who declare the foremost purity of the spirit. 4


Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Bà-la-môn tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng.

 

Now, of those who proclaim the foremost purity of the spirit, these are supreme: those who, with the complete transcending of the dimension of nothingness, enter & remain in the dimension of neither perception nor non-perception and who, having directly known & realized this, teach their Dhamma. And there are beings who teach in this way. Yet even in the beings who teach in this way there is still aberration, there is change. Seeing this, the instructed disciple of the noble ones grows disenchanted with that. Being disenchanted with that, he becomes dispassionate toward what is supreme, and even more so toward what is inferior.


Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố thanh tịnh là mục đích tối thắng, tức là sự vượt qua một cách an toàn Vô sở hữu xứ, sự chứng đạt và an trú Phi tưởng phi tưởng xứ. Họ thuyết pháp để thắng tri cái ấy, để giác ngộ cái ấy. Này các Tỷ-kheo, có những chúng sanh có nói như vậy. Này các Tỷ-kheo, đối với các chúng sanh có nói như vậy, có sự đổi khác, có sự biến hoại. Thấy vậy, này các Tỷ-kheo, vị Thánh đệ tử nghe nhiều, nhàm chán trong ấy. Do nhàm chán trong ấy, vị ấy từ bỏ sự tối thượng c̣n nói ǵ với các hạ liệt.

 

[10] "There are some priests & contemplatives who proclaim the foremost Unbinding in the here-&-now.


Này các Tỷ-kheo, có một số Sa-môn, Ba-la-môn tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối thắng.

 

Now, of those who proclaim the foremost Unbinding in the here-&-now, this is supreme: liberation through non-clinging, having known, as they actually are present, the arising, the passing away, the allure, the drawbacks of, & the escape from the six sense-contact media. And when I teach that, when I point that out, some priests & contemplatives accuse me of being false, unfactual, hollow, vain, [saying,] 'The contemplative Gotama does not declare the full comprehension of sensuality, does not declare the full comprehension of forms, does not declare the full comprehension of feelings.'


Cái này là tối thượng, này các Tỷ-kheo, trong các vị tuyên bố hiện tại Niết-bàn là mục đích tối thắng, tức là sau khi như thật sự tập khởi, sự chấm dứt vị ngọt, sự nguy hại và sự xuất ly của sáu xúc xứ, được giải thoát không có chấp thủ. Này các Tỷ-kheo Ta là người đă nói như vậy, đă tuyên bố như vậy. Và một số Sa-môn, Ba-la-môn xuyên tạc Ta với điều không thật là phi hữu, trống không, nói láo, nói rằng : "Sa-môn Gotama không tuyên bố sự liễu tri các dục, không tuyên bố sự liễu tri các sắc, không tuyên bố sự liễu tri các thọ".

 

But I do declare the full comprehension of sensuality, I do declare the full comprehension of forms, I do declare the full comprehension of feelings. Unhungering, unbound, cooled in the here-&-now, I declare total Unbinding from lack of clinging."


Và này các Tỷ-kheo, ta tuyên bố sự liễu tri các dục, Ta tuyên bố sự liễu tri các sắc, ta tuyên bố sự liễu tri các thọ, Ta tuyên bố ngay trong hiện tại sự vô dục, tịch diệt, thanh lương không chấp thủ, chứng đạt niết-bàn.

 

Notes

1. The Rose-apple continent is an ancient name for the Indian sub-continent. Classical Buddhist cosmology regarded the world as arranged in four continents around Mt. Suneru. On the south was the Rose-apple continent; on the west, the Deathless Ox-cart continent; on the north, the Northern Kuru continent; and on the east, the Eastern Videha continent.

2. The phrase "a thousand heavens of the Nimmanaratis, and a thousand heavens of the Paranimmitavasavattis" is in the Sinhalese edition of the Pali canon, but not in the Thai edition.

3. Advayam.

4. See Sn IV.11, notes 2 and 4.