302- Pháp
Chơn Đế có bảy Mươi Hai
V- Thế nào là Pháp chơn Đế có bảy
mươi hai ?
Đ- Pháp Chơn đế có bảy
mươi hai là tất cả Tâm kể 1 (v́ tâm dù có đến
121 thứ vẫn đồng một ư nghĩa biết cảnh
nên kể là 1); Sở hữu tâm tính đủ 52 thứ (v́
sở hữu tâm mỗi thứ có đặc tính riêng biệt);
Sắc pháp chỉ kể có 18 là 18 thứ sắc rơ và níp Bàn
có 1 (tức là trạng thái tịch tịnh).
Có
những câu Pāli chú giải:
-Saha uccīyante eṭṭhāti
= Samuccayo: do tính bằng pháp chơn đế gom chung nhau sắp
thành phần tức là Pháp chơn đế có phần đồng
nhau sắp thành Tứ phần”.
-Saṃ pindetvā uccīyante
etenāti = Samuccayo: Do gồm pháp chơn đế có phần
đồng nhau sắp thành Tứ phần”.
+ Tất cả Pháp Chơn
đế được chia ra 4 phần:
1- Bất Thiện Tập Yếu
2- Tạp Loại Tập Yếu
3- Giác Phần Tập yếu
4- Hàm Tận Tập Yếu
303- Bất
Thiện Tập Yếu (Akusalasaṅgaho)
V- Thế nào là Bất Thiện Tập Yếu ?
Đ- Bất Thiện Tập Yếu là gom
tất cả pháp Bất Thiện trọng yếu kể
ra.
Có
Pāli chú giải:
-“Ekantākusala jātikānaṃ
oghacatukkādīnaṃ saṅgahoti = Akusalasaṅgaho: Hợp
những Sở hữu Bất Thiện sắp thành từ
phần như là Lậu, Bộc v.v... gọi là Bất Thiện
Tập Yếu.
+ Pháp Bất Thiện Tập Yếu
gồm có 9 phần :
1- Tứ Trầm hay Lậu
2- Tứ Bộc
3- Tứ Kết
4- Tứ Phược
5- Tứ Thủ
6- Lục Cái
7- Thất Tiềm Thuỳ
8- Thập triền
9- Thập Phiền Năo.
304- Tứ
Trầm hay Tứ Lậu (cattāro Āsavā)
V- Thế nào là Tứ Trầm ?
Đ- Tứ Trầm là bốn pháp trầm
luân, làm cho chúng sanh măi đắm ch́m trong Tam giới.
1- Dục Trầm (Kāmāsava) là ḷng luyến ái ngũ
trần quá sâu đậm, sự mê say ch́m ngâm trong lục dục
làm cho chúng sanh măi đắm ch́m trong luân hồi.
2- Hữu Trầm (Bhavāsava) là ḷng tham ái những cảnh
giới tương lai như là vọng móng đời sau
được hưởng Ngũ dục đầy đủ
hoặc mong muốn được sanh vào các cơi Thiền sắc
và Vô sắc.
3- Kiến Trầm (Diṭṭhāsava) ch́m ngâm theo sự
chấp sai, là quan kiến sai lầm tức là sự hiểu
biết trái với sự thật.
4- Vô Minh Trầm (Ajjāsava) là ḷng mê muội thiếu
sáng suốt, không thấu rơ các nhân quá khứ tạo quả
hiện tại, và không biết rơ các nhân hiện tại tạo
quả tương lai tức là Duyên khởi (Thập nhị
Nhân Duyên)
Bốn
pháp này luôn luôn ướp nhuộm chúng sanh hay là ngâm tẩm
chúng sanh măi tiêm nhiễm theo thói quen trong đời nên chẳng
được giải thoát, cũng như gỗ ngâm trong
ao nước. Do đó nên gọi là Tứ Trầm (bốn
pháp ch́m đắm).
305- Tứ
Bộc (Cattāro oghā)
V- Thế nào là Tứ Bộc ?
Đ- Tứ Bộc là bốn pháp lôi cuốn
chúng sanh măi nổi trôi trong bể khổ Tam giới. Chi pháp
của Bộc cũng như Trầm. Nhưng nói về
phương diện ch́m đắm th́ gọi là Trầm;
c̣n nói về phương diện lôi cuốn trôi đi th́ là
Bộc. Chi pháp của tứ Bộc là: Dục Bộc, Hữu
Bộc, Kiến Bộc và Vô Minh Bộc.
Có
pāli chú giải:
-“Avattharitvā hanantīti =
Oghā: tràn ngập xâm hại chúng sanh gọi là Bộc hay
Bộc Lưu”.
-Avahananti osīdāpentīti=
làm cho chúng sanh ch́m đắm gọi là Bộc”
-Oghā viyāti = Oghā: chảy
tràn gọi là Bộc Lưu. V́ phiền năo mới để
lại nghiệp Biệt thời (Nānakkhanikakamma) gọi
là Chủng tử (Bīja) v́ c̣n nghiệp luân hồi th́ có tạo
tâm Tục sinh v.v... đó là Quả. Nếu Tục sinh rồi
không đắc Quả tột th́ c̣n phiền năo để
nghiệp phải luân hồi nữa”.
306- Tứ
Kết (Cattāro yogā)
V- Thế nào là Tứ Kết ?
Đ- Tứ kết là bốn pháp trói buộc
chúng sanh dính mắc trong ṿng sanh tử. Về phương
diện dính mắc gọi là Kết chớ chi pháp vẫn
như Trầm và Bộc.
Có
Pāli chú giải:
-“Vaṭṭasmiṃ satte
yojentīti = Yogā: Pháp nào sẽ đem chúng sanh phối hợp
dính trong khổ luân hồi tức là dời đổi thay
kiếp sống đời khác khác nữa”.
+ Chi pháp cũng có 4: Dục Kết,
Hữu Kết, Kiến Kết và Vô Minh Kết.
307- Tứ
Phược (Cattāro ganthā)
V- Thế nào là Tứ Phược ?
Đ- Tứ Phược là bốn pháp trói
buộc thân không rời ra hoặc không thể dứt bỏ
được.
Có
những câu Pāli chú giải:
-“kāyaṃ ganthentīti =
Kāyaganthā: Trói chặt với thân Danh và Sắc, nên nói
đủ là Thân phược”.
-“ Kāyena kāyaṃ
ganthentīti = Kāyaganthā: Pháp nào buộc trói với những
thân Danh, Sắc cả hiện tại và vị lai, pháp ấy
gọi là Thân phược”.
+ Chi pháp của Thân phược:
1/ Tham ái Thân Phược (Abhijjhākāya)
là ḷng ham muốn thái quá nên không thể rời ra hay dứt
bỏ được những đối tượng khả
ái.
2/ Sân Độc Thân Phược
(Byāpādakāyaganthā)
ḷng sân hận độc ác quá nặng nên trói buộc chặt
thân tâm không thể xa ĺa hay giải thoát được;
như câu: “Chữ
phụ thù bất cộng đáy thiên” hay như tích nhà Vua A Dục v́ oán hận
vị Đại thần ngăn cản việc bố thí
của Ngài nên sau khi chết sanh làm rắn với ư muốn
cắn chết vị quan Đại thần v.v....
3/ Giới Thủ Thân Phược
(Sīlabbatarāmāsakāyaganthā)
chấp giữ theo tục lệ cúng tế hoặc giữ
ǵn theo những giới ngoại đạo tức là những
pháp nghịch không có mục đích giải thoát, không làm
thân, khẩu, ư trong sạch được , như các h́nh
thức khổ hạnh.
4/ Ngă Kiến Thân Phược (Idaṃ
saccābhinivesakāyaganthā) chấp giữ bản ngă quá
nặng nên bị cột trói cả thân tâm, không thể tiến
hoá được, tức là những thành kiến cố hữu
quá sâu đậm, những người bị Ngă kiến
Thân Phược rồi th́ không bao giờ chịu cầu tiến.
Bản
thể pháp của Tứ Phược là Tham, sân, Giới Thủ
Thân Phược và Ngă kiến Thân phược là sở hữu
Tà kiến.
308- Tứ
Thủ (Cattāro upādānā)
V- Thế nào là Tứ Thủ ?
Đ- Tứ Thủ là bốn pháp chấp
thủ, quá cố chấp, quá luyến ái, gọi là Thủ.
Có
Pāli chú giải:
-“Upādīyantīti =
Upādāni: Pháp nào chấp cứng với cảnh gọi
là Thủ”.
+ Thủ có 4 :
1/ Dục Thủ (Kāmupādanaṃ)
là ḷng ham muốn ngũ trần quá khắn khít, quá thiết
tha. Thí dụ: như chất keo làm cho 2 mảnh ván dính liền
nhau.
2/ Kiến Thủ (Diṭṭhupādāna) là chấp
cứng theo quan niệm sai lầṃ
3/ Giới Cấm thủ (Sīlabbatupādāna) chấp cứng
vào các tục lệ, giới cấm ngoài Phật giáo.
4/ Ngă Chấp thủ (Attavādupādāna) chấp cứng
bản ngă quá nặng nên bị cột trói cả thân tâm, chấp
rằng có linh hồn, có tự ngă trường tồn bất
biến.
+
Ngă chấp Thủ có 20 thứ:
1/ Sắc Uẩn và Tự Ngă
là một
2/ Sắc Uẩn là sở hữu
của tự ngă
3/ Trong Sắc Uẩn có Tự
Ngă
4/ Trong Tự Ngă có sắc Uẩn.
Thọ, tưởng, hành, thức
cũng tính theo 4 cách. như vậy nên Ngă chấp Thủ có
đến 20.
309- Lục
cái (Cha Nīvaraṇāni)
V- Thế nào là Lục Cái ?
Đ- Lục Cái là 6 pháp Bất Thiện
ngăn che các Thiện pháp, nhất là Thiền không
được phát triển.
Có
Pāli chú giải :
-“ Jhānādikaṃ
nivārentīti = Nīvaranāni: Cấm ngăn sự tốt
đẹp không cho sanh ra nhất là Thiền v.v... tức là
Lục cái”.
+ Pháp Cái có 6 :
1/ Dục Dục Cái (Kāmacchandanīvaraṇa)
là sự mong muốn trong dục nhất là Ngũ trần.
tham dục Cái là ngăn chặn chi Định của Thiền.
2/ Sân Dộc Cái (Byāpādanīvaraṇa) là trạng thái nóng nảy, bực
bội, giận dữ. Sân độc cái đè ép chi Hỷ
của Thiền.
3/ Hôn Thuỵ Cái Thīnamiddhanīvaraṇa) là trạng
thái dă dượi, buồn ngủ; Hôn thuỵ cái ngăn chặn
chi Tầm của Thiền.
4/ Trạo Hối Cái (Uddhaccakukkuccanīvaraṇa) là trạng
thái giao động và hối tiếc. Trạo Hối cái
đối nghịch với chi Lạc của Thiền.
5/ Hoài Nghi Cái (Vicikicchānīvaraṇa) là sự
nghi hoặc, không tin; Hoài nghi
cái đối lập với chi Tứ.
6/ Vô Minh Cái (Avijjānīvaraṇa) là sự mê
muội, không sáng suuốt, vô minh cái che đậy trí tuệ.
Bản
thể pháp của Lục Cái: Tham dục cái là sở hữu
Tham; Sân độc cái là sở hữu Sân; Hôn thuỵ cái là sở
hữu Hôn trầm và thuỵ miên; Hoài nghi cái là sở hữu
Hoài nghi;vô minh cái là sở hữu si.
310- Thất
Tiềm Miên (Sattānusaya)
V- Thế nào là Thất Tiềm Miên ?
Đ- Thất Tiềm Miên là bảy pháp Ngủ
ngầm, gọi là pháp Ngủ ngầm phải được
hiểu là những pháp này sẽ phát sanh chứ không phải
những pháp này có sẵn và c̣n hoài để ẩn náo trong
tâm như cặn trà trong ly nước; bởi các pháp đều
vô Ngă, nên không có một pháp nào thường hằng và bất
biến.
Có
những câu Pāli chú giải:
-“Santāna anu anu sentīti =
anusayā: Pháp nào ngủ nghỉ liên tiếp theo Danh Sắc
gọi là Tiềm Miên”.
-“Anurūpaṃ kāranaṃ
labhitvā santi uppajjantīti = Anusayā: Pháp nào khi gặp
nhân thích hợp là phát sanh đó cũng gọi là tiềm
miên”.
+ Bảy pháp Ngủ ngầm :
1/ Ái dục tiềm miên (Kāmarāgānusaya)
là sự tham ái ngũ dục, được xem như một
cố tật của mỗi người, nếu gặp ngũ
dục thích hợp th́ ḷng luyến ái khởi lên.
2/
Ái hữu tiềm miên (Bhavarāgānusaya)
là sự vọng móng các loại thiền Sắc và Vô Sắc cũng được xem là một
cố tật của những vị đă từng tu thiền.
3/ Phẫn uất tiềm miên (Paṭighānusaya) là tánh sân hận,
nóng nảy, cũng là một thói quen của phàm nhân và các vị
Thánh hữu học bậc thấp mỗi khi gặp nghịch
cảnh.
4/ Ngă mạn tiềm miên (Mānānusaya) là tánh cống cao,
kiêu hănh, thói quen của những người hay tự cao.
5/ Tà kiến tiềm miên (Diṭṭhānusaya) là nết
quen theo tri kiến sai lầm.
6/ Hoài nghi tiềm miên (vicikicchaanusaya) là tánh phân vân không quyết
tin Tam Bảo. Cũng là một cố tật của những
người thích giao du với kẻ tà kiến.
7/ Vô minh tiềm miên (Avijjānusaya) là cá tánh ngu si, mê dại
nhiều đời. Bảy pháp Bất Thiện này
được xem là cố tật;thói quen hay là những
thành kiến cố hữu nên hễ có duyên thích hợp th́
chúng phát sanh lên, do đó mà gọi chúng là pháp ngủ ngầm.
Bản
thể pháp của Thất Tiềm Miên: Ái dục tiềm
miên và Ái hữu tiềm miên là sở hữu Tham; Phẫn uất
tiềm miên là sở hữu Sân; Ngă mạn tiềm miên là sở
hữu Ngă mạn; Tà kiến tiềm miên là sở hữu Tà
kiến; Hoài nghi tiềm miên là sở hữu Hoài nghi; Vô minh
tiềm miên là sở hữu Si.
311- Thập
Thiền (Saṃyojana)
V- Thế nào là Thập Triền ?
Đ- Thập Triền là mười pháp
trói buộc chúng sanh. Triền khác hơn Phược, Kết.
Kết là thắt cứng, Phược là cột chặt,
Triền là quấn thường mà thôi.
Có
Pāli chú giải:
-“Saṃyojananti bandhantīti =
Saṃyojanāni: Pháp nào buộc ràng chúng sanh gọi là Triền”.
+ Triền có 10:
1/ Ái dục triền (Kāmarāgasaṃyojana)
là bị buộc do đắm say Ngũ dục
2/ Ái sắc triền (Rūparāgasaṃyojana) là bị
trói buộc do tâm luyến ái Cảnh và Cơi Thiền Sắc
giới.
3/ Phẫn uất triền (Paṭighasaṃyojana) là bị buộc
v́ tâm Sân hận.
4/ Ngă mạn triền (Mānasaṃyojana) là bị trói buộc
do sự kiêu căng.
5/ Kiến triền (Diṭṭhisaṃyojana) là bị
Tà kiến trói buộc.
6/ Giới cấm triền (Sīlabbataparāmāsasaṃyojana)
là bị buộc chặt trong giới luật tà đạo,
tức là vâng giữ theo những điều phi lư không lợi
ích.
7/ Hoài nghi triền (Vicikicchāsaṃyojana) là bị sự
nghi hoặc ràng buộc.
8/ Tật triền (Issāsaṃyojana) là thân tâm bị
cột trói bởi sự ganh gổ, ghen ghét tức là trạng
thái tránh phần hơn của kẻ khác.
9/ Lận triền Macchariyasam.yojana) là thân tâm bị cột
trói bởi ḷng keo kiệt bỏn xẻn.
10/ Vô minh triền (Avijjāsaṃyojana) là bị si mê
trói buộc.
Bản
thể pháp của Thập Triền: Ái dục triền và Ái
sắc triền là sở hữu Tham; Phẫn uất triền
là sở hữu Sân; Ngă mạn triền là sở hữu Ngă
mạn; Tà kiến triền và Giới cấm triền là sở
hữu Tà kiến; Hoài nghi triền là sở hữu Hoài nghi;
Tật triền là sở hữu Tật; Lận triền là
sở hữu Lận; Vô minh triền là sở hữu Si.
312- Thập
Phiền Năo (Kilesa)
V- Thế nào là Thập Phiền Năo ?
Đ- Thập Phiền Năo là mười
pháp làm cho Tâm bị nhơ đục.
Có
những câu Pāli chú giải:
-“Kilesenti upatāpantīti =
Kilesā: pháp nào làm cho nóng nảy, pháp ấy gọi là Phiền
Năo”
-“Kilissati etehīti = Kilesā:
Pháp nào làm cho những pháp tương ưng tức là Tâm và
sở hữu đồng sanh đều bị nóng nảy
gọi là Phiền năo”.
+ Thập Phiền Năo là:
1/ Tham phiền năo (Lobhakilesa)
là ḷng ham muốn ngũ trần, làm cho tâm vẫn đục.
2/ Sân phiền năo (Dosakilesa) là ḷng Sân hận làm mờ
ám tâm trí.
3/ Si phiền năo (Mohakilesa) là trạng thái mê muội
bao phủ tâm trí.
4/ Ngă mạn phiền năo Mānakilesa) sự kiêu mạn là vật
làm cho tâm trí bợn nhơ.
5/ Tà kiến phiền năo (Diṭṭhikilesa) là kiến chấp
sai lầm làm mờ ám tâm trí.
6/ Hoài nghi phiền năo (Vicikicchākilesa) là trạng thái phân
vân, lưỡng lự, không quyết tin Tam Bảo, trở
thành vật chướng ngại cho tâm trí.
7/ Hôn trầm phiền năo (Thīnakilesa) là sự buồn ngủ,
dă dượi khởi lên ngăn che trí sáng suốt.
8/ Phóng dật phiền năo (Uddhaccakilesa) là trạng thái loạn
động làm cho tâm trí bị chi phối theo cảnh trần,
cũng là vật làm cho nhơ nhớp của tâm.
9/ Vô tàm phiền năo (Ahirikakilesa) làm cho tâm nhơ nhớp
do trạng thái không hổ thẹn tội lỗi.
10/ Vô quư phiền năo (Ottappakilesa) là bợn nhơ của
tâm do không ghê sợ tội lỗi.
Bản
thể pháp của Phiền năo: Tham phiền năo là sở hữu
Tham, sân phiền năo là sở hữu sân; Si phiền năo là sở
hữu Si; ngă mạn phiền năo là sở hữu ngă mạn;
Tà kiến phiền năo là sở
hữu Tà kiến; Hoài nghi phiền năo là sở hữu Hoài
nghi; Hôn trầm phiền năo là sờ hữu Hôn trầm;
Phóng dật phiền năo là sở hữu Phóng dật; Vô tàm
phiền năo là sở hữu Vô tàm; Vô quư phiền năo là sở
hữu Vô quư.
313- Tạp
Loại Tập Yếu (Missako saṅgaho)
V- Thế nào là Tạp Loại Tập Yếu ?
Đ- Tạp Loại Tập Yếu là những
cương yếu tính chung có cả Thiện, Bất Thiện
và Vô Kư. Gồm chung sắp lại từ phần.
Có
Pāli chú giải:
-“Kusalākusalābyākatā
missakānaṃ hetuchakaadīnaṃ saṅgahoti = Missakasaṅgaha:
Gồm những pháp Thiện, Bất Thiện và Vô Kư hợp
lại gọi là Nhân v.v... từ phần gọi là Tạp
Loại Tập Yếu”.
314- Sáu Nhân
(Hetu)
V- Thế nào là sáu Nhân ?
Đ- Nhân tương ưng (Sampayuttahetu)
hay Nhân Nhân (hetuhetu) tức là Tham, Sân, Si, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si
đồng sanh với tâm hữu nhân để giúp những
tâm ấy thành tựu có sức mạnh.
Có
Pāli chú giải :
-“Hinotiphalaṃ pattatīti =
Hetu: Pháp mà giúp cho quả đồng sanh với nó gọi là
Nhân”.
-“Hinoti tatthāti phalaṃ
etthāti = hetu: Quả do nhân những pháp đồng sanh
giúp có sức mạnh gọi là Nhân”
+ Nhân có 6 :
1/ Nhân tham là ḷng ham muốn,
luyến ái, dính mắc theo đối tượng khả
ái, là nguyên nhân sai khiến làm những việc ác như trộm
cắp, tà dâm v.v...
2/ Nhân sân là tánh nóng nảy, có trạng thái huỷ
diệt đối tượng bất toại nguyện.
Sân là nguyên nhân khiến làm những việc ác như sát sanh,
ác khẩu v.v...
3/ Nhân si là trạng thái mê mờ của tâm
trí, do si là nguyên nhân làm cho tham, sân v.v... sanh khởi.
4/ Nhơn vô tham là ḷng không nhiễm đắm các trần
cảnh, trạng thái vô tham là đối với ngũ trần
cũng như lá sen đựng nước. Vô tham là nguyên
nhân sai khiến tâm làm những việc lành như bố thí,
tŕ giới v.v...
5/ Nhân vô sân là ḷng không nóng nảy, tức là trạng
thái mát mẻ của tâm. Vô sân đồng nghĩa với
tâm Từ. Do vô sân là nguyên nhân sai khiến tâm làm những việc
lành như bố thí, tŕ giới v.v...
6/ Nhân vô si là tâm trí không mê mờ, tức là sáng
suốt đồng nghĩa với trí tuệ. Vô si là nguyên
nhân thấy rơ chân lư nhất là thấy rơ Tứ Diệu
Đế.
Sáu
nhân này gồm cả Thiện, Bất Thiện và Vô kư: Tham,
Sân, si là Bất Thiện, Vô Tham, Vô Sân, Vô Si hợp trong tâm
Thiện là Thiện, hợp trong tâm Quả và Duy Tác là Vô Kư.
315- Bảy
Chi Thiền (Jhānaṅga)
V- Thế nào là bảy Chi Thiền ?
Đ- Thiền là thiêu đốt pháp đối
nghịch, đối lập nhau.
Có
Pāli chú giải:
-“Paccanike itīpi
jhānasaññitā: nghĩa là thiêu đốt pháp nghịch, gọi
là Thiền”
+ Thiền có 7:
1/ Tầm là trạng thái
đưa tâm đến cảnh
2/ Tứ là quan sát đối tượng mà
tâm đă đưa đến
3/ Hỷ là thích thú đối tượng
4/ Định là gom tâm trên đối tượng
5/ Lạc là vui với đối tượng
6/ Ưu là buồn chán đối tượng
7/ Xả là thản nhiên, vô tư đối
tượng
V́ đối trị lẫn nhau nên gọi
là Thiền.
- Chi Tầm đối trị Hôn trầm,
Thuỵ miên
- Chi Tứ đối trị Hoài nghi
- Chi Hỷ đối trị Sân
Ưu
- Chi Lạc và xả đối trị
phóng dật và Hối.
Bảy chi Thiền trên đây
thật sự trong bản thể pháp chỉ có 5 thứ sở
hữu: Tầm, Tứ, Hỷ, Định và Thọ (Sở
hữu Thọ gồm cả 3 thọ: Ưu, Lạc Xả).
316- Mười
Sáu Chi Đạo (Maggaṅgāni)
V- Thế nào là Mười Sáu Chi Đạo ?
Đ- Mười sáu Chi Đạo là
mười sáu chi ngành của Đạo. Đạo có nghĩa
là đường đi thông suốt, đưa đến
cảnh khổ, chỗ vui và Níp bàn, đều gọi là
Đạo. Bởi thế Đạo gồm có cả Chánh
Đạo và Tà Đạo.
Có
những câu Pāli chú giải:
-“Magga vīyāti = magga: tợ
như đường gọi là Đạo”.
-“Sugatiduggatīnaṃ nibbanassa
ca abhimūkhaṃ pāpanato = Maggo: Nhân đưa đến
khổ thú hay lạc thú và Níp bàn, gọi là Đạo”.
+ Mười Sáu Chi Đạo:
1/ Chánh Kiến (Sammādiṭṭhi)
là tri kiến nhận thấy đúng với nhân quả, lư
nghiệp báo v.v... thấy rơ Tứ Diệu Đế.
2/ Chánh Tư Duy (Sammāsaṅkappa) là sự suy nghĩ
chánh đáng tức là suy nghĩ có tánh cách xa ĺa Ngũ dục.
xa ĺa Sân hận, xa ĺa sự Sát hại.
3/
Chánh Ngữ (Sammāvācā)
là ngăn hay trừ tà ác ngữ, là lời nói chân chánh tức
là không nói dối, không nói lời đâm thọc, không nói hung
dữ, không nói nhăm nhí.
4/ Chánh Nghiệp (Sammākammantā) là hành động
của Thân chơn chánh tức là không sát sanh, không trộm cắp,
không tà dâm, ngăn trừ tà hạnh nghiệp.
5/ Chánh Mạng (Sammā-Ājīva) ngăn hay trừ
Thân, Khẩu ác v́ nuôi thân, tức là nuôi mạng sống
chơn chánh, không nuôi mạng sống bằng Thân, Khẩu
ác.
6/ Chánh Tinh Tấn (Sammāvāyāma) là sự siêng
năng chơn chánh tức là ngăn ngừa những điều
ác chưa sanh khởi không cho sanh khởi, ngăn ngừa những
điều ác đă sanh khởi không cho tái phát, Tinh tấn
trao dồi những Thiện pháp chưa sanh khởi
được sanh khởi; tinh tấn ǵn giữ những
thiện pháp đă sanh khởi không bị băng hoại.
7/ Chánh Niệm (Sammāsati) là sự niệm
chơn chánh tức là niệm Thân, niệm Thọ, niệm
Tâm và niệm Pháp.
8/ Chánh Định (Sammāsamādhi) là định tâm
chơn chánh tức là định trong Sơ thiền, Nhị
thiền, Tam thiền và Tứ thiền. Định tâm
chơn chánh trong 4 loại thiền phải có những chi
Thiền như Tầm, Tứ, Hỷ v.v... làm căn bản.
9/ Tà Kiến (Micchādiṭṭhi) là sự hiểu
biết sai lầm trái với sự thật phản nghĩa
với Chánh Kiến.
10/ Tà Tư Duy (Micchāsaṅkappa) là sự suy nghĩ
tà vạy trái với Chánh tư duy.
11/ Tà Ngữ (Micchāvācā) là nói lời tà
vạy trái với Chánh Ngữ.
12/ Tà Nghiệp (Micchā kammantā) là hành động
của thân tà vạy, trái với Chánh nghiệp.
13/ Tà Mạng (Micchā ājīva) là nuôi mạng
sống bằng Thân, Khẩu ác trái với Chánh mạng.
14/ Tà Tinh Tấn (Micchā vāyāma) siêng năng
làm việc ác trái với Chánh tinh tấn.
15/ Tà Niệm (Micchā sati) là vọng niệm tạp
tưởng quên ḿnh, trái với chánh niệm.
16/ Tà Định (Micchāsamādhi) là định tâm
không chân chánh, tức là cách tu tập gom tâm ngoài bốn bậc
thiền, không có những chi Thiền như Tầm, Tứ
v.v.... làm căn bản.
Chi
pháp bản thể của các chi Đạo: Chánh Kiến là
sở hữu Trí tuệ; chánh Tư Duy là sở hữu Tầm;
Chánh ngữ là sở hữu Chánh Ngữ; Chánh Nghiệp là sở
hữu Chánh Nghiệp; Chánh Mạng là sở hữu chánh Mạng;
Chánh Tinh Tấn là sở hữu Cần; chánh Niệm là sở
hữu Niệm; Chánh Định là sở hữu Định;
Tà kiến là sở hữu Tà Kiến. Bảy pháp c̣n lại
chỉ có điều pháp tương phản với chánh
đạo chớ không có sở hữu riêng biệt.
317- Hai
Mươi Hai Quyền (Indriya)
V- Thế nào là Hai Mươi Hai Quyền ?
Đ- Hai Mươi Hai Quyền là pháp có
đặc tánh tự trị riêng biệt.
Có
Pāli chú giải:
-“Indanti parama issariyaṃ
karontīti = indriyāni : Pháp nào tự trị có tự do
độc lập. Pháp đó gọi là Quyền”.
+ Hai Mươi Hai Quyền là:
1/ Nhăn Quyền (Cakkhundriya)
là con mắt, có đặc tính hướng dẫn các pháp
đồng sanh cùng làm chung một việc Thấy.
2/ Nhĩ Quyền (Sotindriya) là lỗ tai, có đặc
tính hướng dẫn các pháp đồng sanh cùng làm chung một
việc là Nghe.
3/ Tỷ Quyền (Ghānindriya) là lỗ mũi, có
đặc tính hướng dẫn các pháp đồng sanh
cùng làm chung một việc Ngửi.
4/ Thiệt Quyền (Jīvhindriya) là lưỡi, có đặc
tính hướng dẫn các pháp đồng sanh cùng làm chung một
việc Nếm.
5/ Thân Quyền (Kāyindriya) là Thần kinh Thân, có
đặc tính hướng dẫn các pháp đồng sanh
cùng làm chung một việc cảm xúc.
6/ Nữ Quyền (Iṭṭhindriya) là trạng thái nữ,
có đặc tính hướng dẫn các pháp đồng sanh
cùng làm chung một việc hiện bày tư cách phần Nữ.
7/
Nam Quyền (Purisindriya)
là giới tính nam, có đặc tính hướng dẫn các
pháp đồng sanh cùng làm chung một việc hiện bày
tư cách Nam .
8/ Mạng Quyền (Jīvitindriya) là sắc Mạng quyền,
có đặc tính làm cho sắc pháp đồng sanh được
sống c̣n .
9/ Ư Quyền (Manindriya) là Tâm, có đặc tính
hướng dẫn danh pháp cùng làm chung một việc Biết
Cảnh
10/ Lạc Quyền (Sukhindriya) là Thọ lạc, có đặc
tính hướng dẫn danh pháp cùng làm chung một việc
hưởng thụ sự khoái lạc của xác thân.
11/ Khổ Quyền (Dukkhindriya) là thọ Khổ, có
đặc tính hướng dẫn các danh pháp cùng làm chung một
việc cảm thọ sự đau đớn của xác
thân.
12/ Hỷ Quyền (Somanassindriya) là thọ Hỷ, có
đặc tính hướng dẫn các danh pháp cùng làm chung một
việc thích thú đối tượng.
13/ Ưu Quyền (Domanassindriya) là Thọ Ưu, có
đặc tính hướng dẫn các danh pháp cùng làm chung một
việc buồn chán đối tượng.
14/ Xả Quyền (Upekkhindriya) là Thọ Xả, có đặc
tính hướng dẫn các pháp cùng làm chung một việc tiếp
nhận ngoại cảnh với tư cách vô tư.
15/ Tín Quyền (Saddhindriya) là sở hữu Tín, có
đặc tính hướng dẫn các danh pháp cùng làm chung một
việc tín ngưỡng Tam Bảo.
16/ Tấn Quyền (Viriyindriya) là sở hữu Cần,
có đặc tính hướng dẫn các danh pháp cùng làm chung
một việc cố gắng diệt trừ Ác pháp và chuyên
cần phát triển Thiện pháp.
17/ Niệm Quyền (Satindriya) là sở hữu Niệm,
có đặc tính hướng dẫn các danh pháp dồng sanh
cùng làm chung một việc chăm chú theo các hành động
của Thân.
18/ Định Quyền (Samādhindriya) là sở hữu
Định, có đặc tính hướng dẫn các danh
pháp đồng sanh cùng làm chung một việc gom tâm vào một
đề mục.
19/ Tuệ Quyền (Paññindriya) là sở hữu Trí tuệ,
có đặc tính hướng dẫn các danh pháp đồng
sanh cùng làm chung một việc hiểu biết sự vật
đúng với sự thật.
20/ Vị Tri Quyền (Anaññātanassāmītindriya) là trí
tuệ của Tu Đà Hườn Đạo, có đặc
tính hướng dẫn các danh pháp đồng sanh cùng làm
chung một việc biết cái chưa từng biết tức
thấy rơ Níp bàn lần đầu.
21/ Dĩ Tri Quyền (Aññindriya) là trí tuệ của các vị
Tu Đà Hườn Quả, Tư Đà Hàm Đạo,
Tư Đà Hàm Quả, A Na Hàm Đạo, A Na Hàm Quả và A
La hán Đạo. Có đặc tính hướng dẫn các
danh pháp đồng sanh cùng làm chung một việc biết
cái đă từng biết, tức là thấy rơ Níp bàn những
lần sau cũng giống như Tu Đà Hườn Đạo.
22/ Cụ Tri Quyền (Aññātāvindriya) là trí tuệ của
vị A La Hán Quả, có đặc tính hướng dẫn
các danh pháp đồng sanh cùng làm chung một việc giác ngộ
hoàn toàn.
318- Chín Lực
(Bala)
V- Thế nào là Chín Lực ?
Đ- Chín Lực là những pháp có sức mạnh,
có thể áp đảo được nghịch pháp.
Có
những câu Pāli chú giải:
-“Akampanatthena = Balaṃ: Gọi
là Lực có ư nghĩa không lay động”
-“Balīyanti uppanna paṭipakkhadhamma
sahanti maddanti = Balīni: Pháp nào có sức mạnh đè nén
pháp nghịch hay đủ sức đối thủ phá trừ
pháp nghịch gọi là Lực”.
+ Lực có 9:
1/ Tín Lực (Saddhābala)
là sức mạnh của Đức Tin, nhứt là đức
tin Tam Bảo của vị Tu Đà Hườn.
2/ Tấn Lực (Viriyabala) là sức mạnh của
Tinh Tấn, nhất là Tứ Chánh Cần.
3/ Niệm Lực (Satibala) là sức mạnh của
Chánh Niệm, nhất là Tứ Niệm Xứ.
4/ Định Lực (samādhibala) là sức mạnh của
tâm Định, nhất là Ngũ Thiền.
5/ Tuệ Lực (Paññābala) là sức mạnh của
Trí Tuệ, nhất là Chánh Kiến.
6/ Tàm Lực (Hiribala) là sức mạnh của sự
hổ thẹn với điều ác xấu.
7/ Quư Lực (ottappabala) là sức mạnh của
sự ghê sợ các điều ác xấu.
8/ Vô Tàm Lực (Ahiribala) là sức mạnh của sự
không biết hổ thẹn tội lỗi.
9/ Vô Quư Lực (Anottappabala) là sức mạnh của
sự không ghê sợ tội lỗi.
(Chi
pháp của 9 Lực nêu tên quá rơ ràng nên khỏi chỉ thêm về
bản thể pháp).
319- Bốn
trưởng (Adhipati)
V- Thế nào là Bốn Trưởng ?
Đ- Bốn Trưởng là pháp có năng
lực lớn mạnh hơn pháp đồng sanh. Bốn
pháp Trưỏng chẳng phải đồng sanh cùng một
lúc, cả bốn điều lớn mà chỉ có một
trong bốn, pháp nào trội hơn th́ pháp ấy là trưởng.
Có
Pāli chú giải:
-“Adhinānaṃ pati = Adhipati:
làm chủ hay lớn hơn pháp liên hệ với nó gọi
là Trưởng”.
-“Adhiko pati = Adhipati: Sức mạnh
lớn lao làm chủ cũng gọi là Trưởng”
+ Pháp Trưởng có 4 :
1/ Dục Trưởng (chandādhipati)
là sự mong muốn lớn hơn pháp khác.
2/ Cần Trưởng (Viriyādhipati) là sự tinh tấn
trội hơn các pháp khác.
3/ Tâm Trưởng (Cittādhipati) là sự biết cảnh
lớn trội hơn các pháp khác.
4/ Thẩm Trưởng (Vīmaṃsādhipati) là sự
sáng suốt lớn trội hơn pháp khác.
Dục
Trưởng là sở hữu Dục; Cần Trưởng
là sở hữu Cần; Tâm Trưởng là các Tâm Đổng
tốc; Thẩm Trưởng là sở hữu Trí Tuệ.
320- Bốn
Thực (Āhāra)
V- Thế nào là Bốn Thực ?
Đ- Thực là ăn, tức là đem
thêm chất dinh dưỡng để giúp thân hoặc tâm
phát triển thêm.
Có
Pāli chú giải:
-“Āharantīti =
Āhārā: Pháp nào đem lại sự tiến hoá, sự
kết quả của nó gọi là Thực”.
+ Pháp Thực có 4:
1/
Đoàn Thực (Kabalīkārāhāra) miếng
ăn như cơm, bánh v.v... giúp cho thân thể được
lớn mạnh thêm.
2/ Xúc Thực (Phassāhāra) là sự gặp gỡ
giữa các Căn, Cảnh và Thức, là nguyên nhân sanh ra Thọ.
3/ Tư Niệm Thực (Manasañcetanāhāra) là sự cố
ư làm việc Thiện hoặc Ác là nhân sanh ra Tâm quả Tục
Sinh.
4/ Thức Thực (Viññāhāra) là các tâm, v́ tâm có khả
năng hưởng cảnh là nhân trợ sanh danh sắc.
Bản
thể pháp của Tứ Thực: Đoàn thực là sắc
Vật Thực; Xúc Thực là sở hữu Xúc; Tư Niệm
Thực là sở hữu Tư; Thức Thực là tất cả
Tâm.
321- Giác Phần
Tập Yếu (Bodhipakkhiya)
V- Thế nào là Giác Phần Tập Yếu ?
Đ- Giác Phần Tập Yếu là những
pháp giúp cho Giác Ngộ.
Có
những câu Pāli chú giải:từ Bodhi:
-“Bujjhanti etāyati = Bodhi: Hành giả
tỏ ngộ Tứ Thánh Đế do nhơn nào, th́ nhơn
ấy gọi là Bồ Đề hay Giác, tức là nhân Giác
ngộ”.
-“Cattāri saccāni
bujjhatīti=Bodhi: Tỏ ngộ Tứ Đế gọi là Bồ
Đề v.v...”
-“Bodhi vuccati catūsu maggesu
ñāṇaṃ: Tuệ trong 4 đạo gọi là Bồ
Đề”
Bodhipakkhiya có Pāli chú giải:
-“Bodhipakkhiyānaṃ saṅgahoti
= Bodhipakkiyasaṅgaho: gồm hiệp những pháp phe đảng
với trí và đạo gọi là Đảng Giác Tập Yếu”.
+ Giác phần có 7 :
1- Tứ Niệm Xứ
2- Tứ Chánh Cần
3- Tứ Như Ư Túc
4- Ngũ Quyền
5- Ngũ Lực
6- Thất Giác chi
7- Bát Chánh Đạo
322- Tứ
Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna)
V- Thế nào là Tứ Niệm Xứ ?
Đ- Tứ Niệm Xứ là bốn đề
mục tu Tuệ. Các Niệm Xứ này hướng đến
phát triển quan sát, mỗi niệm xứ có một mục
đích riêng. Do quán bốn đối tượng này các niệm
Bất Tịnh, Khổ, Vô Thường, Vô Ngă được
tăng trưởng và các Niệm Tham ái, Cầu dục lạc
thường c̣n và hữu ngă được diệt trừ.
Có
Pāli chú giải:
-“Sati eva paṭṭhānanti =
Satipaṭṭhānaṃ: Niệm chủ trương
pháp tương ưng chăm chú vững vàng với cảnh
gọi là Niệm”.
1/ Niệm Thân (Kāyānupassanāsatipaṭṭhāna)
là cách chú tâm quan sát hành động của Thân cho thấy rơ
Sắc Uẩn. Niệm Thân đây là quan sát hơi thở,
quan sát bốn Oai nghi, quan sát về Tử thi v.v...
2/ Niệm Thọ (Vedanānupassanāsatipaṭṭhāna)
là chú tâm ghi nhận hay là quan sát theo các cảm Thọ: Khổ,
Lạc, Ưu, Hỷ và Xả. Niệm Thọ để thấy
rơ Thọ Uẩn.
3/ Niệm Tâm (Cittānupassanaasatipat.t.haana) là quan
sát theo sự sanh diệt của Tâm để thấy rơ Thức
Uẩn
4/ Niệm Pháp (Dhammānupassanāsatipaṭṭhāna)
là quan sát những tư tưởng (Tư là suy tính việc
tương lai; Tưởng là nhớ lại những việc
quá khứ) để thấy rơ Hành Uẩn và Tưởng Uẩn.
Hay
nói một cách khác: lấy Sắc Uẩn làm cảnh để
niệm, gọi là Niệm Thân, lấy Thọ Uẩn để
Niệm gọi là Niệm Thọ, lấy Thức Uẩn
để Niệm gọi là Niệm Tâm, lấy Hành Uẩn
và Tưởng Uẩn làm cảnh để Niệm gọi
là Niệm Pháp.
Pháp bản thể của Tứ Niệm
Xứ là Sở hữu Niệm.
323- Tứ
Chánh Cần (Sammappadhānā)
V- Thế nào là Tứ Chánh Cần ?
Đ- Tứ Chánh Cần là bốn pháp siêng
năng chơn chánh, cố gắng ngăn ngừa các ác xấu,
tội lỗi và cố gắng trau dồi ǵn giữ Pháp
Thiện hay sự tốt v.v...
Có
những câu Pāli chú giải:
-“Sammā padahanti etenāti =
Sammappadhānāni: Những pháp tinh tấn, cố gắng
chơn chánh theo lẽ phải, sự tốt, gọi là
Chánh Cần, tức là Tứ Chánh Cần”
-“Sammadeva padhānaṃ =
Sammappadhānaṃ: Sự siêng năng khéo,gọi là Chánh Cần”.
+ Chánh Cần có 4:
1/ Thận Cần (Anuppannānaṃ
pāpakānaṃ ānappādāya vāyāmo) là cố
gắng làm cho pháp Bất Thiện chưa từng sanh không
sanh đặng, tức là dè dặt cách ác xấu chưa làm
không cho làm”.
2/ Trừ Cần (Uppananānaṃ pāpakānaṃ
pahāya vāyāmo) cách dứt trừ những tội lỗi
ác xấu, đă làm không cho tái phạm.
3/ Tu Cần (Anuppannānaṃ kusalānaṃ
uppādāya vāyāmo) là trau dồi những Thiện
pháp chưa sanh được sanh.
4/ Bảo Cần (Uppannaanam. kusalaanam. bhiyyo
bhaavaayavaayaamo) là tinh tấn hộ tŕ những Thiện pháp
đă sanh càng tăng trưởng thêm không để hư
hại.
Bản thể pháp Tứ Chánh Cần là sở
hữu Cần.
324- Tứ
Như Ư Túc (Iddhipāda)
V- Thế nào là Tứ Như Ư Túc ?
Đ- Tứ Như Ư Túc là bốn pháp nền
tảng giúp cho thành tựu các loại Đạo, Quả,
Thiền và Diệu Trí (Tâm Thông).
Như
Ư (Iddhi) là sự thành tựu bằng cách đầy đủ.
Có Pāli chú giải :
-Ijjhanaṃ = Iddhi: Nghĩa là
thành tựu bằng cách đầy đủ gọi là
Như Ư. Ám chỉ Thiền, Thông, Đạo và Quả”.
Túc (pāda) là nhờ cậy,
nương tựa.
Có Pāli chú giải :
-“Pajjati etenāti = pādo: là một
người nào nhờ pháp ấy làm nhơn đưa đến
giải thoát th́ pháp ấy gọi là Túc”.
Như Ư Túc có Pāli chú giải:
1/ Dục Như Ư Túc (Chandiddhipāda)
là sự mong muốn là nhân đưa đến đắc
chứng các loại Đạo, Quả, Thiền, Thông.
2/ Cần Như Ư Túc Viriyiddhipaada) là sự tinh tấn là
nhân đưa đến chứng các loại Đạo, Quả
v.v...
3/ Tâm Như Ư Túc (Cittaddhipāda) là Tâm làm nhân
đưa đến đắc chứng các loại Đạo,
Quả v.v...
4/ Thẩm Như Ư Túc (Vīmaṃsiddhipāda) là có trí tuệ
làm nhân đưa đến đắc chứng các loại
Đạo, Quả v.v...
Bản
thể pháp Tứ Như Ư Túc : Dục Như Ư Túc là sở hữu
Dục; Cần Như Ư Túc là sở hữu Cần; Tâm
Như Ư Túc là Tâm Đổng tốc Dục giới Tịnh
hảo tương ưng (tức là 4 Tâm Thiện hợp
trí, 4 Tâm Duy Tác dục giới hợp trí); Thẩm Như Ư
Túc là sở hữu Trí tuệ.
325- Ngũ
Quyền (Indriya)
V- Thế nào là Ngũ Quyền ?
Đ- Ngũ Quyền là những pháp có
tư cách tự trị vững mạnh, có khả năng
chịu đựng nổi sự lấn áp của pháp nghịch.
+ Quyền trong Giác Phần có 5 :
1- Tín Quyền
2- Tấn Quyền
3- Niệm Quyền
4- Định Quyền
5- Tuệ Quyền
Quyền trong “Giác Phần” chúng
vừa đồng sanh, vừa quân b́nh (xem lại chi pháp Ngũ
Quyền trong 22 Quyền).
326- Ngũ
Lực (Bala)
V- Thế nào là Ngũ Lực ?
Đ- Ngũ Lực là sức mạnh vững
chắc, không bị lay động đối với nghịch
pháp. Có năng lực công và thủ đối với nghịch
pháp. Lực trong “Giác Phần” có 5:
1- Tín Lực
2- Tấn Lực
3- Niệm Lực
4- Định Lực
5- Tuệ Lực
Ngũ Lực trong “Giác Phần”
cũng phải đồng sanh và đồng đẳng
(xem phần Cửu Lực).
327- Thất
Giác chi (Bojjhaṅgo)
V- Thế nào là Thất Giác chi ?
Đ- Thất Giác
Chi là bảy pháp trợ giúp cho giác ngộ lư Tứ Diệu
Đế, hay nói một cách khác pháp nào giúp cho tỏ ngộ
Níp bàn th́ pháp ấy gọi là Giác chi .
Có
Pāli chú giải:
-Bodhiyā aṅgo = Bojjhaṅgo:
Cơ quan hợp với phần pháp làm nhơn đặng
biết Thánh đế, gọi là Giác Chi”
+ Pháp trợ giúp cho Giác Ngộ
có 7 :
1/ Niệm Giác chi (Satisambojjhaṅga)
là nhân trợ giúp cho tỏ ngộ Đạo, Quả và Níp
bàn.
Có
Pāli chú giải:
-“Sati eva sambojjhaṅgo =
Satisambojjhaṅgo: Niệm thuộc về phe đảng tỏ
ngộ Tứ đế gọi là Niệm Giác Chi”
Nhân sanh Niệm Giác chi có 4:
a/Chánh Niệm tỉnh giác
(Satisampajjañña) thường có sự ghi nhớ biết ḿnh
b/ Tránh người hay quên (Muṭṭhassatipuggalaparivajjanatā)
và không tu tập pháp quán.
c/ Nương người vững
chánh niệm (Upaṭṭhitassatipuggalasevantaa)
nên hội họp với những người chuyên tu Tứ
Niệm Xứ.
d/ Thường niệm cảnh
hiện tại (Tadadhimuttatā)
hằng chăm chú tự thân tâm và để ư biết kịp
cảnh ngoài đang đến.
2/ Trạch Pháp Giác Chi (Dhammavicayasambojjhan’ga)
là trí tuệ quan sát phân biệt rơ pháp Thiện và Bất Thiện
là nhân trợ giúp cho tỏ ngộ Đạo, Quả, Níp
Bàn.
Có
Pāli chú giải:
-“Vipassanāya bhūmi bhūte
ajjhattabahiddhā dhamme vicināti upadhāretīti =
Dhammavicāyo: Gọi là Trạch Pháp Giác Chi có nghĩa là gạn,
lựa, lướt đến, duy tŕ những pháp phần
trong và ngoài thành tựu sở quán
a/
Ưa hỏi những sự nghi với bậc thông hiểu.
(Paripucchagatā)
b/ Thân, đồ, chỗ ở
sạch sẽ (Vatthivisadakiriyā)
c/ Pháp ngũ quyền đều
nhau (Indriyasamattapaṭipādanā)
d/ Tránh người thiếu trí
tuệ (Duppaññāpuggalapārivajjanā)
e/ T́m gặp người trí
(Paññāvantapuggalasevanatā)
f/ Ưa suy xét cảnh tuệ
cao tế nhị sâu xa (Gambhirañāṇapariyapaccavekkhaṇā)
g/ Để ư theo Trạch Pháp
Giác Chi chuyên niệm Tứ oai nghi và các cảnh Danh, Sắc
sanh diệt (Tadadhimuttatā)..(xem tiep trang sau)
.