dieuphap.com Trang Chính |
Bưuduc.com Trang Chính |
[08] Giảng ngày 05 tháng 10, 2006 tại rơom Diệu Pháp - Paltalk - Minh Hạnh chuyển biên TT Giác Đẳng: Như chúng ta được biết rằng đạo Phật đề cập đến nhiều trạng thái tâm và những trạng thái đó có thể tìm thấy ngay trong đời sống hiện tại như chúng tôi đang nói với qúi vị: Thí dụ như định, nói về tâm định thì qúi vị đang tập trung lắng nghe, ở trong sự tập trung lắng nghe đó cũng có phần nào của định, nhưng định ở trạng thái rất muội lượt tương tựa như một loại ớt hay một loại rau mọc ở sau vườn, chúng ta có thể thấy được, có thể ăn được những trái ớt, những loài rau đó. Nhưng muốn trở thành một kỹ nghệ, ví dụ như mình trồng cải chẳng hạn để lấy bông cải thì chúng ta phải trồng ở một quy mô khác lớn hơn chứ không phải chỉ một vài cây cải ở sau vườn là đủ. Đối với chúng ta những trạng thái như "Từ Bi Hỉ Xả" là những thứ người đời gọi là tình cảm cao thượng và có thể tìm thấy trong đời sống hàng ngày. Hoặc giả chúng ta nghe và thấy những đau khổ của chúng sanh khác, đồng bào nạn nhân bão lụt miền Trung chẳng hạn, nhìn thấy những người không nhà cửa thất tán thân nhân, qúi vị khởi tâm xót xa, thấy khổ quá, bây giờ mình làm một cái gì đó cho những người này, chúng ta gọi là "Tâm Bi." Thì những trạng thái tâm này vốn không dễ dàng để tồn tại liên tục và có thể khởi lên trong tâm chúng ta bất cứ lúc nào. Có thể khi xem TV hay nghe người ta nói đến nạn nhân bão lụt thì chúng ta khởi tâm bi, chúng ta cảm thấy rung động trắc ẩn trước cái khổ của nạn nhân đó, nhưng lát nữa bước ra bên ngoài thì chúng ta không còn cảm giác đó, cái cảm giác trắc ẩn khi nghe người ta kể chuyện nó như vậy, rồi bây giờ có ai nói rằng mình hãy trở lại sống với cảm giác đó chúng ta cũng khó có cách mang trở lại, do đó tâm bi của chúng ta là một thứ phản ứng tình cảm, phản ứng cảm xúc có nghĩa là có chất xúc tác ở bên ngoài thì chúng ta sanh tâm bi mẫn nhưng chúng ta không thể tìm trở lại trạng thái đó, thể nhập vào trạng thái đó dễ dàng. Bốn đức "Từ Bi Hỉ Xả" chúng ta vừa đề cập đến, thì những thứ này không dễ dàng để cho chúng ta an trú bất cứ lúc nào và cũng không dễ dàng để chúng ta gìn giữ trạng thái này tiếp tục và tiếp tục tồn tại như ý chúng ta muốn. Do vậy đi vào thế giới của thiền là một thế giới của tập trú có khả năng định tâm, có khả năng an trú, có khả năng thể nhập vào một trạng thái. Có thể nói rằng ở trong đời sống kinh nghiệm qua việc chúng ta học ngôn ngữ, ban đầu chúng ta học thứ tiếng xa lạ, mỗi lần mình nói thì mình nói bập bẹ để vận dụng trí nhớ của mình, khả năng dịch thuật của mình, nhưng khi chúng ta nói quen rồi thì nó trở thành một phản ứng tự nhiên, nó đã ăn xâu, nó đã là một phần của chúng ta, thì bốn trạng thái "Từ Bi Hỉ Xả" này có thể đạt đến chỗ đó, thì một ở trong những cách mà chúng ta biến mãn đó là chúng ta dùng giá trị về không gian. Giá trị không gian quan trọng đối với người tu tập tâm từ. Khi nói đến giá trị không gian thì chúng ta nói đến giá trị của phương hướng, tại sao vậy? tại vì những gì đem vào trong tâm tư của chúng ta liên quan đến cuộc đời, liên quan đến chúng sanh, thì nó lại liên quan đến tâm linh của chúng ta, nó liên quan đến thị giác từ chỗ chúng ta đứng chúng ta luôn luôn ngó về phía trước, và khi mà chúng ta ngó về phía trước thì cảm xúc của chúng ta nó phản ứng theo cách ở phía trước và do vậy thường chúng ta hay quên đi hay là không nghĩ tới cái gì nằm ở phía sau, cái gì không nằm ở trong tầm mắt của mình. TT Tuệ Siêu: Về vấn đề này thì theo chúng tôi nghĩ là chúng ta dùng cách nào cũng được không nhất thiết là phải hướng đông hướng tây hay hướng nam hướng bắc, bởi vì nếu chúng ta tu tập biến mãn từ tâm và chúng ta theo phương hướng như vậy có sự giới hạn hay nói một cách khác tức là chúng ta bị lệ thuộc vào những từ ngữ hay phương hướng, và chúng tôi nghĩ rằng trong kinh văn thì Đức Phật Ngài dùng từ đông tây nam bắc, nhưng điều đó là để cho chúng ta hiểu, nhưng khi một vị hành giả tu tập ngồi ở tư thế ngồi như thế nào thì bốn phía từ nơi thân của vị đó nó sẽ là bốn hướng, chúng tôi nghĩ là như vậy, bởi vì khi vị trí ngồi mà vị hành giả xay mặt về hướng bắc hay hướng tây nhưng hễ biến mãn tâm từ bắt đầu từ hướng đông thì như vậy nó có tánh cách bó buộc một chút, theo chúng tôi nghĩ rằng nếu khi chúng ta ngồi thiền chúng ta biến mãn tâm từ thì ở phía trước mặt của mình dài cho đến vô biên hướng phía trước đi tới chúng ta nên có từ tâm đối với phía trước tượng trưng như phía đông rồi ở phía sau lưng chúng ta, chúng ta liên tưởng đến những chúng sanh vô lượng, chúng ta tu tập từ tâm hay biến mãn từ tâm với những chúng sanh đó, thì chúng tôi nghĩ rằng khi chúng ta ngồi trong thế ngồi nào, chúng ta ngồi ở giữa như là một trung điểm và biến mãn cùng khắp ở trên ở dưới và trước sau bên phải bên trái thì như vậy tâm từ sẽ toả rộng và dễ cho chúng ta cảm nhận hơn. Vả chăng các từ đông tây nam bắc v.v...., điều này chỉ là một từ chế định để có sự quy định, chẳng hạn trong bài kinh Thi Ca La Việt khi đề cập đến phương đông để chỉ cho cha mẹ v.v... thì các phương hướng được định đặt như vậy chúng ta phải hiểu rằng đó là một sự ẩn dụ chớ không phải là cha mẹ được xem như phương đông, vì mặt trời mọc lên ánh sáng từ nơi đó xuất hiện cũng tượng trưng cho cha mẹ v.v... Thì khi chúng ta nói điều này thì chúng ta nên dùng lý trí để suy nghĩ theo kinh nghiệm tu tập của từng cá nhân, chứ ở đây chúng tôi không có một cơ sở nào để nói rõ về vấn đề đó, trong cơ sở chú giải chúng tôi cũng chưa tìm thấy, cho nên trong vấn đề này chỉ được xem như là ý kiến của cá nhân hay sự nhận xét một cảm tưởng cá nhân mà trình bày ý nghĩa này trong câu hỏi mà TT Giác Đẳng vừa nêu lên như vậy. Nói tóm lại theo chúng tôi thì nếu chúng ta đã quen rải từ tâm biến mãn từ tâm theo phương hướng đông tây nam bắc nếu đã quen như vậy thì chúng ta hãy tu tập như vậy, còn nếu chúng ta không quen như vậy thì chúng ta cứ rải từ tâm chúng sanh phía trước mặt, ở sau lưng, ở bên tay phải bên tay trái trên và dưới thì như vậy nó cũng ứng theo sáu hướng điều này không có gì sai trái hết cho nên chúng tôi có ý kiến để đóng góp câu hỏi là như vậy. TT Giác Đẳng: kính tri ân TT Tuệ Siêu, và bây giờ thì chúng ta tiếp theo bài học về chan hoà tâm "Từ Bi Hỉ Xả", ở đây chúng ta đang nói tâm từ tất cả phương hướng thì theo trong sớ giải chia làm hai giai đoạn, giai đoạn đầu tiên thì chỉ phát triển tâm từ thôi, thuần túy là tâm từ, sau khi đạt được định an chỉ tức là kiên cố định rồi thì từ định này vị này mới dùng tâm từ đó biến mãn câu hữu với tất cả các phương hướng. Chúng tôi kể qúi vị nghe một câu chuyện trong truyền thống của Phật Giáo Nam Tông và cũng có một phần của Phật Giáo Bắc Tông ảnh hưởng nền văn hoá Ấn Độ, thường thường những lời tác bạch hay những lời đảnh lễ thì được tái xác định lần thứ nhì lần thứ ba, ví dụ như chúng ta nói qui y Phật thì: "Con nguyện qui y Phật, con nguyện qui y Pháp, con nguyện qui y Tăng lần thứ nhất" rồi nói "Lần thứ hai con nguyện qui y Phật, lần thứ hai con nguyện qui y Pháp, lần thứ hai con nguyện qui y Tăng", rồi "Lần thứ ba con nguyện qui y Phật, lần thứ ba con nguyện qui y Pháp, lần thứ ba con nguyện qui y Tăng", lập lại ba lần để tâm của chúng ta minh định rõ, để tâm của chúng ta nói rằng mình không bị lẫn lộn, để tâm của chúng ta đoan chắc rằng đó là điều mà mình muốn mình mong, và mình thật sự tác ý như vậy, và do vậy trong kinh điển thường lập đi lập lại ba lần, ví dụ tụng "Namo Tassa" cũng ba lần hay qúi Phật tử xin thọ trì tam qui ngũ giới cũng ba lần. Chúng tôi nhớ hồi nhỏ chúng tôi về Mỹ Tho có quen với một vị Sư, Sư này thì cũng không dám bỏ phong tục đó nhưng hễ Sư làm việc gì đó thì không lập lại ba lần mà Sư cứ nói lần thứ nhì lần thứ ba là đủ, ví dụ như: "Con xin thành kính đảnh lễ Bảo Tháp ngọc Xá Lợi Đại Thọ Bồ Đề Kim Thân Phật đã thờ trong các mọi nơi" thì thay vì lập lại lần thứ nhì cũng vậy lần thứ ba cũng vậy thì Sư này nói lần thứ nhì và lần thứ ba, hay là Phật tử xin giới xin một lần rồi xong cũng lại lần thứ nhì lần thứ ba, lâu ngày các vị sa di trong chùa thường nhắc vị sư đó là thứ nhì thứ ba. Thì khi chúng ta niệm tâm từ chúng ta không làm như vậy, chúng ta không có làm gọi là làm cho có, Ngài Buddhaghosa Ngài đặc biệt nhấn mạnh là chúng ta không có để là "cũng vậy", mà chúng ta phải lập lại và lập lại một cách rất rõ ràng rất đầy đủ từng phương hướng. Thưa qúi vị điểm này không phải là điểm mang tánh cách nghi lễ là mệt mỏi hay là bổn phận mà căn bản là nếu chúng ta đã thật sự an trú vào một trạng thái cao thượng mà tâm tư mát mẻ như tâm tư của tâm từ chẳng hạn chúng ta cảm thấy an lạc thì đối với tất cả các phương hướng cũng giống nhau chứ không phải hướng này trọng còn hướng kia không trọng, đây là một cái gì tương đối hơi li chi mang tánh cách thể nhập. Trong phần đầu chúng ta nói về sự phát triển tâm từ, nhưng qua phần này chúng ta đặc biệt lưu ý đến cái gọi là đối tượng của tâm từ và ở đây trong đối tượng của tâm từ ở một mức độ nào đó thì người ta dùng những "Tướng", những tướng này có thể nói rằng nó vượt ngoài những khái niệm hàng ngày của chúng ta. Nếu qúi Phật tử đọc kinh Từ Bi thì Đức Phật Ngài dạy là chúng ta đem lòng từ trải rộng đến những chúng sinh ở xa hoặc ở gần, lớn nhỏ hoặc trung bình, đã sanh ra hay sắp sanh ra, thì khi mà chúng ta nói rằng ở xa ở gần lớn nhỏ trung bình dài ngắn thì thưa qúi vị nó cũng còn là chúng sanh nhưng cái dạng chúng sanh đó vượt khỏi nhiều khái niệm về đẹp, về xấu, về thân, về sơ, về người Miên, người Tàu, người Thái. Chúng ta có nhiều cách nhìn cuộc đời nhưng đến lúc nào đó thì cái "Tướng" trở nên rất đơn giản và do nó đơn giản nó bao trùm lấy nhiều người, ví dụ chúng ta niệm tâm từ đối với một người ở gần và ở xa, ở gần tức là những chúng sanh ở chung quanh mình, ở xa là những chúng sanh mà chúng ta có thể nghĩ đến nhưng xa lắm chúng ta không thấy được, không nghe được, hoặc lớn nhỏ hoặc trung bình, lớn như con voi con trâu con bò, trung bình giống như con người, nhỏ như là con kiến con sâu v.v... Cái nhìn của chúng ta như vậy đó, đại loại thì thưa qúi vị nói đến một trạng thái tương đối là thuần của tâm.
|
|