TT. Thích Giác Đẳng Giới Thiệu Bộ Thanh Tịnh Đạo -
Bài 3 (Xin lưu ư: những bài
chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để
tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa chữa. Và xin đề rơ
tên người chuyển biên) TT Giác Đẳng: Hôm nay chúng ta nói về một phần trong chương đầu của Thanh Tịnh đạo, tức là phần Giới tịnh. Ở đây định nghĩa Giới là gì? Thường thường có nhiều từ vựng Phật học đã trở thành quen thuộc, chúng ta không lưu ý lắm, mà chỉ hiểu một cách mang máng nghĩa là không đào sâu xác thực vào ý nghĩa thực sự trong kinh điển. Đôi khi nó đúng về phương diện này nhưng không đúng về phương diện khác. Thật ra không phải chỉ có đạo Phật mới nói đến giới luật mà nhiều tôn giáo khác. Trong bối cảnh tôn giáo xứ Ấn Độ thời Đức Phật ra đời, Giới có rất nhiều nghĩa. Đức Phật nói yếu tính của Giới hay nghĩa lý thật sự của Giới là chủ tâm từ bỏ, sự chủ tâm không làm cái gì đó. Nói đúng ra chúng ta xem Giới là một cái luật. Cốt tuỷ của Giới là tác ý, chủ tâm để chấp trì. Chúng tôi lấy ví dụ trong room chúng ta có mặt tại đây, khi vào trong room có một số luật nhất định, luật về phát biểu, luật về text chat, hay luật làm sao để trung thành với nội dung mà vị chủ room đưa ra chẳng hạn. Chúng ta phải nói rằng những nguyên tắc này đôi khi rất tối thiểu nhưng chính nguyên tắc này được mọi người thọ trì chúng ta mới có thể làm tốt được. Còn vào room ai muốn làm gì thì làm chúng ta không thể làm trong room được. Nó gíông như mình lái xe trên đường, tuy rằng những luật đều là do ước định hết, nghĩa là con người đặt ra cái luật đó. Nhưng chính nhờ luật đó tai nạn được giảm thiểu và chúng ta lái xe được vững lòng, ví dụ đoạn đường đó ai ưu tiên và ai không ưu tiên. Cái công bằng ở đây không phải là mọi người đều bình đẳng với nhau. Công bằng ở đây là nếu ai đi trên đường ưu tiên thì người đó được ưu tiên và ai đi trên đường không ưu tiên thì người đó phải nhường. Chúng ta gọi đó là luật dù trời mưa trời nắng, dù có cảnh sát hay không có cảnh sát. Như vậy mới an toàn và sự đi lại của chúng ta mới gọi là tạm ổn. Những người không theo luật này, thứ nhất người đó tự đẩy mình ra ngoài cuộc chơi, đẩy mình ra ngoài xã hội chúng ta gọi là sống ngoài vòng pháp luật. Hoặc giả chúng ta không có một thái độ cụ thể về sự sống, nên như thế nào không nên như thế nào. Có thể nói rằng Giới là một bước đầu, một người chưa có tu tập cao siêu như thiền định, một người chưa có trí giác như một người thành tựu về tuệ thì Giới là cái gì đầu tiên của Giáo pháp mình có thể nắm được. Nắm được ở đây không phải chuyện gì mình cũng có thể làm được hết. Có một số việc nhất định là mình không thể làm. Chúng tôi lấy ví dụ một người Phật tử giữ năm giới hay giữ bát quan trai giới, trong cuộc sống hằng ngày chúng ta có rất nhiều sinh hoạt, nào là đi chợ, xã giao, nói chuyện điện thoại v.v…Trong số những việc chúng ta làm hằng ngày có một số việc chúng ta nhất định không làm, không thể làm được. Ví dụ như chúng ta giữ giới không sát sanh, nếu mình giết con vật có thức tánh, và đối tượng đó là con vật có thức tánh, mình biết con vật có thức tánh , mình sẽ không làm tổn hại loài đó, mình sẽ không cướp đi mạng sống của loài đó. Chúng ta gọi đó là Giới. Giới này cụ thể hơn luân lý vì luân lý có tính rất mơ hồ. Ví dụ như nói anh em huynh đệ phải đùm bọc, phải thương với nhau. Điều đó như là một lời khuyên mang tính cách mơ hồ. Hỏi thương như thế nào là thương? Nhưng giới rất rõ ràng. Trong chữ Hán người ta dùng chữ Giới lễ tức là từ bỏ có nguyên tắc, có một cái gì rất cụ thể để mình nắm được. Lúc nhỏ chúng tôi đi vào trong chợ. Cái chợ là chỗ thập phương bá tánh đến, nghĩa là người tứ xứ đến chợ và trong chợ bày bán hàng hoá la liệt. Trong tuổi thơ chúng tôi nhớ rằng đó là một đám đông lớn vào buổi sáng, dần dà đi với mẹ ra chợ buôn bán chúng tôi thấy rằng trong chợ có cái luật nhất định. Chỗ đó là chỗ của mình, mình đóng tiền lệ phí hằng ngày thì mình được quyền ở chỗ đó. Nó phải có luật lệ nào cho phép mình đi trễ mình vẫn còn chỗ đó không ai chiếm dụng chỗ của mình được. Và trong chợ có một nguyên tắc của mua của bán, có những lịch sự. Dĩ nhiên có những người đi ra ngoài cái lịch sự đó nguyên tắc mua bán đó, có thể là họ ăn gian nói dối v.v…Nhưng căn bản vẫn có một số nguyên tắc nhất định trong sự trao đổi hàng hoá, như nguyên tắc về tiền bạc, nguyên tắc về cân, cân nặng cân nhẹ v.v… Tất cả những điều đó. Xã hội con người càng văn minh phải ghi nhận một điều là càng có thắc mắc. Người trung Hoa sớm nhận ra điều này gọi đó là chữ Lễ. Lễ -Nghĩa nhưng Lễ rất quan trọng , trong Lễ là một định đặc cho nguời ta thấy rằng cái gì nên làm cái gì không nên làm, cái gì hợp tình cái gì hợplý trong cách thờ vua, thờ cha thờ mẹ, trong cách đối xử với nhau đối với láng giềng, và thế nào là đạo của người quân tử. Nói chúng chữ Lễ trong văn hoá Trung Hoa rất quan trọng. Trong đạo Phật cái gọi là Giới cũng là một cách giúp cho hành giả nhận ra được mình có thể làm được cái gì đó với bản thân mình. Có nhiều người nói rằng, “Mình không thể ngồi thiền được, mình không thể đọc kinh được , mình không thể nghe pháp được”. Nhưng căn bản ai cũng có thể làm được một số việc như giữ ngũ giới, giữ bát quan trai giới. Chính sự giũ giới này cho mình thấy được mình có khả năng nói chuyện với chính mình. Bây giờ đối với chính bản thân chúng ta mà chúng ta không có khả năng nói rằng, “À, mình làm được hay không làm được, điều này mình không nói được”. Điều đó chứng tỏ rằng mình rất bất lựcvới chính mình. Một khi mình thấy được rằng có một số điều phải tuân thủ và cuộc sống nhất định phải sống trong khuôn khổ, trật tự như vậy, thời gian đầu cảm thấy rất khó chịu, dần dà trở thành một thói quen và lâu ngày người ta tìm được sự an lạc, một sự an lạc thật sự, không phải chỉ an lạc với chính mình mà còn an lạc ở chỗ mình sống chung với những người có giới. Trở lại nguyên tắc căn bản Giới Đức Phật gọi là Cetana'ham bhikkhave silam vadami Chúng ta đọc đoan kinh này, thấy được ý nghĩa của Ngài Buddhaghosa chú giải ở đây. Đây là đoạn số 17 trong chương nói về Giới tịnh. Patisambhidà nói: Giới là gì? Đó là các pháp khởi từ Tư tâm sở, chữ Tư cetana ở đây là chủ trương hay chủ tâm có nhiều chỗ dịch là tác ý là Tư. Hiện tượng một người từ bỏ sát sanh, tức là trong lòng một người sống từ bỏ sát sanh, từ bỏ trộm cắpv.v…Tác ý từ bỏ điều đó gọi là Giới. Khi một người thực hành viên mãn các học giới gọi là vatta. Patisambhida nói Giới là gì? Giới là Tư tâm sở, giới là các tâm sở thọ tưởng, hành chung là cetasika. Có Giới là sự chế ngự, có Giới là không vi phạm. Ở đây là một cách giải theo A-tỳ-Đàm. Tư tâm sở hay chủ tâm cũng là một trạng thái tạo nghiệp nhưng trong trường hợp này Tư tâm sở là một chủ tâm để giữ giới. Có Giới là sự chế ngự, có Giới là sự không vi phạm. Đó là chú giải của Patisambhida. Chế ngự không vi phạm ở đây là chủ tâm để gìn giữ để tự chế chính mình và không phạm vào điều đó. Ở đây giới theo Tư tâm sở là ý chí hay tác ý có mặt từ nơi người từ bỏ sát sanh. Thật ra chữ ý chí này dịch trong bản tiếng Anh gọi là Volition củan Ngài Nanamoli, Volition tức là một trạng thái khác của định nghĩa tâm sở tư. Chúng tôi nghĩ ý chí hơi khác chúng tôi dùng hằng ngày, chúng tôi hiểu là sự lập tâm, như từ bỏ sát sanh chẳng hạn. Hay người thực hành viên mãn các Giới, Giới trong thọ- tưởng- hành là sự kiêng cữ Giới từ nơi người từ bỏ sát sanh. Chúng ta nói đến những sở hữu tâm sở giới phần. Giới thọ tưởng hành tâm sở là ba pháp còn lại gồm vô tham- vô sân và chánh kiến. Như kinh nói, “ Vị ấy từ bỏ tham trú với tâm vô tham”. Chánh kiến ở đây thực ra được dùng để chỉ cho trí tuệ, vô tham- vô sân- và trí tuệ. Giới theo sự chế ngự là sự chế ngự theo năm cách Ở đây có nói về chữ chế ngự. Chế ngự có nghĩa là dùng ý chí, nghị lực của mình để phòng hộ, ngăn chận không cho mình làm. Cách sử dụng bốn vật dụng cũng được bao gồm trong sự chế ngự này. Nhưng chế ngự bằng kham nhẫn thì như kinh dạy: "Vị ấy là người kham nhẫn lạnh, nóng". (M. i, 10) Và chế ngự bằng tinh tấn là "Vị ấy không chấp nhận một ý tưởng thuộc tham dục khi nó khởi lên". (M. i, 11) ở đây, thanh tịnh sinh mạng được bao gồm.. Sự kham nhẫn đòi hỏi mình tuân thủ một số quy định nào đó và để tuân thủ điều đó bắt buộc phải trả giá đ06i khi rất chịu đựng. Như khi mình đói thay vì mình đòi hỏi thì mình nhịn, ai biết cho ăn không biết thì thôi không đòi hỏi. Cái đó cũng là sự giữ giới bằng kham nhẫn. Vậy sự chế ngự gồm năm phần ấy và sự kiêng giữ nơi những thiện nam, thiện nữ biết sợ điều ác mỗi khi gặp cơ hội vi phạm, đều gọi là Giới theo nghĩa chế ngự. Giới theo nghĩa không phạm là sự không vượt qua, bằng thân hoặc lời, các giới điều đã thọ. Nếu những điều gì mình đã thọ trì như ngũ giới bát quan trai giới, mình phát nguyện và mình không vượt qua , đó là mình có tôn trọng thì sự tôn trọng đó trở nên sự hành trì giới có giá trị trong chính chúng ta Đọc về đoạn này Giới là gì? Chúng ta thấy Đức Phật Ngài chú rất chú trọng về thái độ tâm lý, Ở đây không phải mình giữ giới để trả nợ quỷ thần mà mình giữ giới vì sự hiểu biết và do sự hiểu biết đó mình quyết định là cái gì nên làm hay cái gì không nên làm. Ngài cũng đi sâu vào chi tiết có một số người giữ giới do tri kiến , giữ giới do kham nhẫn, giữ giới do tinh tấn, giữ giới do chánh niệm tỉnh giácv.v…Nhưng cách nào cũng là giữ giới. Mỗi cách có tính chất khác nhau. Trong đề tài này Đức Phật Ngài dạy nhiều khía cạnh khác nhau của Giới và Ngài Buddhaghosa đã khéo lượm lặt và sắp đặt lại thành một chương mà trong đó Ngài nói về Giới. Giới là gì? Đặc tính của Giới, nhiệm vụ của Giới, lợi ích của giới, có mấy loại Giới, cái gì làm cho Giới ô nhiễm, cái gì làm cho Giới thanh tịnh. Chúng tôi nghĩ khó có tài liệu nào trong Tam Tạng hay cíu sớ giải mà đầy đủ hơn Ngài Buddhaghosa sắp xếp rất giáo khoa ở tại đây. Chúng tôi xin dứt lời tại đây
Download bai giang
|