TT.
Thích Giác Đẳng Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 2 - Vô Minh Duyên Cho Hành (Xin lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa chữa. Và xin đề rõ tên người chuyển biên Tại sao có những lúc chúng ta rất hăng hái nghe pháp cũng hăng hái, tu hành cũng hăng hái. Có những lúc chúng ta không muốn đi chùa không muốn cầm đến quyển kinh nữa. Tại sao có những lúc chúng ta rất dễ thương, có những lúc chúng ta rất dễ giận. Có những lúc con người chúng ta rất rộng rãi, rất độ lượng rất dễ tha thứ. Nhưng có những lúc chúng ta ai làm chuyện gì nhỏ cũng bực mình. Như vậy các nhà tâm lý học gọi là những xúc cảm, tức là những cảm xúc rất phức tạp trong tâm hồn mình. Chính địều đó đã là khó hiểu hà thứ là muôn vàn điều khác. Như vậy khi tìm hiểu về lý Thập Nhị Nhân Duyên chúng ta phải có một chút kiên nhẫn. Nó khác hơn Tứ Đế, vì Tứ Đế rất dễ nói. Đây là khổ, đây là nguyên nhân sanh khổ, đây là hạnh phúc, đây là con đường đưa đến hạnh phúc. Tương đối những ý nghĩa rất gần gũi với chúng ta. Nhưng khi nói tại sao "vô minh duyên cho hành", tại sao "hành duyên cho thức", tại sao "thức duyên cho danh sắc" và "danh sắc duyên cho lục nhập", ý niệm về thời gian và không gian hoàn toàn là cái gì rất khó hiểu. Lấy ví dụ như vầy, khi chúng ta nói "thức duyên cho danh sắc", chúng ta nói từ đời này qua đời kia, từ kiếp này qua kiếp kia, tức là hai kiếp. Nhưng khi nói xúc "duyên cho thọ", tức là thấy cảnh tự nhiên vui, thì đó là cái mảy may. Hoặc giả "sanh duyên cho lão tử", tức là từ lúc bắt đầu đời sống đến lúc chấm dứt đời sống. Như vậy chỉ với vấn đề thời gian thôi đã là khó hiểu rồi. Thế nào là vô minh duyên cho hành. Vô minh đã được định nghĩa trong kinh tạng nghĩa là không thấy không biết được sự khổ và nguyên nhân của nó, sự nguy hiểm của nó. Bởi vì không thấy không biết nên không ngừng hành động . Nghe nói như vậy chúng ta thấy rất lạ, rất lạ tại vì sao? Tại vì chúng ta nghĩ rằng cái gì trong đời sống mình làm là do chúng ta biết, chúng ta suy nghĩ. Do chúng ta suy nghĩ chúng ta mới hành động, nhưng thật ra chúng ta hành động bởi vì chúng ta không biết. Người ta nói một câu chuyện lạ chúng tôi đã từng lấy làm ví dụ. Ông bà chúng ta có câu nói ôm na là, “ Trăm người mua, vạn người bán”. Trên đời này lúc nào cũng có một số người nghỉ rằng, “Đây là thời gian tốt nhất để bán ra, đây là thời gian tốt nhất để mua vào”. Quý vị nào biết thị trường chứng khoán sẽ rõ. Có điều lạ lùng lúc nào cũng có người nghĩ rằng thời gian tốt để mua vì họ không mua thì không ai bán được, phải không?. Lúc nào cũng có một số người nghĩ rằng, “Đây là lúc để bán ra”. Như vậy có người mua mới có người bán và có người bán mới có người mua, nhưng tất cả đều là trò chơi mạo hiểm, vì không ai biết chắc nó sẽ ra sao hết. Nhưng nếu không có cái mạo hiểm đó. Quý vị biết rất rõ rằng ngày mai quý vị mua cổ phần đó, quý vị sẽ giàu to. Nếu ai cũng biết được thì thị trường chứng khoán sẽ đóng cửa vì không ai bán, không ai bán thì không có người mua. Như vậy thị trường chứng khoáng tồn tại ở đâu? Tồn tại ở chỗ cái không biết của người ta. Nếu có ngươi biết thì sao? Thì cuộc đời sẽ không hiện hữu nữa. Đức Phật nói rằng, “ Vô minh duyên cho hành”. Người Anh có câu nói rằng, “ If you don’t know anything, do nothing.” Nghĩa là nếu quý vị không biết phải làm cái gì thì đừng làm cái gì hết. Tại sao họ nói câu nói đó, tại vì chúng ta theo thói quen khi không biết phải làm gì, chúng ta làm nhiều thứ, chúng ta làm đủ thứ chuyện hết. Những lúc nào quý vị cảm thấy bối rối trong tâm hồn, chúng ta thắc mắc, chúng ta chạy ra chạy vô. Người khác họ nói rằng, “ Anh nói nhiều cũng vậy, anh lo nhiều cũng vậy, anh đi tới đi lui cũng vậy, anh lo cũng vậy, cũng chẳng giải quyết được vấn đề”. Nhưng chúng ta không chịu ngồi yên đâu. Chúng ta phải làm cái gì đó, tại vì sao? Tại vì chúng ta không biết phải làm cái gì. Ở hải ngoại chúng ta nói rất nhiều về tự do, nói rất nhiều về giải phóng đất nước, nói rất nhiều về đoàn kết. Chúng ta nói nhiều như vậy vì chúng ta không biết làm cái gì cả. Vâng, bởi vì chúng ta chưa biết phải làm cái gì nên chúng ta phải nói. Mới nghe nói có vẻ rất vô lý. Quý vị Phật tử nói rằng những chuyện bố thí trì giới tham thiền là đều do quý vị biết rằng, “ Nó có quả tốt”. Có quả lành thì chúng ta phải làm, nếu chúng ta biết mà chúng ta làm chí công để làm gì? Cũng gíông như quý vị nói rằng quý vị đang đi làm, là bởi vì quý vị nghĩ rằng quý vị đã có lựa chọn. Dĩ nhiên chúng ta là người trưởng thành hết. Những cặp vợ chồng thường đặt những câu hỏi như vầy, Ngày xưa khi Đức Bồ Tát là một vị vua. Một hôm Ngài đi ra khỏi bờ thành, trên đường Ngài nhìn thấy trên cây xoài có rất nhiều trái, gần đến độ chín. Một cây xoài tốt như vậy, tươi như vậy, ngon lành như vậy, nhưng Ngài chỉ nhìn rồi tiếp tục đi. Chiều hôm đó Ngài trở về Hoàng cung, khi đi ngang cây xoài, lúc bấy giờ Ngài nhìn thấy cây xoài đó xơ xác hết, không còn được nguyên trạng như lúc sáng. Lúc bấy giờ Ngài hiểu rằng có một nhóm người đi ngang đây nhìn thấy cây xoài và bởi vì cây xoài có trái ngon nên họ đã bẻ và phá hại cây xoài. Ý nghĩ khởi lên đầu óc của Ngài, Ngài nói rằng, “Ở đâu có danh và ở đó có lợi thì ở đó có lòng tham, ở đâu có mật ở đó có ruồi, ở đâu có lòng tham thì ở đó có phiền não, và ngươì nào có những thứ đó giống như cây xoài có trái vậy, sẽ gặp muôn vàn bất hạnh”. Ngài trở về và quyết định trở thành đạo sĩ. Cái nhìn vào Nhân- Quả là cái nhìn rất tế nhị. Khi chúng ta nói "vô minh duyên cho hành". Với cái nhìn bình thường của chúng ta cây xoài bị tơi tả là tại vì người ta làm cho nó tơi tả. Đó là cái nhìn của chúng ta. Nếu chúng ta là chủ cây xoài chúng ta sẽ bực mình và chửi mắng những người đó, “ Không biết ai đã phá cây xoài của mình” Nhưng với cái nhìn của một bậc thiện trí thức như Bồ Tát lại khác, “ Cây xoài sở dĩ nó bị tơi tả như vậy vì nó có trái xoài” Khác với chúng ta nhiều. Chúng ta không biết rằng trong đời sống của chúng ta có thể nhìn thấy được sự khác biệt đó hay không? Khi chúng ta đổ rằng cây xoài bị tơi tả bởi vì do có người hái phá nó, những người thiếu ý thức đã làm hại nó. Thay vì cây xoài này sở dĩ bị tơi tả như vậy do chính nó có trái xoài. Cũng như vậy, lúc nhỏ khi có ai nói chúng ta buồn lòng chúng ta thường nói, -Thế nào là con người nhìn ở ngoài, không nhìn ở trong?. Một người có gì buồn phiền thì một lúc có cả hai yếu tố, yếu tố bên ngoài yếu tố bên trong nữa. Ở bên ngoài người ta nói một câu nói mình buồn lòng. Nhưng cách nhìn của mình về câu nói đó có thể làm cho mình buồn lòng hoặc bình thản. Có yếu tố bên ngoài và yếu tố bên trong, chứ không đổ lỗi cho một yếu tố được. Chúng ta sống ở Việt Nam thường than thân trách phận là không có tự do. Nhưng khi chúng ta qua bên tây bên Mỹ có tự do, thì chúng ta có hết than trách không? Cũng còn chứ. Bởi vì sao? Vì cái khổ đau không những có bên ngoài mà còn có bên trong mình nữa. Đức Phật không phủ nhận những yếu tố bên ngoài. Ngài nói “có” Ngài nói rằng trời nóng trời lạnh bên ngoài làm cho mình khổ, mình có nhận điều đó. Ngài nói rằng người ta đối xử mình tệ bạc mình khổ, có nhận điều đó. Nhưng Ngài nói rằng đừng đổ hết lỗi vào chuyện đó. Bởi vì sao? Thí dụ như khi mình đi, mình lở đá vào cái ghế, mình có thể nói rằng ai để ghế bừa bải nhưng mình cũng có trách nhiệm chứ không thể đổ thừa cái ghế. Thấy yếu tố bên ngoài phải thấy cả yếu tố bên trong nữa. Nhưng chúng ta chỉ thấy một yếu tố, nên Đức Phật gọi là "vô minh." -Thấy yếu tố hiện tại phải thấy yếu tố quá khứ. Yếu tố hiện tại là gì? Có nhiều khi chúng ta gặp chuyện bất hạnh gì đó, nhưng tại sao nhiều người cũng gặp trong hoàn cảnh đó mà họ tránh được cái đó, chúng ta gặp trong hoàn cảnh đó lại không tránh được như họ. Không tránh được như vậy là bởi vì nó có liên quan đến quá khứ. Lấy ví dụ chúng ta sang Hoa-Kỳ, bên đây người da trắng kỳ thị chúng ta. Khi chúng ta bị kỳ thị, chúng ta chỉ nhìn một yếu tố thôi, những người có tâm hồn kỳ thị là những người xấu, do họ xấu họ mới đối xử chúng ta tệ như vậy. Tuy nhiên chúng ta cũng phải để ý đến những yếu tố khác, ví dụ như là do chúng ta không khéo cư xử, nên họ không có thiện cảm với mình. Do không có thiện cảm nên người ta kỳ thị. Cũng dễ hiểu thôi. Không phải gặp ai là người Việt Nam, ai là người Tàu, họ cũng ghét hết. Như là cái này chi phối cái kia, cái kia chi phối cái nọ. Hoặc giả chúng ta ngồi tại đây, tại ngôi chùa này, không phải vì nghe một thời pháp mà tất cả quý vị đều được an lạc, có nhiều người trong quá khứ họ đã từng bỏ công bỏ sức xây dựng ngôi chùa ngày hôm nay để chúng ta có nơi ngồi nghe pháp rất tiện nghi rất trang nghiêm như vầy. Những người đó họ cũng có đóng góp vào cái không khí hiện tại, nhưng có thể chúng ta không thấy. Hay ví dụ như chúng ta sang bên Mỹ, bên Pháp, sở thuế họ gọi chúng ta lên họ làm khó dễ. Chúng ta nói rằng, “ở Việt Nam như vậy mà sướng làm bao nhiêu bỏ túi bấy nhiêu. Qua bên này phải đóng thuế, có vụ này vụ nọ.” Chúng ta quên rằng lúc chúng ta lái xe trên xa lộ, đường ngon lành như vậy, ai bỏ tiền xây dựng đường xá cho chúng ta đi. Rồi có những dịch vụ này những dịch vụ khác, ai lấy tiền đâu lo cho chúng ta. Chúng ta chỉ nghĩ đến một chuyện thôi. Đức Phật nói, Cái vô minh tạo ra nhiều chuyện phiền phức. Phiền phức hơn chúng ta nghĩ nhiều lắm. -Cái vô minh là thấy được cái nhân mà không thấy cái quả, thấy cái quả không thấy được cái nhân. Quý vị có đọc bộ “ Bài học ngàn vàng”. Trong đó có một câu nói thôi ảnh hưởng đến đời sống của rất nhiều người, câu nói đó đã được cất vào trong một hộp rất trang trọng, câu nói đó đơn giản như vầy, “ Phàm khi làm chuyện gì hãy nghĩ đến hậu quả của nó”. Một câu nói đơn giản như vậy, ảnh hưởng đến nhiều người. Bởi vì khi chúng ta đang có cái ở đây chúng ta không hiểu được cái nhân của nó và khi chúng ta đang làm chuyện gì chúng ta không nghĩ đến cái quả của nó, nên hành động của chúng ta sai lạc. Chính vì không hiểu cái quá khứ cái hiện tại , không hiểu vị lai nên chúng ta hành động một cách sai lạc. Tại sao chúng tôi đưa ra nhiều thí dụ như vậy, những thí dụ đó cho chúng ta thấy một điều rằng, sự lãnh hội của chúng ta, đầu óc của chúng ta có thể đi sâu vào vấn đề, đi sâu đến mức nào thì nó thay đổi đời sống cuả chúng ta đến mức đó. Đức Phật xác nhận điều đó rất nhiều lần khi Ngài nói rằng, “Vô minh duyên cho hành”. Chúng ta làm rất nhiều công việc trong đời sống, chỉ đơn giản một điều là bởi vì chúng ta không biết phải làm gì, chúng ta không biết nhân và không biết quả của nó. Ngày nay tại các quốc gia chúng ta đang sống, chúng ta thường có cái nhìn rất lệch lạc là hễ người nào học xong Tú tài thì tương đôi có kiến thức đủ để sống, người nào đi vào đời có cái nghề trong tay là đủ để sống, người nào có thể tiếp xúc được với người này tiếp xúc với người kia có đủ kiến thức để sống. Kiến thức đó theo Đức Phật, chỉ là kiến thức thôi. Nhưng nếu là một người tu thiền, chúng ta ngồi suy niệm, thì có muôn ngàn kiến thức trong đời sống mà chúng ta chưa đạt đến mức mà Đức Phật ngài gọi là thấu triệt, thấu triệt là cái nhìn xuyên qua. Do không có cái nhìn xuyên qua nên chúng ta khổ, chúng ta rất khổ. Chúng tôi nhớ có một người Ba-Lan, anh bây giờ đang định cư tại Chicago, có viết về đời sống của anh, một công nhân trong một hãng tại Ba Lan. Anh là một người rất khéo tay, là một người có tay nghề cao. Anh nói rằng chức vụ và lương bổng của anh trong hãng không phải dựa theo cái tài, mà dựa theo lý lịch. Cha mẹ của mình có nằm trong Đảng Cộng Sản hay không? Mình có tham gia sinh hoạt Đảng hay không? Đó là yếu tố thứ nhất để được lương cao, yếu tố thứ hai là mình có chiều lòng những cấp trên hay không? Yêú tố thứ ba là mình có nhập cuộc với các người khác để làm việc gian trá, lấy của công hay thâm lạm công quỹ, mình có toa rập được với những người đó hay không? Nếu mình nhập bọn được, họ sẽ cho mình chức vụ quan trọng. Do vậy suốt cuộc đời làm công nhân anh có một điều mơ ước, “ Mơ ước một ngày nào đó anh được làm trong một hãng người ta biết được thực tài của anh, khi đó anh được đặt vào công việc tương ứng với khả năng của anh, như vậy anh có dịp phụng sự cho đất nước, cho dân tộc, cho xã hội”. Cuộc đời gần 20 năm làm việc tại Ba Lan, anh không có được cơ hội đó. May mắn về sau này anh được di dân sang Hoa- Kỳ, anh đã viết lại rất nhiều cảm giác của anh làm thế nào để trở thành một công nhân làm việc tương xứng với khả năng của mình, và niềm vui lớn lao của anh như thế nào. Khi đọc tập sách này chúng ta mới thấy một câu chuyện quan trọng, không phải ở đời sống của anh mà là ở đời sống của vợ anh. Khi vợ anh ở tại Ba- lan đã nói với anh như vầy, “Ước gì ngày nào đó, có một người hiểu được tài anh, trọng anh, cho anh một việc làm xứng đáng để gia đình mình được êm ấm” Điều đó cho chúng ta thấy những điểm như vầy, rất là khó khăn để chúng ta hiểu sự hiểu biết ảnh hưởng đời sống mình ra sao. Nếu chúng ta hiểu biết nhiều hơn, những hiểu biết trong đạo Phật hay hiểu biết về Phật-Pháp thì có thay đổi được. Chúng ta biết bằng lòng với hiện tại, chúng ta sẽ giảm bớt những cái mà Đức Phật gọi là phóng dật. Phóng dật có nghĩa là chúng ta không được an trụ một chỗ. Phóng dật có nghĩa là chúng ta chạy theo cảnh này chạy theo cảnh kia. Có một chữ rất khó dịch, trong kinh tạng rất khó nói là diễn tả một tình trạng mà chúng tôi vừa nói với quý vị là phóng dật, tình trạng mà chúng ta không bao giờ ngồi yên được. Chúng ta hãy nhìn những đứa trẻ. Quý vị biểu những đứa trẻ ngồi ngay ngắn để học, một cách an lạc thì nó không làm được. Nó buông cái này chụp cái kia, buông cái kia chụp cái nọ. Khi nhìn thấy như vậy chúng ta cứ tưởng là những đứa trẻ rất vui, nhưng thật sự nó không phải như vậy. Nó dễ chán chứ không phải rất vui. Tại vì nó vui thì khi có đồ chơi nó sẽ chơi món đồ ấy hoài. Nhưng vì nó mau chán nên chơi một lúc rồi nó không biết phải làm cái gì nữa với món đồ chơi đó, chơi một chiếc xe cứ đẩy tới đẩy lui như vậy, nên đòi cha đòi mẹ mua thứ khác cho nó. Trong lúc chúng ta lớn rồi, có nhiều người có đời sống tinh thần sung mãn, họ chỉ cần trồng một cái cây thôi, nhưng họ vui thích với cái cây đó. Họ không cần trong nhà phải mua hết món này đến món kia. Quý vị để ý tất cả những đứa nhỏ, không đứa nào quý vị mua cho nó một chiếc xe hay một con búp bê mà nó chơi hoài Điều đó không có nghĩa là nó yêu đời mà nó dễ chán đời. Dễ chán đời là nó không thoả mãn được chuyện đó. Đức Phật, Ngài dạy rằng, “Đời sống của chúng ta từ nội tâm của mình không thoả mãn được, từ nội tâm của mình rất dễ chán” Do vậy chúng ta tiếp tục tầm cầu và tiếp tục hành động. Tiếp tục đi từ thế giới này sang thế giới khác, từ việc làm này sang việc làm khác. Hằng ngày nếu chúng ta ngồi chúng ta kiểm điểm lại một trăm công việc chúng ta tự làm ra. Chúng ta muốn làm, để làm gì? Để cho chúng ta có niềm vui nhỏ, để thoả mãn một điều gì đó, để tạo cho chúng ta một sự bằng lòng nào đó. Như trường hợp như vầy, khi nào quý vị hoan hỷ đi chùa nghe Pháp, hay lúc nào nói chuyện với người bạn tri kỷ, hoặc lúc nào trong gia đình có chuyện gì vui, quý vị không thích ra đường nhiều, không thích đi mua sắm nhiều, không thích đi lang thang nhiều. Vì sao? Vì ở nhà vui quá rồi không cần phải đi ra đường nữa. Quý vị đồng ý không? Hay lúc nào đời sống tinh thần chúng ta sung mãn rồi chúng ta không cần phải có thêm thứ này mua sắm thứ kia nữa. Tại sao bây giờ trong xã hội, chúng ta sống tại thành phố, chúng ta hay mua đồ đạc nhiều như vậy, tại vì nhà chật quá và ở nhà chỉ chừng đó công việc thôi, không có gì vui hết, con người phải đi tìm thứ này thứ khác. Cái mà đi tìm những thứ làm cho chúng ta hài lòng, những cảm giác hài lòng đó, nói lên một điều chúng ta rất thiếu thốn. Chúng ta không biết chúng ta phải làm điều gì. Bởi vì chúng ta thiếu thốn không biết mình phải làm gì nên chúng ta làm rất nhiều việc. Đó là ý nghĩa "vô minh duyên cho hành". Khi chúng ta không biết gì hết chúng ta làm rất nhiều. Những hành động của chúng ta đến từ cái không thấy và không biết. Chúng tôi biết điều này là điều rất khó hiểu, do vậy chúng tôi hơi dài dòng một chút. Tiếp theo chúng ta sẽ nói về chữ Hành. Chữ hành tương đối hơi khó hiểu trong từ ngữ Phật học. Ở đây có vị nào nghe chữ Các Hành chưa? “Các hành đều vô thường” Chữ hành đó được dùng rất rộng rãi trong kinh điển đăc biệt trong kinh tạng Pali, chữ hành có nghĩa là tạo tác. Có khi bị tạo hay được tạo cũng gọi là hành. -Ví dụ quý vị cầm một cuốn sách, cuốn sách này sỡ dĩ nó có như vậy là bởi vì có người dịch ra nó, có người bỏ tiền in ra nó, có người thợ in nó, và có người muốn có nó. Do nhiều yếu tố đó chúng ta có được cuốn sách này. Như vậy hành là yếu tố tập hợp bởi nhiều thứ tạo nên. Chữ Hành có nghĩa là tạo nên. Quý vị hỏi rằng nếu hành là thiện, hành là bất thiện thì cái hành nào là thiện và cái hành nào là bất thiện. Câu hỏi này mới nghe qua quý vị Phật tử nói rằng một câu hỏi rất dễ trả lời. Đối với trì giới là thiện, đối với sát sanh trộm cắp là bất thiện. Tuy nhiên đây chỉ là ý niệm rất phôi thai, Đức Phật Ngài dẫn dụ cho chúng ta hiểu thôi. Bởi vì trong đời có những chuyện chúng ta không biết đó là thiện hay bất thiện. Ví dụ một vị tổng thống, ông làm một quyết định cắt giảm chi tiêu của quốc gia để bớt thâm thủng ngân sách. Đó là điều đúng, nhưng vì để cắt giảm chi tiêu, ông phải bớt đi tiền trợ cấp cho một số người nghèo. Chúng ta không biết chuyện đó là thiện hay chuyện đó là bất thiện. Như trong gia đình,quý vị thấy một người nào khổ mình cho tiền. Ví dụ quý vị gửi tiền về Việt Nam nhiều quá, rồi ở Việt Nam họ đâm ra hư, chúng ta không biết chuyện đó là thiện hay bất thiện. Vấn đề nhức đầu ở đây là làm sao vẽ được lằn ranh giữa thiện và bất thiện. Thứ nhất chúng ta nhắc lại câu nói hồi nãy là tất cả những hành động thiện và bất thiện đều là do chúng ta không biết làm cái gì. Chúng ta phải nhìn nhận điều đó. Bởi vì chúng ta không biết phải làm gì nên chúng ta cố gắng để có một chút suy tư mặc dầu không chắc hẳn 100% nhưng tối thiểu chúng ta tin được là 70, 80% điều đó đúng. Mà chúng ta có thể đoán được là điều đó không đúng Mặc dầu đó chỉ là sự suy đoán thôi, mà chúng ta không đoan chắc như vậy. Chính sự suy đoán này dẫn chúng ta đến hành động. Từ chỗ phán đoán suy nghĩ này, chỗ lựa chọn đến chỗ hành động, đôi khi rất nhanh và đôi khi rất chậm. Nó chậm ví dụ như quý vị muốn nói câu gì đó cho anh A anh B biết, nhưng quý vị phân vân không biết nói ra anh đó có buồn hay không? Đó là sự lựa chọn rất chậm. Nhưng có những lựa chọn rất nhanh. Giả sử như có người nào đó mình không có cảm tình, họ làm chuyện gì đó mình nói đại một câu, ảnh buồn hay vui kệ ảnh. Chúng ta nói không cần suy nghĩ, chúng ta lựa chọn rất nhanh, nhanh đến nỗi cơ hồ hành động và lời nói ( lựa chọn và hành động )là một chứ không phải là hai. Thật ra nó có hai giai đoạn. Tại sao chúng tôi nói đến hai giai đoạn này là bởi vì sự lựa chọn đó gọi là tác ý. Cái tác ý rất quan trọng. Tác ý có khi nó nhanh có khi nó chậm. Nhiều khi nó mất ba hay bốn ngày để chúng ta quyết định một chuyện gì đó và nhiều khi nó chỉ là một mảy may tích tắc chúng ta có thể lựa chọn được, cái tác ý là cái nguyên nhân sâu xa đó, tiếng Việt chúng ta có một từ tương đối dễ hiểu nhất là chủ tâm. Chủ tâm tức là chủ trương làm một việc gì đó, chủ trương nghe rất lớn chủ trương phải có chính sách mới là chủ trương. Chủ tâm là chủ ý chúng ta muốn làm cái gì đó, chính chủ tâm dẫn đến hành động. Chủ tâm là cái mà Đức Phật gọi là nghiệp. Cái gì chúng ta dựa trên chủ tâm đó. Có hai yếu tố chúng ta dẫn đến chủ tâm. Sự phán đoán dựa trên trí tuệ của chúng ta, nó khác với phản ứng tự nhiên. Ví dụ chúng ta chọi trái banh vô tường, dầu chúng ta có ra lệnh cho nó là dội ra ít hay dội ra nhiều, đó là chuyện chúng ta ra lệnh, thì độ mạnh chúng ta ném vào sẽ tạo ra phản ứng, đó là phản ứng tự nhiên thôi. Ngài Ajanh Chah nói rằng cây mà ta gieo xuống, chúng ta vun phân tưới nước thì tự nó sẽ ra hoa ra trái, dầu chúng ta muốn thế này cũng không được, muốn thế kia cũng không được, tự nó nó sẽ có phản ứng. Chúng tôi đưa vấn đề đi vào chi tiết làm quý vị hơi khó xử một chút vì đây là mấu chốt, cái mà chúng ta gọi là hành hay cái mà chúng ta gọi là nghiệp. Người ta hay cãi với nhau về một điểm, cái gì có sự tác ý tức là chủ tâm và có những cái có tác ý thì có quả. Có nhiều người nói rằng, sự vô ý sẽ có quả nặng hơn như trường hợp nói theo lý thông thường chúng ta biết rằng sát sanh là xấu mà chúng ta vẫn sát sanh như vậy tội nặng hơn mình không biết. Quý vị có nghe người ta nói như vậy không? Trường hợp quý vị sống ở đây quý vị phạm luật mà quý vị không biết, người ta nói rằng nhẹ tội hơn. Nhưng có người khác nói như vầy, họ nói rằng khi quý vị thò tay vào trong lửa, nếu quý vị không biết lửa là nóng thì có khi mang hậu quả nặng hơn quý vị biết, bởi vì biết quý vị thò tay vào lửa là rút ra liền. Như vậy quý vị nghĩ, “có tác ý và không tác ý cái nào quả nặng và cái nào quả nhẹ?. Cái tác ý khi quý vị thò tay vào trong lửa, phỏng rất nặng vì mình không biết lửa nóng thì vô ý đó là vô ý của vô minh. Vô minh là cái mà mình không biết. Nhưng khi mình nói một lời nói mà người khác họ vô tình họ buồn, đó là không tác ý, là không tác ý của hành. Cái không biết của vô minh nó đưa chúng ta đến khổ rất nặng nề, cái nghiệp rất nặng. Cái không có tác ý của hành thì nghiệp nó nhẹ. Chúng tôi dành một chút thời gian để nói đến nghiệp, vì hành ở đây chính là nghiệp. Nói về cái vi tế thì có đôi khi chúng ta có suy nghĩ và suy nghĩ rất lâu, đôi khi chúng ta suy nghĩ nhanh suy nghĩ nhanh lắm. Như trên quyển sách chúng tôi cầm trên tay đây có ba chữ “VÒNG LUÂN HỒI”. Nếu con em mình hoặc mình mới học tiếng Việt thôi, muốn đọc ba chữ “VÒNG LUÂN HỒI” thì phải ráp vần, chữ Vchữ O chữ N và chữ G, phải ráp từng chữ từng chữ.Còn đối với chúng ta, chúng ta nói “VÒNG LUÂN HỒI” rất nhanh. Nhưng không có nghĩa là vì vậy mà chúng ta bỏ qua chữ. Nếu không có chữ N và chữ G thì chúng ta đọc nó là chữ VÒ chứ không phải chữ VÒNG. Trong bài học hôm nay chúng tôi trình bày vô minh duyên cho hành. Khi nói đến hành chúng ta cố gắng phân biệt hai điều. Bởi vì hành là chủ trương hay chủ tâm hành động và chúng ta có nói về sự chủ quan dựa trên sự không biết tức là sự chủ tâm dựa trên vô minh. Vì không biết không thấy nên chúng ta hành động. Đó là vô minh duyên cho hành. Băng giảng đến đây là hết.
|