Trang web Chùa Bửu Đức Trang Chính


Pháp Thoại

Tỳ kheo Giác Chánh

Phật lịch 2544, Tl 2000


[01]
THẤT GIÁC CHI

Bài giảng số 1ê

 

Sư Trưởng thuyết giảng tại Thiền viện Vạn Hạnh Saigon.

Chánh Hạnh chuyển biên

 

Kính thưa quý vị, buổi giảng hôm nay chúng tôi vẫn tiếp tục giảng về bài kinh Đại tứ niệm xứ. Kỳ trước chúng tôi đã giảng tuần tự thứ lớp từ thân quán niệm xứ, thọ quán niệm xứ, tâm quán niệm xứ và pháp quán niệm xứ. Trong phần pháp quán niệm xứ tôi đã giải thích tuần tự ngũ triền cái, ngũ uẩn v.v…Hôm nay sẽ giảng đến phần Thất giác chi. Trong phần thất giác chi này có thể sẽ giảng nhiều bài kế tiếp nhau. Dù thất giác chi là một trong những phần pháp quán niệm xứ nhưng có tầm quan trọng và tôi sẽ phân tích thất giác chi từng chi tiết và như một ngã ba đường (đạo lộ có ngã rẽ) và cũng so sánh vai trò, chức năng của các thất giác chi này trong thứ lớp tuần tự ba mươi bảy pháp trợ đạo với bảy pháp thanh tịnh. Điểm quan trọng là chúng ta khi hiểu về thất giác chi tượng tợ với pháp thanh tịnh nào trong bảy pháp thanh tịnh đó. Từ đó chúng ta nắm được mấu chốt không còn phân vân giữa bảy pháp thanh tịnh có sự sai khác với tam thập thất phẩm trợ đạo hay không? Và nếu không sai khác thì giống nhau ở điểm nào?

 

Nếu nói vế bảy pháp thanh tịnh trong bộ Visuddhimagga ( Thanh tịnh đạo). Ngài Buddhaghosa đã giảng rộng rãi và cũng căn cứ vào bài kinh Bảy trạm xe của Ngài Xá-Lợi-Phất trong thời đức Phật còn tại thế và được Ngài Buddhaghosa chú giải sâu rộng thêm chi tiết. Như vậy chúng ta thấy sự phân định chi li giải thích bảy pháp thanh tịnh này vẫn là giáo lý nguyên thuỷ của đạo Phật. Mặc dù được khởi điểm nhất là Ngài Xá-Lợi-Phất thưở xưa đã trình bày, sau này như Ngài Buddhaghosa giải thích, còn căn bản thứ lớp ba mươi bảy phẩm trợ đạo như chnàh thức chính từ Đức Phật thuyết giảng. Bảy pháp thanh tịnh kia cũng được Đức Phật xác chứng và một vài trường hợp cũng có đề cập đến.

 

Bảy pháp thanh tịnh như: giới tịnh, tâm tịnh, kiến tịnh, nghi tịnh, đạo phi đạo tri kiến tịnh, tiến hành tri kiến thanh tịnh, phản khán tịnh giống như là việc đã rồi phận sự phải làm đã làm xong, chỉ cần quan sát lai những phiền não nào được sát trừ không được sát trừ nên đôi lúc pháp thanh tịnh thứ bảy này không cần nói đến. Xem như là một quá trình tu tập đã xong. Phần này có hay không có cũng không sao. Còn sáu pháp thanh tịnh trước nhất định phải tiến hành. Mỗi hành giả nhất định phải qua.

 

Giữa bảy pháp thanh tịnh này chúng ta sẽ bắt gặp có nhiều quan điểm trùng hợp và không có gì tương phản với nhau. Chỗ hội ngộ này như là con đường có hai lối rẽ. Danh từ Maggàmagga- Nanadasana-Visuddhi  (Đạo phi đạo tri kiến tịnh) tức là một con đường đúng với chánh đạothẳng tiến đến niết bàn là magga hay đạo. Còn một lối rẽ khác là amagga, là phi đạo, là không đi đến đạo quả Niết bàn. Ghép lại bởi hai con đường mới có danh từ  Maggàmagga- Nanadasana-Visuddhi là Đạo phi đạo tri kiến tịnh.

 

So sánh giữa đạo phi đạo tri kiến tịnh của pháp thanh tịnh thứ năm trong bảy pháp thanh tịnh của bộ Visuddhimagga với thất giác chi trong tiến trình gọi là Bodhipakkhikadharma  thất phẩm trợ đạo. Thất phẩm trợ đạo này thứ tự như tứ niệm xứ , tứ chánh cần, tứ như ý túc, ngũ căn, ngũ lực, thất giác chi. Chính thất giác chi là cửa đi vào đạo quả Niết bàn, là quan điểm hội tụ giữa thất giác chi và đạo phi đạo tri kiến tịnh. Do đó tới đoạn này tôi phải giải thích kỹ lưỡng và có thể phải giảng nhiều thời phápliên tục. Có như vậy quý vị mới có thể lãnh hội được nhiều khía cạnh, nhiều mặt của con đường giác ngộ giải thoát.

 

Tiếp tục bài kinh Đại tứ niệm xứ, xin lược kể lại đoạn kinh đó. Đức Phật có nói như sau: “Thế nào là vị Tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với thất giác chi. Này các tỷ kheo, ở đây vị tỷ kheo quán pháp trên các pháp đối với bảy giác chi, đó là khi nội tâm có niệm giác chi sanh khởi vị ấy biết rõ hay là nội tâm không có niệm giác chi vị ấy biết rõ. Với niệm giác chi chưa sanh khởi nay được sanh khởi vị ấy biết rõ. Với niệm giác chi đã sanh khởi nay được tu tập như thật vị ấy biết rõ”. Đó là nói về niệm giác chi.

 

Cũng vậy đối với sáu giác chi còn lại là trạch pháp giác chi, cần giác chi, hỷ giác chi, tịnh giác chi, định giác chi và xả giác chi. Cũng vậy khi vị Tỷ kheo quán pháp trên các pháp với xả giác chi trong nội tâm có sanh khởi vị ấy biết rõ, hay trong nội tâm không có xả giác chi vị ấy biết rõ, với xả giác chi trước đây chưa sanh khởi nay sanh khởi vị ấy biết rõ, với xả giác chi đã sanh khởi nay được tu tập viên thành vị ấy biết rõ. Như vậy vị tỷ kheo sống quán pháp trên các pháp đối với bảy giác chi.

 

Trong đoạn Phật ngôn này chúng ta có thể phân tích và phải lưu ý điểm được Đức Phật nhấn mạnh từng giác chi một. Không nhất thiết hành giả lúc đắc chứng về các pháp này phải chứng đắc bảy pháp giác chi đầy đủ, nhưng cũng không thể thiếu. Nghĩa là vị hành giả đó có thể giác ngộ bằng một trong bảy giác chi mà thôi. Tức là sở trường, chuyên môn của vị đó là niệm giác chi, hay trạch pháp giác chi, hay tịnh giác chi, hay định giác chi, hay xả giác chi v.v… Đó là sở trường là chuyên môn là thường cận y duyên của vị đó. Nói như vậy không có nghĩa là chỉ có một giác chi còn những chi phần kia thiếu, không thế như vậy được. Vì rằng trong bảy giác chi đó chúng ta nếu phân theo pháp thể căn bản thì được biết như vầy. Niệm giác chi tức là tâm sở niệm, trạch pháp giác chi tức là tâm sở trí tuệ, cần giác chi tức là tâm sở cần, hỷ giác chi tức là tâm sở hỷ, tịnh giác chi tức là tâm sở tịnh thân tịnh tâm, định giác chi tức là tâm sở nhiếp hành (Ekaggatàcetasika), cũng được dịch là tâm sở định, xả giác chi tức là tâm sở hành xả. Như vậy bảy giác chi nàylà bảy tâm sở trong số 52 tâm sở.

 

Đối với vị hành đạo, trước khi đắc đạo, trong khi đắc đạo, cũng như sau khi đắc đạo những tâm được kể đến không thể thiếu những tâm sở này. Vì trong tiến trình đắc đạo đó, lộ trình tâm (cittavìthi) được diễn tiến thứ lớp,  Parikamma (chuẩn bị), Upacàra (cận hành), Anuloma (thuận thứ), Gotrabhù (chuyển tộc), Maggacitta (tâm đạo), sau tâm đạo là một hay hai sát-na tâm quả( Phalacitta ). Tâm đạo và tâm quả nhất định là tâm siêu thế rồi. Nhưng từ những sát-na tâm trước từ chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc, bốn sát-na tâm này đi đến đạo quả lại là tâm hợp thế thuộc về tâm thiện dục giới hiệp trí.

Tâm thiện dục giới có tám thứ tâm như:

Tâm thiện dục giới hiệp trí hữu trợ thọ hỷ.

Tâm thiện dụcgiới hiệp trí vô trợ thọ hỷ.

Cũng có hai thứ tâm thiện dục giới ly trí thọ hỷ hữu trợ và vô trợ. Như Hoà Thưọng dịch ở đây là có nhắc bảo hay không cần nhắc bảo.

Bốn tâm thiện dục giới thọ hỷ vì phân tích hữu trợ hay vô trợ, hợp trí hay ly trí thành bốn. Cũng vậy có bốn tâm thọ xả. Chỉ khác nhau bốn tâm thọ hỷ, bốn tâm thọ xả, nên thành tám tâm thiện dục giới.

 

Những tâm làm việc cận hành, cận thứ, chuyển tộc này, nhất định bốn tâm thiện hợp trí tức là hai tâm thiện hợp trí thọ hỷ hoặc hữu trợ hoặc vô trợ và hai tâm thiện hợp trí thọ xả hữu trợ hoặc vô trợ. Chứ không có tâm ly trí được . Như vậy về phương diện trí tuệ thì trong tám tâm thiện dục giới đó có bốn tâm hiệp trí tức là có trí tuệ, bốn tâm ly trí tức là bốn tâm không có trí tuệ. Trong  bốn tâm hợp trí có trí tuệ đó sẽ đóng vai trò một trong bốn tâm đó để làm việc cân hành, thuận thứ, chuyển tộc hay là gotrabhù, chứ không thể một loại tâm nào khác. Một trong bốn tâm đó, mỗi tâm đều có 36 tâm sở đồng sanh. 36 tâm sở đó tức là bảy tâm sở biến hành, sáu tâm sở biệt cảnh, trong số 25 tâm sở  tịnh hảo hay tịnh quang trừ ra bi, tuỳ hỷ. Bi, Tuỳ hỷ này là hai trong bốn vô lượng tâm lấy chúng sanh làm đối tượng, trong khi những tâm sắp đắc đạo hay những tâm đạo quả nhất định lấy Niết-bàn làm đối tượng. Do đó Bi, Tuỳ hỷ loại trừ ra, Thay vì có 38 tâm sở tịnh hảo gồm 13 tâm sở tợ tha , hợp với 25 tâm sở tịnh hảo là 38 tâm sở cùng phối hợp trong tâm thiện. Nhưng ở đây trừ bi và tuỳ hỷ còn lại 36 tâm sở. Tâm sở đối với tâm dù tâm hợp thế hay tâm siêu thế cũng có bốn pháp là tứ đồng là tâm sở đối với tâm đồng sanh với tâm đồng diệt với tâm, đồng nương một căn với tâm và đồng biết một cảnh với tâm. Chứ không thể tâm sở sanh trước hay sanh sau với tâm và y cứ vào định lý này, đưa đến kết luận là bảy tâm sở trong thất giác chi như đã nói là niệm giác chi tức là tâm sở niệm , trạch pháp giác chi tâm sở trí tuệ , cần giác chi là tâm sở cần, hỷ giác chi là tâm sở hỷ, định giác chi là tâm sở nhất hành, xả giác chi tâm sở hành xả. Bảy tâm sở này quyết định chắc chắn có mặt trong những tâm sắp đắc đạo là cận hành chuận bị thuận thứ chuyển tộc  rồi kế đến là tâm đạo tâm quả lại bớt thêm ba giới phần nữa đó là trên phương diện chuyên môn.

 

Điều này đối với quý vị có thể thất vọng vì nãy giờ quý vị nghe tôi trình bày có thể hơi khô khan khó hiểu nhất là quý vị nào chưa học Vi diệu pháp, a-tỳ-đàm ( Abhidhamma), nhưng tôi cần giải thích. Đó là lý do cơ bản dù vô tình hay cố ý để giới thiệu môn Abhidhamma cho quý vị tìm hiểu, nhưng vì giải thích lý do cơ bản đó có cơ sở đó nên dẫn đến, nếu không chúng ta chỉ nói tronglúc đắc đạo 37 pháp trợ đạo hay tam thập thất phẩm trợ đạo nhất định có mặt đồng thời không trước không sau. Giải thích như vậy. Đúng.  Không sai. Nhưng quý vị khó hiểu và không cơ sở nào, lý do nào mà dám tuyên bố như vậy nên phải giải thích tỉ mỉ có thứ lớp tuần tự như vậy mới đi đến kết luận rằng trong lúc sắp đắc đạo hay đang đắc đạo hay đã đắc đạo luôn luôn 37 pháp trợ đạo này nhất là thất giác chi có mặt đầy đủ. Nhưng không phải mỗi lúc hành giả đắc đạo quả trước khi đi vào bát chánh đạo đến điểm thất giác chi này vị đó bắt buộc phải đắc chứng đủ bảy giác chi. Một trong bảy giác chi này, quý vị chỉ chuyên môn một giác chi nào đó giống như sinh viên đại học tới lúc phân khoa được quyền chọn ngành nào môn nào, nhưng những môn khác cũng vẫn phải học phải biết. Nhưng thành tựu một chuyên môn nào đó. Cũng như vậy ở đây vị hành giả đến thất giác chi này, vị ấy có thể đắc được đạo quả do nhờ một trong bảy giác chi. Mặc dầu những giác chi kia vẫn là những tâm sở có mặt, nhất định phải có, nhưng không phải là phần chính, chi cần một chi nào đó thuần thục. Vả lại lúc đắc đạo quả trong giai đoạn thất giác chi này, hành giả khi đắc đạo quả, năm pháp ngũ căn ngũ lực phải quân bình với nhau không pháp nào mạnh hơn. Nếu ngũ căn ngũ lực bị chênh lệch sẽ không thành tựu đạo quả. Như tín căn quá mạnh, hay tấn căn quá mạnh, niệm căn quá mạnh, định căn quá mạnh, tuệ căn quá mạnh. Vì do quá mạnh mất đi sự quân bình, chênh lệch nên không thành tựu được. Có ví dụ giống như chiếc xe song mã, hai con ngựa phải song hành ngang nhau, đều đều nhau chứ nếu một con mạnh một con yếu. Con giỏi con dỡ con chạy trước con chạy sau thì nó không thể kéo được chiếc xe như thế nào thì ngũ căn ngũ lực phải đồng đếu nhau. Trong đó đương nhiên phải có tâm sở hành xả làm bổn phận điều hành các tâm sở đồng sanh phải bằng nhau, ngang nhau.

 

Điều này chúng ta có thể trích lấy một sự tích để chứng minh nếu ngũ căn ngũ lực có sự chênh lệch không thể thành tựu được đạo quả. Đó là câu chuyện của Ngài Đại Đức

A-Nan-Đa. Chắc đa số quý vị biết Ngài Đại đức A-Nan-Đa là thị giả của Đức phật. Ngài được chứng quả tu-đà-hườn, mới làm thị giả cho Đức Phật. Suốt 30 năm trời ròng rã đi theo hầu Phật, nghe kinh nghe pháp là bậc đa văn nhưng Ngài không thành tựu đạo quả cao hơn. Sau khi Đức Phật viên tịch ba tháng lúc Ngài Đại-Ca-Diếp kết tập tam tạng lần thứ nhất, Đại đức A-Nan-Đa mới chứng đắc đạo quả trong trường hợp rất đặc biệt là Ngài chứng đắc đạo quả ngoài bốn oai nghi. Không phải ở trong oai nghi đi, đứng, nằm hay ngồi.

 

 Trong kinh sách ghi chép rằng Ngài Đại-Ca-Diếp tuyển chọn 500 vị A-La-Hán thuộc lòng kinh điển tam tạng, có tứ tuệ phân tích, có thần thông. Có một quy định bắt buộc là kết tập bên trong một thạch động. Thạch động đó bên trong sâu  rộng nhưng bên ngoài đóng cửa đá lại, những vị nào có thần thông mới đi vào được bên trong thạch động, những vị nào không thành tựu đạo quả không có thần thông sẽ không vào được. Do đó khi ĐĐ A-Nan-Đa đến biết chư Tăng đang chờ đợi vì không thể thiếu Ngài, nếu thiếu Ngài sẽ không thể tiến hành kết tập tam tạng được. Chủ toạ là Ngài Ca-Diếp vị trả lời luật là Ngài Upali, trả lời về pháp tức là kinh và luận là Ngài Ananda. Các vị đang ở trong hang là Alahan còn Ngài chỉ mới chứng quả Tu-đà-hườn. Nên khi gõ cửa xin vào Ngài Ca-Diếp hỏi:

 “ Hiền giả làm xong phận sự chưa?” Tức là đã thành tựu Alahan chua?

Ngài Ananda trả lời rằng, “Chưa”.

 Ngài Ca-Diếp nói, “Nếu chưa làm xong , phải làm mới được vào”.

 

chư Tăng chờ đợi, Ngài Ananda về cố gắng hành đạo tức là Vipassana tức là thiền quán. Ngài tinh tấn đi kinh hành suốt ngày, nhưng không thành tựu. Bởi vì lúc bấy giờ Ngài quá trông mong, quá nhiệt tình, mong thành tựu để vào kết tập tam tạng không để chư Tăng chờ lâu. Do đó nên pháp ngũ căn ngũ lực này chênh lệch nhất là tinh tấn mạnh quá. Suốt ngày đó cho đến đêm Ngài cũng chưa thành tựu. Đến cuối canh giữa ( khoảng một hay hai giờ sáng) do quá mỏi mệt, Ngài cảm thấy cố gắng quá không thành tựu, với ý nghĩ nằm xuống ngủ một chút. Khi Ngài bắt đầu nghiêng mình xuống, đầu vừa đặt đến gối, lưng chưa ngã hẳn xuống giường, Ngài chứng quả Alahán. Nên Ngài chứng quả A-la-hán đặc biệt ngoài bốn oai nghi. Vì nằm chưa hẳn là nằm và ngồi chưa hẳn là ngồi, không phải là đi cũng không phải là đứng. Những gì mong mỏi đã thành tựu, Ngài liền dùng thần thông bay đến thạch động gõ cửa.

Ngài Ca-Diếp hỏi,

“ Ai đó”

“ Bạch Ngài, tôi Ananda”

 “ Hiền giả làm xong phận sự chưa?”

“ Bạch Ngài, đã xong”

“ Nếu xong thì cứ vào đâu cần phải gõ cửa”

 Lúc bấy giờ Ngài dùng thần thông đi vào trong thạch động, không cần phải mở cửa.

 

Đó là câu chuyện, bây giờ tôi xin giải thích cho quý vị. Trường hợp như Ngài Ananda lúc Ngài tinh tấn như vậy, có sự mong mỏi như vậy. Ngài đã là bậc hữu học nhưng lúc nôn nóng mong đợi như vậy vẫn trở ngại đạo quả như thường. Nhưng khi Ngài mỏi mệt muốn nghỉ, tinh tấn  nhiệt tình hạ xuống ngang bằng với ngũ lực là tín, tấn, niệm, định, tuệ. Đúng thời điểm năm pháp này quân bình nhau Ngài thành tựu đạo quả. Còn phương diện chuyên môn giải thích chi li đó lại là phương diện khác. Ở đây chỉ so sánh giải thích cho quý vị như vậy.

 

Như vậy trường hợp một trong  bảy giác chi này đối với vị chuyên môn thực tập như vậy. Đồng ý bảy tâm sở bảy giác chi có mặt nhưng không phải giống nhau. Mỗi vị có một sở trường. Trong bảy giác chi này được giải thích thêm nữa là đối với niệm giác chi có thể không hại lắm, không phân biệt vị nào cũng có thể hành được.

 

Nhưng sáu giác chi còn lại là Trạch pháp giác chi, Cần giác chi, Hỷ giác chi, thì đối với vị hành giả nào có sự lười biếng, giải đải hôn trầm, tâm lui thì cần ứng dụng một trong ba giác chi là trạch pháp giác chi , cần giác chi, hỷ giác chi để nâng cái tâm lên vì tâm bị yếu đuối bị trì trệ, phải nhờ một trong ba pháp này để nâng tâm lên cân bằng ngũ căn ngũ lực.

 

Còn đối với ba pháp giác chi còn lại là Tịnh giác chi, Định giác chi, Xả giác chi dành riêng cho những hành giả nào có tâm quá kích động, háo động, năng động, tinh tấn, nhiệt tình, phải dung một trong ba pháp giác chi Tịnh giác chi, Định giác chi, Xả giác chi để đè cái tâm xuống. Đè tâm xuống đến mức độ quân bình. Như vậy chúng ta thấy hành giả có hai thành phần một là năng động hai là thụ động. Thành phần năng động phải dùng ba pháp giác chi sau tịnh giác chi, định giác chi và xả giác chi. Thành phần thụ động phải dùng ba pháp giác chi trước trạch pháp giác chi, cần giác chi và hỷ giác chi. Còn đối với niệm giác chi thì dùng được cho cả hai năng động hay thụ động đều phù hợp cả. Đó là giải thích về bảy giác chi, kinh nghiệm các vị thiền sư hoặc thiền sinh cần nên biết đến.

 

Bây giờ tôi phân tích và so sánh cho quý vị được hiểu bảy giác chi này với đạo phi đạo tri kiến tịnh, mới thấy rõ ràng đạo lộ tiến hành như thế nào? Như đã nói bảy giác chi này là cửa ngỏ tiến hành đạo quả. Vì đạo quả đó, khi đắc đạo rồi, thật tình mà nói đắc đạo chỉ có một sát-na mà thôi, nhưng bước qua tuệ thứ sáu tiến hành thanh tịnh đạo thường cả chuẩn bị, cận hành, thuận thứ, chuyển tộc đến đạo quả là thanh tịnh thứ sáu. Còn ở đây là giữa ngã rẽ có thể xê xích trong đường tơ kẻ tóc. Nếu không khéo tiến hành đến đây có thể bị đình trệ, cái gọi là phi đạo đó là đạo lộ không hẳn là chánh đạo tức là không đưa vào chứng đắc đạo quả nhưng không phải con đường phi đạo này là ác pháp là bất thiện pháp đâu. Trong mười pháp gọi là phiền não quán là phiền não của thiền quán chỉ có pháp thứ mười là ái thương mới là bất thiện. Chín pháp phiền não quán còn lại là thiện pháp cả, đều là tốt đẹp là ấn chứng tu tập. Như lúc đó hành giả tiến hành đến thất giác chi này cũng gọi là đến pháp thanh tịnh thứ năm là đạo phi đạo tri kiến tịnh, có thể hành giả sẽ có một trong những ấn chứng này:

 

Hoặc tự nhiên hành giả thấy mình có hào quang sáng cả phòng. Hào quang có thật sự, ánh sáng thật sự chứ không phải là nhắm mắt tưởng tượng. Vì sự hiện hữu của hào quang trong cốc mình tự nhiên sáng hẳn lên. Con người mình phát ra ánh sáng. Vị này mới nghĩ rằng có thể mình là vị thánh nhân. Vì Đức Phật có hào quang, những vị thánh đệ tử đã thnhà tựu đạo quả có hào quang tức là ánh sáng. Do đó hôm nay trong người mình có ánh sáng phát ra như vậy, nghĩ là mình đã đắc đạo quả A-la-hán. Chính vì vậy vị ấy đi ra khỏi dòng, sai lạc đó là đạo phi đạo tri kiến tịnh.

 

 

Còn lúc trước quý vị thấy nhưng bây giờ thấy vui vẻ, trẻ trung hồn nhiên lúc nào cũng thấy nhẹ nhàng lâng lâng thoải mái cả ngày lẫn đêm đều thấy hạnh phúc. Nghĩ đến câu Phật ngôn Niết bàn là hạnh phúc tối thượng. Chắc mình đã đạt đạo quả Niết bàn thấy vui vẻ quá trước đây mình không được hạnh phúc như vậy, bây giờ thấy nhẹ nhàng quá hạnh phúc quá, vậy nhất định mình là một trong những vị A-la-Hán mới được pháp thuần tịnh thanh tịnh này. Đó cũng là một sự hiểu sai là pháp hỷ phát sanh.

Hào quang hay pháp hỷ này không phải ác pháp không phải bất thiện pháp. Những ấn chứng này thành tựu do tu tập mà ra, nhưng nó quá mạnh làm hành giả bị lạc nẻo tưởng đâu mình đã đạt đến đích nhưng thật sự thì chưa.

 

Hoặc là tâm hành giả tự nhiên yên tịnh một cách lạ lùng, giống như mặt nước ngoài đại dương bình thường có lúc sóng to gió lớn, có những cơn sóng to bằng cái nhà, nhận chìm được những ghe thuyền lớn. Thế mà hôm nay mặt nước bằng phẳng không một chút gió bên trên không một lượn sóng phía dưới. Mặt đại dương yên lặng như thế nào thì tâm hành giả bây giờ cũng như thế đó. Không tham không si không phiền, suốt ngày lẫn đêm ngồi yên tịnh. Nghĩ rằng có lẽ mình đã thành tựu đạo quả A-la-hán nên tất cả phiền não đều vắng mặt. Do vì tất cả những phiền não đó vắng mặt nên giờ này mình có tâm an tịnh như thế này, vị đó tưởng rằng mình là một trong những vị thánh nhất là A-la-hán.

 

 

Hoặc là có một số hành giả trước đây cũng hành đạo với đức tin thông thường, đôi lúc hoài nghi nhưng sau một thời gian nhập thất hành đạo. Rồi một lúc quý vị có niềm tin bất thối với Tam bảo, tin Phật, tin Pháp, tin Tăng, tin tất cả những giáo lý của Đức Phật một cách nhiệt tình không hề  một nghi ngờ một giáo pháp nào một giới học nào rồi tưởng lầm mình không là A-la-hán thì cũng là Tu-Đà-hườn mới có đắc tam quy , niềm tin tam bảo bất thối. Nhưng thật sự chỉ vì đức tin quá mạnh phát triển khiến cho các vị hiểu lầm là mình đắc đạo quả nên gọi là phi đạo.

 

 

Rồi hoặc hành giả trước đây có lúc hành đạo mỏi mệt lười biếng lui sụt, nhưng thời gian sau tự nhiên có lúc cảm thấy tinh tấn đi kinh hành suốt ngày đêm, không mỏi mệt. Ngồi thiền suốt ngày đêm không thấy mỏi mệt. Với sự tinh tấn nhiệt tình mãnh liệt vị này thấy mình trước đây sao có sự giải đãi lười biếng, tự nhiên hôm nay thấy không đi kinh hành không được, không ngồi thiền không được, mà luôn hăng hái bám sát đề mục, tinh tấn. Và những vị khác nhìn vị đó xem như là đổi tánh. Trước sự hiện diện tinh tấn thay đổi đột ngột trong tâm vị này tưởng mình đã là một trong những vị A-la-hán nên mới có sự tinh tấn như vậy. Nhưng thật sự tinh tấn quá mạnh chênh lệch với ngũ căn ngũ lực. Đó cũng là phiền não của Niết bàn.

 

Có những hành giả hành đạo một thời gian trí tuệ phát sanh, sáng suốt lạ lùng, cặp mắt người đó nhìn đến đâu cũng thấy rõ cũng phân tích được nhân quả. Những lời nói những ý nghĩ nào, có vẻ gần như thông suốt cả nhân lẫn quả. Nghĩ rằng chắc mình đã chứng đắc đạo quả, có tứ tuệ phân tích nên trí tuệ mình phát sanh, mà trước đây chưa có. Nhưng thật sự loại trí tuệ này chỉ là ấn chứng sắp đến đích chứ chưa phải là đến đích. Nếu nghĩ đã đến đích là bị sai lầm, vậy là phi đạo nghĩa là chẳng phải con đường.

 

Hoặc là có một số hành giả trước đây niệm có lúc nhớ lúc quên, nhưng bây giờ cái sati-samma sana, cái chánh niệm tỉnh giác hay là sự theo dõi quá mạnh. Vị này không quên niệm từ một chi tiết như trước đây đi kinh hành chân bước có lúc nhớ có lúc quên. Có khi đưa tay thọ một vật gì đó hay làm một việc gì đó quên niệm, nhưng bây giờ vị này nhất nhất mỗi việc làm đều có sự ghi nhớ rõ rệt. Chẳng những lúc đi kinh hành, những lúc ngồi thiền theo dõi hơi thở vào ra cho tới lúc vị ấy ăn cơm, uống nước, đại tiện, tiểu tiện, mọi chi li, đại oai ngh,i tiểu oai nghi vị ấy đều nắm bắt kịp thời. Nghĩ rằng mình đã thành tựu đạo quả vì vị A-la-hán không bao giờ thất niệm, vị A-la-hán thường niệm. Hôm nay mình có chánh niệm rỏ rệt tưởng là mình đắc đạo quả. Nhưng thật sự niệm căn niệm lực này được phát triển mạnh lấn át, các pháp kia chứ chưa là thành tựu đạo quả.

 

Hoặc là với một số hành giả trước đây hay cố chấp hoặc là hay vui hay buồn bất thường. Nhưng hành đạo một thời gian, hành tứ niệm xứ một thời gian bây giờ có trạng thái tâm không thương người thân, không ghét người thù, xả bỏ dễ dàng vì nghĩ những pháp đó đến rồi đi không gì phải vướng mắc nên vị ấy xả bỏ tất cả. Không phải cố tình xả bỏ mà trạng thái tâm xả bỏ tự nhiên, giống như nước làm hồ keo rả không có sự dính mắc nào cả, hay giống như lá môn lá sen lá , nước mưa nước ao hay bất cứ kỳ nước nào tạt vào đó không một giọt nào lưu lại.Vị này tưởng rằng mình có trạng thái vô tham, một trong ba nhân thiện là vô tham vô sân vô si. Vì rằng nếu chứng được ba trạng thái này thì đúng như là nước đổ lá môn, không còn dính mắc tâm xả hoàn toàn. Vị ấy nghĩ rằng có lẽ mình là bậc A-la-hán vì bậc A-la-hán có được cái hành xả thuần thục, nhưng thật sự chưa phải. Chỉ vì hành xả hay cái xả giác chi quá mạnh lấn lướt các pháp đồng sanh tức là những tâm sở đồng sanh chứ chưa phải chứng quả A-la-hán.

 

Hoặc là hành giả có một lúc hành đạo có tâm thương chúng sanh thương mọi loài mọi giới. Thương một cách nhiệt tình thương một cách thiết tha. Nhìn người nào cũng như thân bằng quyến thuộc. Ngày xưa mình chỉ thương con cháu, anh em, cha mẹ của mình hay vợ con của mình còn bây giờ người này gặp ai cũng thương cho tới những con vật nhỏ li ti như con kiến con trùng hay con ong cũng thương. Cho tới người này nhìn hạt sương mai còn đọng trên cành cây buổi sáng cũng không nở làm giọt nước tan bể đi, những bông hoa cây cỏ những mầm non cũng không nở làm gẫy. Thương mọi vật mọi loài, tình thương bác ái bao la vô luợng. Người này tưởng mình đã là một vị thánh nên có tình thương mọi giới mọi loài mọi vật. Nhưng tình thương này trở thành tham ái. Trong mười phiền não quán chỉ có ái thương này là bất thiện, còn chín pháp như đã kể trên là thiện pháp. Chính nó là thiện pháp nhưng vì nó quá mạnh

 “Trong mười, một mạnh quá cường

Trở thành phiền não của  đường quả nhân”

Tức là một trong mười pháp phiền não đó quá mạnh, lấn át các thiện pháp cùng sanh nên trở thành phiền não quán. Chính bản thân những pháp này không phải là ác pháp, không phải là bất thiện pháp.

 

 

Để cho quý vị hiểu rõ, có một câu chuyện thưở xưa. Có một vị trưởng lão, có những người đệ tử. Chính vị ấy cũng hành thiền, dạy những người đệ tử hành thiền. Có những người đệ tử chứng quả Tu-đà-hườn, Tu-đà-hàm, A-la-hán, còn riêng ngài chỉ thành tựu được Tu-đà-hườn mà thôi, nhưng ngài tưởng lầm mình đã chứng quả A-la-hán và tuyên bố với các đệ tử như vậy. Đây là trường hợp gọi là Tăng thượng mạn, chỉ vì hiểu lầm chứ không phải ngài cố tình khoe pháp cao nhân. Hiểu lầm mình là A-la-hán chứ chưa thật sự là A-la-hán. Một trong những người đệ tử của mình đã thành đạo A-la-hán, bấy giờ mới tìm hiểu xem thầy của mình có thật sự là vị A-la-hán chưa. Vì trong bậc thánh Tu-đà-hườn biết được tâm của Tư-đà-hườn chứ không thể biết lên tâm của Tư-đà-hàm. Bậc Tư-đà-hàm biếtđược tâm đạo của Tư-đà-hàm và Tu-đà-hườn chứ  không biết được tâm của A-na-hàm. Bậc A-na-hàm biết được tâm đạo của A-na-hàm, Tư-đà-hàm, Tu-đà-hườn chứ không thể biết được tâm đạo A-la-hán. Nhưng bậc A-la-hán biết được tâm đạo của A-la-hán, A-na-hàm. Tư-đà-hàm, Tu-đà-hườn.

 

 

Do đó tuy là thầy nhưng vị trưởng lão này không đo lường được mức tâm chứng đắc của đệ tử nhưng ngược lại người để tử chứng đắc qủa A-la-hán biết được mức tâm của thầy mình.Biết Thầy mình chỉ chứng quả Tu-đà-hườn thôi nhưng vì hiểu lầm nên thầy mình cứ nghĩ là vị A-la-hán.Để thức tỉnh cho thầy một hôm lúc thầy đi kinh hành cạnh tu viện. Vị này dung thần thông biến ra một con hổ, từ trong lùm cây nhảy ra vồ. Vị trưởng lão lúc thấy con hổ xuất hiện, ngài hoảng sợ nhảy lên cột nhà leo lên cao để thoát nạn. Ngay lúc đó vị đệ tử xuất hiện nói, “Bạch thầy như vậy thầy chưa thành tựu A-la-hán”. Chính vị thầy bây giờ mới phát hiện, vì nếu là vị A-la-hán thì không có sự kinh hãi khiếp đảm như vậy, nói như thế không phải là vị A-la-hán liều mạng trước tai nạn mà các vị ấy không trốn tránh đâu, không phải. Vị ấy có thể né tránh nếu có những tai nạn sắp đến, nhưng dầu các vị A-la-hán có né tránh hay không né tránh các tai nạn đó, nếu thấy nghiệp  mình phải trả thì đứng đó cho cọp ăn. Còn nếu thấy nghiệp mình không phải vậy chỉ  cần tránh sang một bên cọp không thể bắt được vị ấy đi chậm hay nhanh vẫn có chánh niệm. Đối với vị A-la-hán, dầu có bị chết hay bị tai nạn cũng như không, không có trạng thái run sợ luôn luôn có chánh niệm tỉnh giác. Như vậy vị này biết mình chưa phải là vị A-la-hán. Nhờ vậy vị này cố gắng hành đạo cuối cùng cũng thành tựu đạo quả. Câu chuyện kể trên đây để chúng ta phân biệt và thấy rõ với trường hợp vị chứng quả Tu-đà-hườn, vẫn còn trong tình trạng hiểu lầm như vậy.

 

Như đã so sánh đạo phi đạo tri kiến tịnh. Phi đạo kia là mười phiền não quán đã nói. Bên này đạo tức là con đường thẳng đến đạo quả Niết-bàn. Bây giở trở lại nói về phần thất giác chi. Thất giác chi là một trong bảy pháp hay bảy nguyên nhân để thành tựu qua tâm đạo tức là bát chánh đạo nhưng quý vị nên để ý điều này. Bát chánh đạo tuy rằng phân ra có chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh nghịệp, chánh mạng, chánh niệm, chánh định, chánh tinh tấn. Nhưng không phải bát chánh đạo này phải hành tuần tự như thất giác chi vì tâm đạo khi đắc chứng chỉ có một sát-na tâm đạo mà thôi. Nhưng trong sát-na tâm đạo đó hội đủ tất cả những pháp giác chi kể trên. Hay nói một cách khác khi tâm đạo phát sanh trừ ra năm tâm sở trong số 38 tâm sở . Bi, Tuỳ hỷ lấy chúng sanh làm đối tượng. Còn giới phần đó là đương nhiên có trong đó. Đối với vị hữu học cũng vậy vì chánh ngữ chánh nghiệp chánh mạng này phát sanh không phải giữ giới bình thường như chúng ta nhưng những tâm sở này phát sanh trong bát chánh đạo trong lúc đắc đạo đó. Từ đó về sau những phiền não này không sanh khởi nên gọi là sát trừ phiền não.

 

Quý vị đừng tưởng lầm tâm đạo sát trừ phiền não như mình giết một con vật. Có vị hiểu lầm nghĩ rằng nếu nói sát trừ phiền não phải có phiền não trước mặt gíông như mình đập lửa thì phải có lửa trước mặt, không phải như vậy. Không phải có sự hiện hữu của lửa mới đập được lửa mà ở đây giải thích cho một số hiểu như vậy tôi cho một thí dụ. Tâm đạo phát sanh sát trừ phiền não giống như là một người dùng chất nổ làm nhà máy phát điện nổ tung. Chỉ một tiếng nổ trong một giây nào thôi. Tất cả những bộ phận liên hệ đến  như 1000 quạt máy, 1000 TV, 1000 tủ lạnhv.v… đều bị tê liệt hết.  

Rồi có người hỏi,  “Nếu ông tuyên bố ông tiêu diệt được 1000 đèn, 1000 tủ lạnh v.v.. như vậy trong số đó có đèn có tủ lạnh của nhà tôi nhưng ông có thấy ngọn đèn, tủ  lạnh nhà tôi đặt ở chỗ nào hay không?”

“Tôi không thấy, tôi không biết nhà ông ở chỗ nào nhưng chắc chắn rằng tôi đã diệt được. Không tin ông về nhà mở lên coi đèn của ông, quạt của ông có chạy hay không? Mặc dú tôi không biết nhà ông ở đâu, đèn ông gắn chỗ nào nhưng vì có những sợi dây điện truyền đến từ nhà máy điện này. Nhưng nhà đèn đã bị phá huỹ bởi chất nổ nên tất cả những thiết bị bẳng điện cũng bị tiêu diệt theo” Cũng như vậy khi tâm đạo phát sanh lên những phiền não kia bị sát trừ nghĩa là sau này nó không còn sanh khởi chứ không phải đối diện lúc đó phải có mặt tham sân si rồi mới diệt trừ tham sân si giống  như mình đập lửa phải có mặt của lửa. Không phải như vậy, ý nghĩa sát trừ là như vậy.

 

Do đó mới có câu lập lại là với những niệm giác chi trong  nội tâm vị ấy có niệm giác chi vị ấy biết rõ. Hay trong nội tâm vị ấy không có niệm giác chi vị ấy biết rõ. Với niệm giác chi trước đây chưa sanh khởi nay sanh khởi vị ấy biết rõ. Với niệm giác chi đã sanh khởi nay được tu tập viên thành vị ấy biết rõ. Đó là vị ấy có chánh niệm tỉnh giác, theo dõi nội tâm của mình có niệm giác chi hay không có niệm giác chi. Bảy pháp giác chi này hay thất giác chi này có những lúc tôi sẽ trình bày trong những thời pháp kế. Tôi sẽ giải thích rõ ràng cho quý vị hoặc mỗi kỳ pháp như vậy hai hoặc ba pháp giác chi để quý vị tường tận thêm.

 

Hôm nay tôi chỉ giải thích ý nghĩa chung, sự so sánh giữa thanh tịnh đạo, thì đạo phi đạo tri kiến tinh này tương đương với thất giác chi trong bảy phẩm trợ đạo. Mười phiền não đó là phi đạo, còn đúng vào đạo chỉ một trong bảy giác chi này. Quý vị có thể tiến hành đến tịnh thứ sáu hay tiến hành đến bát chánh đạo, Trong bảy giác chi này một vị hành giả nào đó được phát triển chuyên môn chỉ một giác chi nào thôi như là niệm giác chi. Niệm giác chi tức là vị ấy tu tập nhuần nhuyễn luôn luôn niệm mạnh hơn, nhưng khi đến phi đạo đó niệm này vẫn giữ được trạng thái quân bình và giống như niệm giác chi là cơ bản là mấu chốt. Niệm giác chi là một trong19 tâm sở tịnh hảo biến hành, luôn luôn có mặt không thể thiếu được. Cái niệm giác chi không bị dư thừa, không đến nỗi bị quá tai hại như những chi kia mà có sự quân bình. Tuy nhiêu nếu nó quá mạnh cũng có thể bị trở ngại, nó phải được giữ ngang bằng với các chi khác.

 

 

 Niệm giác chi được căn bản cơ sở như vậy, buổi đầu tiên hành giả tu tập về tứ niệm xứ là niệm thân niệm thọ niệm tâm niệm pháp, hay nói từ ngữ khác là thân quán niệm xứ, thọ quán niệm xứ, tâm quán niệm xứ, pháp quán niệm xứ. Tuy rằng phân ra có bốn chi nhưng chỉ có một. Dù niệm thân niệm thọ niệm tâm niệm pháp cũng là niệm. Mà niệm cũng là tâm sở niệm, tâm sở niệm này phải được tu tập phát triển vì có cái sati chánh niệm này luôn luôn theo dõi, vì có luôn luôn theo dõi nên mới phát hiện được đối tượng, phát hiện những ấn chứng. Nên chúng tôi dung danh từ  sati samma sana, chánh niệm tỉnh giác nghĩa là theo dõi và phát hiện. Nhờ có theo dõi mới phát hiện được những gì mà trước đây không để ý đến. Danh từ giác ngộ đắc chứng trong Phật giáo tương tợ như những nhà khoa học. Nhà khoa học khám phá ra định luật khoa học nào đó như Newton tìm ra sức hấp lực của địa cầu v.v..  

 

Ở đây chúng tôi có thể giải thích cho quý vị rõ có một trường hợp chính vì niệm giác chi này xem như là giác chi cơ bản mà vị ấy thành tựu. Đó là câu chuyện của nàng Patacara. Về cuộc đời của bà Patacara đã là một thiên tình sử bi sử, được kinh sách chú giải ghi rằng, cùng một lúc tai nạn đã dồn dập đến cho bà, chồng bị rắn cắn chết, hai đứa con một đứa bị diều hâu tha một đứa chết chìm. Khi bà qua sông được thì hay tin cha mẹ gia đình bà bị giông to gió lớn làm chết cả nhà. Cha chết, mẹ chết, anh em chết, thân nhân quyến thuộc không còn ai. Từ đó bà điên loạn, bà vô tình đi đến chùa Kỳ Viên lúc Đức Phật đang thuyết pháp, với pháp chánh định và năng lực từ bi của Đức Phật, làm mát mẻ tâm hồn đang nóng bỏng của bà, sau đó bà tỉnh lại. Giông như người đang cơn sốt được chích mũi thuốc, hoặc uống một liều thuốc được hạ cơn sốt, tỉnh lại. Khi tỉnh lại nhìn thấy thân thể loã lồ, mắc cỡ hổ thẹn, những Phật tử ngồi nghe pháp cho bà những khăn choàng che thân. Bà ngồi nghe pháp, sai khi nghe pháp bà chứng quả Tu-đà-hườn, xin được phép xuất gia. Đức phật cho bà qua Ni viện của  di mẫu Gotami xuất gia. Khi trở thành vị tỷ kheo Ni bà tu hành tinh tấn, luôn luôn tu tập về niệm xứ, có chánh niệm rất kiên cố. Nhưng vẫn chưa thành tựu mục đích đạo quả A-la-hán. Một ngày kia như thường lệ vị tỷ kheo ni Patacara ra bờ sông làm công việc hằng ngày, bà vẫn có niệm trong làm việc. Hôm nay duyên lành đã đến, khi bà rửa chân, những giọt nước còn đọng trên chân của bà rơi xuống dòng sông rồi tan biến trong dòng sông. Nhờ có cái sati là cái niệm, bà theo dõi để ý từ những sự việc nhỏ như vậy, từ lúc chân đưa ra giot nước rơi xuống, hom nay bà phát sinh ra cái sampajanna là cái trí tuệ là cái tỉnh giác. Bà nhận thức được lý vô thường, dòng đời vô tận mỗi chúng sanh giống như là nước, từ sông dính vào chân, trở thành một giọt nước một cá thể, rồi từ bàn chân rơi ra nhập vào dòng nước như nhập vào đại thể. Rồi nước ấy vẫn trôi, trôi mãi không biết bao giờ nước quay trở lại. Thật sự nước không có cố hương nào cả, chỉ luân lưu từ nước bốc lên thành hơi, hơi kết thành mây, rồi mưa rớt xuống song. Sông trôi chảy luân lưu mất tích. Đó là đại ý của tôi trình bày cho quý vị. Chính ý niệm nhìn giọt nước nghĩ đến vô thường cái cội nguồn biến hoại như vậy bà chứng đắc đạo quả A-la-hán ngay tại bến nước. Nhờ có chánh niệm tỉnh giác tức là có niệm có tuệ, có theo dõi mà bà phát hiện được lý vô thường. Đại ý là như vậy.

 

 

Niệm giác chi ở đây đối với bà xem như là sở trường, đã đến lúc tuệ phát sanh bà nhìn dòng nước, nhận chân được sự vô thường. Điểm này quý vị nên lưu ý chỉ bất kỳ một trong bảy gíac chi  nếu quý vị tu tập viên thành rồi cũng đưa đến đạo quả. Quý vị nhân thức được ấn chứng nào tột cùng thành tựu viên mãn vẫn như là có đầy đủ. Không phải quý vị quán thấy rõ được vô thường khổ não vô ngã. Cũng như không cần phải có đủ thất giác chi, chỉ một trong bảy giác chi phù hợp thuần thục cũng đưa đến đạo quả. Và chỉ thấu triệt được một trong ba pháp ấn vô thường hoặc khổ não hoặc vô ngã vẫn đạt đến mục đích vì thấy một tức là ba, tuy ba nhưng có thể chỉ cần một. Thí dụ như ly nước này, quý vị nhìn thấy ống hút, nhìn thấy ly hay nhìn thấy nước hoặc nhìn thấy màu trắng hay màu đỏ, quý vị chỉ thấy một trong những khía cạnh đó cũng thấy được ly nước, bởi trong ly nước có những sắc thái này như thế nào thì đối với các pháp hữu vi luôn có tam tướng phổ thông là vô thường khổ vô ngã. Quý vị chuyên chú đắc chứng tức là tỏ ngộ được lý vô thường tức là có luôn khổ và vô ngã.  Hay thấu suốt lý khổ não thì cũng đắc chứng luôn vô thường vô ngã tương tợ như vậy. Chỉ cần một trong bảy giác chi này cũng có đủ các pháp kia. Nhưng pháp nào chuyên môn được kể pháp đó là tiêu chuẩn, một trong ba pháp ấn này pháp nào được lưu ý đến được phát triển kể pháp đó là ấn căn bản chứ không nhất định phải có đủ mà cũng không vì thế mà thiếu. Lý do là như vậy.

 

Hôm nay giảng bài nói về Thất giác chi, hơi dài dòng nhưng thiết nghĩ thà là như vậy cho quý vị có khái niệm hay tối thiểu quý vị cũng nhận được một khía cạnh nào đó. Tức là hiểu chiều sâu và chiều rông. Nếu hiểu chiều rộng, hiểu mặt bằng nhưng không hiểu được chiều sâu. Ngược lại nếu có chiều sâu nhưng không có chiều rộng cũng là một thiệt thòi. Dù quý vị là thính giả, là phật tử nghe pháp chưa hẳn là thiền sinh nhưng bổn phận những pháp sư trình bày phải đúng thứ lớp có nhân có quả không bỏ sót vấn đề. Nếu như có duyên biết đâu một trong những lời giảng hôm nay, một trong những câu Phật ngôn đó có thể hướng dẫn cần thiết cho quý vị lúc hành đạo ở một thời điểm nào đó. Chính vì chánh pháp có khả năng hướng htượng đưa đến sự giác ngộ giải thoát nên bậc đạo sư đã thuyết giảng và nếu như ai thực hành đúng theo tứ niệm xứ này chuyên cần thuần thục như vậy vị ấy có thề thành tựu một trong hai đạo quả, hoặc là A-la-hán hoặc là A-na-hàm. Nếu trong suốt bảy năm được thuần thục như vậy, hoặc không cần đến bảy năm có thể sáu năm, năm năm, bốn năm, ba năm, hai năm, hay một năm cũng có thể thành tựu một trong hai quả thánh đó. Cũng có thể với một số hành giả căn duyên đầy đủ không cần phải đến một năm chỉ có thể bảy tháng hay sáu tháng hay năm tháng bốn tháng ba tháng hai tháng, một tháng có thể thành tựu một trong hai quả A-na-hàm hay A-la-hán. Đối với một số hành giả, tuệ căn đầy đủ mẫn tiệp, vị ấy có thể thành tựu đạo quả không cần nhất thiết phải đến một tháng có thể trong bảy ngày sáu ngày năm ngày bốn ngày ba ngày hai ngày một ngày có thể thành tựu một trong hai thánh quả kể trên. Cũng có những bậc đại trí ba-la-mật đầy đủ có thể đắc chứng đạo quả ngay tại chỗ ngồi, trong lúc được nghe đức Thế tôn thuyết giảng hay trong lúc phát triển thiền quán. Tuỳ theo căn lành duyên của mỗi vị. nhưng lời  bảo đảm của bậc đạo sư chậm nhất cũng trong bảy năm. Chúng tôi nghĩ xứ tây phương người ta có thể bỏ ra 45 năm để nghiên cứu lịch sử nguồn gốc của một củ khoai tây, hay bỏ ra hằng chục năm để nghiên cứu một đề án nào đó. Chúng ta nếu muốn có thể bỏ phần cuộc đời còn lại để đi sâu vào một vấn đề phát triển thiền quán hay tứ niệm xứ đưa đến kết quả thành tựu tức là được giác ngộ giải thoát chấm dứt mọi phiền não khổ đau. Chỉ cần chúng  ta có nhiệt tình có sự ưa thích thật sự. Chúng ta chỉ vì muốn làm giàu muốn có nhiều tiền, chúng ta còn không nệ làm những việc buôn tảo bán tần, một nắng hai sương huống chi hành đạo để giác ngộ giải thoát chúng ta không chểnh mảng. Nếu chểnh mảng là chúng ta chưa ưa thích, chưa ưa thích thì đạo lộ còn xa, tuỳ mỗi chúng ta, Còn nếu chúng ta thiết tha thì có thể quăng bỏ mọi vấn đề để đi chuyên nhất vào đạo lộ này thì bậc đạo sư bảo đảm chậm nhất là bảy nămcó thể thành tựu thánh quả.

 

 Một đoạn khác Phật ngôn có câu, “Trên thế gian này nếu còn người thực hành đúng theo chánh đạo trên thế gian sẽ không vắng bóng a-la-hán.” Như vậy Phật giáo không chỉ năm ngàn năm hay mười ngàn năm chấm dứt mà chánh pháp này tồn tại vĩnh cửu trên cuộc đời nếu còn người thực hành đúng theo chánh pháp. Chánh đạo chánh pháp hay hình thức tôn giáo Phật giáo có tồn tại hay không tồn tại lâu dài đó là tuỳ theo nhiều mặt khác vì chánh pháp như thuốc để trị bệnh cứu giúp chúng sanh chứ không phải là ta là người phải làm cho giáo pháp hưng thạnh. Chính giáo pháp làm cho chúng ta được hưng thạnh. Người nào biết ứng dụng chánh pháp người đó sẽ thực hành đem lại lợi ích cho chính mình. Còn về hình thức tổ chức điều này tuỳ duyên, không quan trọng lắm. Nhưng nếu đắc được đạo quả giải thoát, đó mới là vần đề quan trọng cho cá nhân mỗi chúng ta.

 

Do đó bài pháp này chúng tôi nhấn mạnh về thất giác chi và những bài pháp kế tiếp tôi sẽ giảng sâu, rộng về thất giác chi để quý vị thấu đạt được và nếu có duyên tiến hành. Còn nếu không đủ căn duyên không đắc được đạo quả thì có câu an ủi.

“Sẵn cây đặng quả lúc trèo,

Không căn  thì cũng đặng gieo giống lành”

Nếu khi ba-la-mật trong quá khứ đầy đủ, mình có thể thâu đạt được đạo quả ngay trong kiếp hiện tại. Bằng không mình hành đạo để dành ba-la-mật cho những kiếp sau, tức là có cơ duyên về sau vì trong quá khứ không tu tập nên bây giờ mình không có hành trang này, nhưng khi bắt đầu đầu tư thiện nghiệp tức là đầu tư ba-la-mật thì những kiếp sau thực hành một cách  dễ dàng. Đó là những lời tóm tắt nôm na khích lệ cho quý vị phật tử nếu có cơ duyên thì tiến hành về tứ niệm xứ ngay tại Thiền viện Vạn hạnh hay một thiền viện nào đó như Thiền viện Phước Sơn. Mỗi tháng có một tuần lễ từ mồng 2 đến mồng 8 cho những hành giả tu tập tích cực dù chỉ một tuần lễ. Còn không tại đây mỗi sáng chủ nhật thực tập toạ thiền trong một giờ. Tối thiểu quý vị có thể nghe pháp tại đây hàng tuần, tôi vẫn luôn đảm trách phần thiền quán hay tứ niệm xứ để bồi dưỡng tư duy cho quý vị. Cũng như đáp ừng lời của Hoà Thượng viện trưởng muốn cho người Phật tử Việt-Nam phát triển về thiền, trong khi đó những xứ như Tây Tạngv.v… họ đã đặt nặng về thiền. Chúng ta viết sách về thiền, thuyết pháp về thiền, giảng đạo về thiền. Trên phương diện lý thuyết về thiền chúng ta không thua ai nhưng việc thực hành chúng ta không bằng ai. Niềm thiết tha của Hoà Thượng viện trưởng như vậy. Tôi cũng cùng quan điểm với Hoà Thượng và hứa với HT sẽ yểm trợ cho thiền viện Vạn Hạnh những bài pháp về tứ niệm xứ và nếu có cơ duyên sau này tuần tự hướng dẫn cho quý vị.

 

Buổi giảng hôm nay đến đây cũng vừa phải lẽ, tôi xin dứt lời tại đây.

 

 

 

 

 

 

 


| | trở về đầu trang | Trang Chính |

© 2006 BuuDuc.com. All Rights Reserved. Kỹ thuật trình bày nội dung: Minh Hạnh & Chánh Hạnh |