SỬ LIỆU VỀ XÁ-LỢI RĂNG PHẬT - (DĀṬHĀVAṂSA) Nguyên tác Pāli: Dhammakitti Rājaguru Thera Lời tiếng Việt: Tỳ khưu Indacanda (Trương Đ́nh Dũng) SRI JAYAWARDHANARAMAYA COLOMBO – 2005 MỤC LỤC ◄
► PHẦN GIỚI
THIỆU CHƯƠNG 1: Câu kệ 1-10: Nhân duyên của
việc thực hiện tác phẩm. Câu kệ 11- 22: Bồ Tát
Sumedha phát nguyện thành Phật. Câu kệ 23- 39: Bồ Tát
Siddhattha xuất gia và chứng đắc quả vị Phật. Câu kệ 40- 62: Thọ
hưởng lạc giải thoát và chuyển vận Pháp
Luân. CHƯƠNG 2: Câu kệ 1-9: Đức Phật
ngự đến đảo Laṅkā lần thứ nhất. Câu kệ 10-18: Đức
Phật ngự đến đảo Laṅkā lần
thứ nh́. Câu kệ 19-28: Đức
Phật ngự đến đảo Laṅkā lần
thứ ba. Câu kệ 29-38: Đức
Phật Niết Bàn. Câu kệ 39-49: Lễ hỏa
táng. Câu kệ 50-57: Phân phối
xá-lợi Phật. Xá-lợi răng bên trái được vị
trưởng lăo Khema trao cho đức vua Brahmadatta thành
Dantapura của xứ Kaliṅga (Ấn Độ). Câu kệ 58-72: Các triều
vua kế vị cho đến đức vua Guhasīva. Câu kệ 73-89: Sự chuyển
hóa đức tin của đức vua Guhasīva. Câu kệ 90-108: Đức
vua Guhasīva thuyết Pháp độ đức vua
Cittayāna. Câu kệ 109- 124: Xá-lợi
răng Phật thị hiện thần thông. CHƯƠNG 3: Câu kệ 1-8: Xá-lợi
răng Phật được đưa đến Pāṭaliputta. Câu kệ 9-25: Các đạo
sĩ lơa thể xúi giục đức vua Paṇḍu thử
thách xá-lợi. Câu kệ 26-53: Cháu cố của
nam cư sĩ Anāthapiṇḍika tán dương
đức Phật. Câu kệ 54-69: Xá-lợi thị
hiện thần thông. Câu kệ 70-97: Đức
vua Paṇḍu sanh khởi niềm tin. CHƯƠNG 4: Câu kệ 1-6: Xá-lợi
răng Phật được rước về lại
thành Dantapura. Câu kệ 7-13: Cuộc chiến
tranh đoạt xá-lợi răng Phật. Câu kệ 14-23: Đức
vua Guhasīva trao xá-lợi răng Phật cho con gái và
người rể để di chuyển đến xứ
Sīhaḷa. Câu kệ 24-27: Sự gặp
gỡ vị trưởng lăo. Câu kệ 28-38: Long
Vương Paṇḍubhāra đoạt lấy xá-lợi. Câu kệ 39-45: Lên thuyền
ra khơi. Câu kệ 46-53: Các loài rồng
giữ thuyền lại để cúng dường bảy
ngày đêm. Câu kệ 44-56: Cập bến
ở xứ Laṅkā nhờ công đức của vị
trưởng lăo. CHƯƠNG 5: Câu kệ 01-09: Xá-lợi
được rước vào tu viện Meghagiri. Câu kệ 10-22: Đức
vua và toàn thể dân chúng đón rước xá-lợi. Câu kệ 23-33: Sự diệu
kỳ của xá-lợi răng Phật. Câu kệ 34-63: Xá-lợi ngự
đến khu vực phía bắc thành Anurādhapura. Câu kệ 64-69: Lễ hội
hàng năm được quy định thành truyền thống. BÀI KỆ GIỚI THIỆU
TÁC GIẢ: Câu kệ 01-07: Bài kệ tự
thuật tiểu sử của tác giả. -ooOoo- PHẦN GIỚI THIỆU ◄ ► Tác phẩm Dāṭhāvaṃsa
cung cấp sử liệu về xá-lợi răng bên trái của
đức Phật. Xá-lợi răng này đă được
vị hiền triết Khema nhặt lấy tại lễ hỏa
táng nhục thân của đức Thế Tôn ở
Kusinārā rồi đă tặng cho đức vua
Brahmadatta ở thành Dantapura xứ Kaliṅga (Chương
II: câu kệ 52). Sau đó, xá-lợi răng này đă
được công chúa Hemamālā con vua Guhasīva và chồng
là hoàng tử Danta đưa đến ḥn đảo Laṅkā
vào năm thứ chín dưới triều đức vua
Kittisirimegha (308 sau công nguyên) và đă được đức
vua cùng dân chúng tiếp rước long trọng (V: 1). Sau
đó, xá-lợi đă ngự đến tu viện
Abhayuttara và được thờ phượng tại
đó (V: 67). Xá-lợi răng Phật
này là vật biểu tượng cho vương quyền và
là đối tượng chiêm bái linh thiêng nhất của
ḥn đảo Sri Lanka, hiện đang được thờ
phụng tại Daladā Māligawa (nghĩa là Điện
Thờ Xá Lợi Răng), ở Kandy. Lễ hội chiêm bái Xá-lợi Răng Phật
được tổ chức rầm rộ vào khoảng
tháng Bảy/Tám mỗi năm. Theo lời tự thuật
của tác giả ở phần đầu (I: 4-9), tác phẩm
này được ghi lại theo lời thỉnh cầu của
vị thống lănh quân đội tên Parakkama là người
đă ủng hộ Hoàng Hậu Līlāvatī lên ngôi trị
v́ xứ sở
vào năm 1211; do đó thời điểm thực
hiện tác phẩm này được ước định
vào giai đoạn trên. Dựa vào phần kết
thúc, được biết tác giả là vị trưởng
lăo Dhammakitti là giáo thọ sư của đức vua
(rājaguru) và là đệ tử của Ngài Sāritanuta (một
cách gọi khác của tên Sāriputta) danh tiếng ở vào
triều đại của vua Parakamabāhu I (1153-1186).
Đồng thời cũng được biết thêm về
các công tŕnh biên soạn khác của vị ấy gồm có: Sớ
Giải (Ṭīkā) Ratnamatipañcikā cho tập
văn phạm Saṅskrit nổi tiếng Candravyākaraṇa
của tác giả Candagomī, Sớ Giải Sāratthadīpanī
cho bản Chú Giải Luật Samantapāsādikā,
Sớ Giải Sāratthamañjusā cho bộ Chú Giải
của Kinh Tăng Chi, và tập sách tên là Vinayasaṅgaha. Về h́nh thức, tác phẩm
này được thực hiện dựa theo
lối trường thi (tương tợ như thể
Mahā Kāvya của ngôn ngữ Sanskrit) gồm có 415 câu kệ
(gāthā). Mỗi câu kệ được
ghi thành 2 ḍng và được chia làm 4 pāda; thông
thường mỗi câu kệ như vậy là một câu
văn hoàn chỉnh về phương diện văn phạm.
Về nội dung, tác phẩm
này có đề cập đến việc đức Phật
đă ngự đến ḥn đảo Laṅkā ba lần:
Lần thứ nhất vào tháng thứ chín tính từ lúc chứng
quả Toàn Giác, đức Phật đă ngự đến
Mahiyaṅgana để khuất phục các dạ-xoa (II:
1-9). Lần thứ nh́ vào ngày Uposatha thuộc hạ huyền
của tháng Citta (tương đương ngày 30 tháng Ba âm
lịch) vào năm thứ năm tính từ lúc chứng quả
Toàn Giác, Ngài đă ngự đến Nāgadīpa để
giải quyết sự tranh chấp giữa hai vị Long
Vương về ngôi bảo tọa bằng ngọc ma-ni
(II: 10-18). Lần thứ ba vào ngày Rằm tháng Vesākha
(tương đương rằm tháng Tư âm lịch) của
năm thứ tám tính từ lúc chứng quả Toàn Giác, Ngài
đă ngự đến Kalyāṇi (nay là Kelani Vihāra ở
thủ đô Colombo) theo lời mời của Long
Vương Maṇi-akkhika (II: 19-28). Thêm vào đó c̣n có những
câu chuyện kể sống động về sự huyền
diệu của xá-lợi Phật, cũng như niềm tin
và thái độ sùng kính của người dân trên đảo
đối với di sản quư báu này của đức Phật. Về phương thức
tŕnh bày, chúng tôi đă ghi lại các câu kệ thơ Pāli
bằng dạng chữ nghiêng xen kẽ với lời dịch
Việt theo lối văn xuôi bằng dạng chữ đứng;
mỗi câu kệ Pāli tương đương với
hai hoặc ba ḍng văn Việt được tŕnh bày thành
từng đoạn tách biệt. Đôi chỗ, hai câu kệ
hoặc nhiều hơn được dịch chung thành một đoạn dựa theo tính chất
hoàn chỉnh về văn phạm hoặc về ư nghĩa
của chúng. Các câu đối thoại khi được dịch
sang tiếng Việt được tŕnh bày bằng dạng
chữ nghiêng trong ngoặc kép. Chúng tôi tŕnh bày song ngữ
như vậy với các dụng ư sau: Giúp cho độc giả
người Việt có được văn bản Pāli
để tham khảo lúc cần thiết, đồng thời
cũng thuận tiện cho quư độc giả trong việc
kiểm tra lại chất lượng của lời dịch
Việt. Một điều cần lưu ư là trong văn bản
Pāli này, chúng tôi đă không tách rời các cụm từ
đă được liên kết lại theo
quy luật Sandhi nên có những ḍng chữ chiếm trọn
một hàng hoặc hơn. Về nguyên
tác Pāli, chúng tôi cũng xin ghi lại nguồn trích dẫn
đă được chúng tôi sử dụng để quư vị
tiện việc sao lục. 1/- The Dāṭhāvaṃsa
(in Devanāgarī characters). Ed. and trans.
Bimala Charan Law. Lahore: Motilal Banarsi Das, 1925. 2/- The Dāṭhāvaṃsa
from Sir Coomara Swamy’s edition in Sinhalese, Dr. Morris’ transliteration
in Roman characters. “Journal of Pali Text Society 1884.”
London: Pali Text Society, 1978. 109-151. 3/- Dāṭhāvaṃso. CD Rom Chaṭṭhasaṅgāyana,
version 3.0. Vipassana Research Institute, 1999. Mục đích của chúng
tôi trong khi nghiên cứu tài liệu này nhằm t́m hiểu
văn phong Pāli qua các thời kỳ khác nhau nên thời
gian đầu tư cho công việc ghi lại tiếng Việt
của tài liệu này rất hạn chế, v́ thế không
tránh khỏi những điều thiếu sót. Ngưỡng mong quư độc giả niệm t́nh
hỷ xả. Mọi sự góp ư phê b́nh xin email về:
dinda@u.washington.edu Nhân đây, chúng tôi cũng
xin thành tâm ghi nhận công đức của Ven. Bodhinanda
(Canada) đă cung cấp văn bản Pāli dạng
mẫu tự Devanāgarī, đồng thời chân thành
tán dương sự sách tấn và ủng hộ của quư
vị hữu ân: Sư Cô Diệu Linh, Sư Cô Hạnh Bửu,
Sư Cô Liễu Pháp, Dr. B́nh Anson, Bà Ba Diệu Đài, Cô Sáu
Dép và các con Phạm Thị Thi, Phạm Xuân Lan, Phạm Thu
Lan, Phạm Thông Hải, Cô Tư Khánh Huy, Cô Lê Thị Huế,
Cô Ngô Kim Chi, gia đ́nh Trương Tuyết Anh, v.v... Thành tâm cầu chúc quư vị luôn giữ vững niềm
tin và thành tựu được nhiều kết quả
trong công việc tu tập giải thoát và hộ tŕ Tam Bảo. Công đức này xin dâng
đến Ḥa Thượng trụ tŕ chùa Sri Jayawardhanaramaya,
Colombo, Tích Lan, đă tạo nhiều điều kiện thuận
lợi cho chúng tôi trong công việc tu học và nghiên cứu
Phật Pháp thời gian qua. Mong sao hết
thảy chúng sanh đều được tiến hóa trong
ánh hào quang của Chánh Pháp. -ooOoo-
-ooOoo- |