HÂN HOAN ĐÓN CHÀO CHƯ TÔN ĐỨC VÀ QUÝ PHẬT TỬ

Minh Hạnh biên soạn

   

Ngày 01 tháng 01, 2004

 

 Phẩm 25: Đời Sống Xuất Gia - Phẩm Tỳ Khưu
(Bhikkha-Vagga) – Kệ Ngôn 377

 

 

Bản Việt dịch cũa TT Giác Đẳng

 

Như hoa Vassikà

Ĺa bỏ cánh úa tàn

Hăy đoạn tận tham sân

Như vậy hỡi tỳ khưu

 

TT Giác Đẳng giảng: Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật: kính bạch Chư Tôn Đức Tăng, và xin chào quí Phật tử.  Sáng hôm nay chúng ta lại thảo luận về kệ ngôn kinh Pháp Cú khác liên quan đến khía cạnh tu tập của đời sống một vị Tỳ khưu, khi chúng tôi nói vị Tỳ khưu ở đây, thi` chúng tôi mong quí Phật tử sẽ không lấy đó làm một sự phân biệt, rằng Đức Phật dậy ở đây trong phẩm này cho các vị Tỳ khưu, mà chúng ta cũng có thể hiểu được rằng những lời dậy trực tiếp cho những ai tu tập, dĩ nhiên bối cảnh thời đó là những vị Tỳ khưu, những vị sống trọn vẹn cuộc đời, dành tất cả thi` giờ trong công việc tu tập do đó Đức Phật Ngài đă đặt biệt nêu danh các vị Tỳ khưu ở trong bài kệ này.

 

Tuy vậy thưa qúi vị, chúng ta cũng dễ dàng nhận thấy một điểm khác nữa, đó là ở trong đạo Phật khi đề cập đến pháp tu, không phải lúc nào người ta cũng chú trọng đến phương pháp mà chúng ta gọi là một pháp môn duy nhất, hay là một pháp hành chữa được bá bịnh phiền năo.  Ở đây chúng ta phải nói rằng ở căn duyên của mỗi người, mỗi lúc và mỗi thời, có những lời dậy ngắn ngủi, có những lời dậy tuy rằng rất cô đọng, nhưng lại có thể có khả năng đánh bật phiền năo ra khỏi nội tâm của chúng ta, và đây là một trong những sự kiện rất kỳ thú. 

 

Trong duyên sự chúng ta đă được nghe một số các vị Tăng sĩ Tỳ khưu vào trong rừng để hành  thiền, những vị này trong lúc đang thiền định, thi` một buổi sáng nhi`n thấy những cánh hoa Vassikaa mà ở trong nhiều bản tiếng Anh dịch là hoa Jasmine, chúng ta gọi là hoa lài.  Chúng tôi không biết rằng hoa vassikaa tức là hoa lài có chính xác hay không, nhưng vi` đó là bản dịch của nhiều người, và chúng tôi cũng biết rằng ở trong Anh ngữ chữ Jasmine không những chỉ có hoa lài mà có vài thứ hoa tương tựa khác, tức là chúng ta nói có nhiều loại Jasmine, chứ không phải chỉ có một loại hoa lài như ở Việt Nam chúng ta.

 

Ở đây khi những vị Tăng sĩ trong rừng thấy những cánh hoa vissikaa này, khi nó tàn úa thi` cánh hoa rơi xuống, mà ngay lúc nhi`n thấy cánh hoa đẹp buổi sáng sớm và rơi rụng vào buổi chiều, thi` thưa quí vị, lúc đó Đức Phật từ hương thất của Ngài, Ngài dùng Phật nhăn để quán sát căn tính và sự tu tập của Chư Tỳ khưu để trợ duyên. Phải nói rằng các vị Tỳ khưu lúc đó rất hữu phước, đă sanh ra đời và  tu tập trong thời Đức Tôn Sư trụ thế.  Và lúc bấy giờ Đức Thế Tôn biết được những vị Tỳ khưu đang nhi`n những đóa hoa mới nở đẹp thơm ngát sáng nay, bây giờ những cánh hoa đă rơi xuống, Ngài nhân đó Ngài nói lên một ít y' nghĩa của sự quyết tâm, và y' nghĩa này phải nói là một y' nghĩa rất đặc biệt: " như hoa vassikaa rủ bỏ sự úa tàn, như vậy hởi Tỳ khưu hăy đoạn tận tham sân". 

 

Chúng ta có thể nói rằng Đức Phật, Ngài không dùng hi`nh ảnh cái hoa úa sào, mà Ngài chỉ cho sự vô thường của cuộc sống, mà ở đây Đức Phật đặc biệt chỉ cho cây hoa vassikaa, khi mà cánh hoa đă úa sào rồi thi` thưa quí vị, cánh hoa này sẽ lià cành, và hoa vassikaa giữa thân cây và cánh hoa nó lại xa lià với nhau, cánh hoa rơi xuống như vậy, nó là một hi`nh ảnh có thể nói rằng mang một y' nghĩa lớn về sự rủ bỏ cái không đáng gi`n giữ, cái đáng nhàm đáng chán.

 

 Thi` bây giờ ở đây có thể nói rằng cái hoa rũ đó được Đức Phật dụ cho tâm tham sân, là cái gi` rất là kiêu căng, cái gi` có thể mang lại nhiều phiền lụy cho đời sống, đây là một điểm mà ít khi chúng ta nghĩ tới, khi chúng ta giận một người khác, mi`nh nghĩ rằng lo`ng sân hận nó là một sức mạnh, khi chúng ta bực bội, chúng ta muốn thoả măn tâm sân của mi`nh, thi`mi`nh nghĩ rằng tâm sân là một cái gi` đáng để được ch́u, đáng để được quí trọng, mà thậm trí chúng ta thấy nó có ly' lắm, nó có ly' đến đỗi mà chúng ta tin vào tham, tin vào sân, chúng ta đă tin nó không phải chỉ một ngày, hai ngày, mà cả cuộc đời của mi`nh.  Và nói như trong kinh Phật, thi` chúng ta đă tin vào tham sân si trong vô lượng kiếp, từ vô lượng kiếp, bây giờ khi chúng ta nhi`n tham sân nó là một hi`nh thái tiêu cực, thi` rơ ràng chúng ta đang vẽ một làn ranh mới, và có một thái độ mới đối với sự phiền năo của mi`nh. 

 

Một vị thiền sư mà quí vị nghe chúng tôi nhắc đi nhắc lại nhiều lần, bởi vi` chúng tôi có dịp ở gần Ngài hai năm đó là Ngài Achaan Chaa, Ngài có nói một câu, ngay khi chúng tôi nói chuyện với quí vị đây, chúng tôi co`n nhớ văng vẳng lời của Ngài; "đừng tin vào những phiền năo của mi`nh."  Chúng ta tin vào phiền năo của mi`nh như là người bạn chí cốt, chúng ta tin vào phiền năo của mi`nh như là một thủ hạ thân tín, chúng ta tin vào phiền năo của mi`nh đôi lúc chúng ta sùng bái, thờ phượng phiền năo của chúng ta như là cái gi` đó mà có quyền uy tuyệt đối ở trong đời sống của mi`nh. 

 

Ở đây Đức Phật Ngài giới thiệu cho chúng ta một cách nhi`n, là hăy nhi`n tham sân giống như là những cánh hoa úa, có gi` đáng hoan hỷ, có gi` để đáng cho chúng ta tán thán, có gi` đáng để cho chúng ta kỳ vọng ở tham, ở sân, thưa quí vị.  Có thể nói hầu như trong suốt lời dạy của Đức Phật mà chúng ta ti`m thấy rải rác đó đây ở trong kinh điển, thi` quí Phật tử sẽ dễ dàng nhận ra một điều là Đức Phật Ngài cho chúng ta cái nhi`n mới về khía cạnh tiêu cực của phiền năo, mà bấy lâu nay chúng ta vi` quan niệm ngă chấp, vi` quan niệm nghĩ rằng đó là ta, đó là của ta, và tự ngă của ta. Bởi vi` nó là tự ngă của ta, vi` nó là ta, nó là của ta, nên chúng ta đă trân quí phiền năo, đă đặt để phiền năo ở trong một cảnh giới, ở trong địa vị mà chúng ta đă kỳ vọng, chúng ta phải lắng nghe, chúng ta phải ch́u nó, và chúng ta phải đồng thuận với nó.

 

Bấy giờ các vị Tỳ khưu trong lúc hành thiền trong rừng, những vị này đang sống và đối diện với phiền năo ở trong lo`ng mi`nh, và quả thật ngay lúc đó lời dậy của Đức Phật làm cho vị này rất thấm thía.  Tham sân ở trong lo`ng của chúng ta, không khác chi những cánh hoa tàn úa, và không ly' do gi` mà đối với những cánh hoa tàn úa như vậy, chúng ta lại đặt quá nặng, và có thể nói rằng chúng ta nghĩ quá nhiều cho đến đỗi mà chúng ta phải dở sống dở chết cho điều này, nên chi cái nhi`n mới này là cái  nhi`n phải nói rơ là đối với những người ngồi xuống bàn thảo, dù là chúng ta bàn thảo trên phương diện văn chương, chữ nghĩa,  hoặc là ly' luận triết học, thi` điều đó nó không có ảnh hưởng lớn.  Tuy nhiên đối với những người tu tập, như trong duyên sự này đề cập đến những vị Tỳ khưu đang ở trong rừng hành đạo, thi` thưa quí vị nó có một tác động lớn và cho chúng ta thấy chúng ta hiểu tại sao chỉ với một câu Phật ngôn ngắn như vậy mà Đức Thế Tôn đă đưa những vị Tỳ khưu này từ bờ mê sang bến giác, Ngài đă cho các vị Tỳ khưu này một hi`nh thức mới hoàn toàn, ở đó pháp nhăn sanh, ở đó trí huệ sanh, ở đó các vị có thể ti`m thấy cả một bầu trời giải thoát.

 

Ngày hôm nay là ngày đầu năm dương lịch, thưa quí vị, ngày tết của người Tây phương mà chúng ta đă rất quen thuộc từ nhiều thế kỷ rồi của Tây phương, bởi vi` cái lịch của người Tây phương  là một cái  lịch mà có thể nói dùng cả thế giới, mặc dù ngày tết dương lịch không quá lớn ở trong cộng đồng của chúng ta, trong đất nước của chúng ta, trong truyền thống như tết Nguyên Đán, tuy vậy nếu chúng ta sống ở tại đây rồi, chúng ta cũng có thể cảm nhận được cái ti`nh tử rất giống với những gi` mà chúng ta đón tết Nguyên Đán.  Có nghĩa là ngày đầu năm, người ta thường nghĩ đến cái mới mẻ, ngày đầu năm người ta thường nghĩ đến yếu tố tích cực của cuộc sống, và yếu tố tích cực đó có thể nói rằng cái gi` không đáng, cái gi` phiền năo, cái gi` làm cho chúng ta không có cảm thấy hưng phấn trong lo`ng, thi`thưa quí vị, nhân ngày đầu năm, đầu tháng chúng ta bỏ đi, chúng ta không cần phải tiếp tục sống với nó, gi`n giữ nó nhiều, mà có thể nói rằng những tiêu cực này thông thường người ta đề cập đến căng thẳng của tinh thần những phiền lụy lo lắng v.v...

 

Những gi` chúng ta nói đến đầu năm, đầu tháng cho dù là tết dương lịch hay tết âm lịch, thi` những tiêu cực đó nó mang tánh cách rất thô của phiền năo, chúng tôi nói thô của phiền năo, là bởi vi` khi nào phiền năo nó làm cho chúng ta phải đau khổ, phiền năo làm cho chúng ta phải lo lắng, như sự sợ hăi, sự âu lo hay những căng thẳng, thi` lúc đó chúng ta mới nhi`n phiền năo như những thứ tiêu cực. Co`n có những cái tham, cái sân rất là tế nhị, cái sự vướng mắc rất vi tế, nó vi tế đến nỗi mà chúng ta cảm thấy nó là một người bạn thân với mi`nh, và cũng không có nghĩ rằng nó có một khiá cạnh tiêu cực như chúng ta đă nghĩ. Người xưa có câu nói rằng hăy coi chừng những người mà lúc nào cũng ngon ngọt với chúng ta, có đôi khi những người đó lại là kẻ thù lớn nhất ở trong cuộc đời,

 

Thưa quí vị, khi Đức Phật dậy câu Phật ngôn này, thi` rơ ràng Ngài chỉ cho chúng ta thấy những phiền năo ở trong lo`ng của chúng ta nó tế nhị và nó vi tế hơn chúng ta thấy nhiều lắm, kể cả một vị ở trong kinh nói rằng tu tập chứng đắc các tầng thiền, các vị đă ấn chứng, và nếu những thứ này  nó là một cái gi` để cho vị đó dính mắc, thi` sự dính mắc đó đối với chúng ta, có thể nói rằng chúng ta không nhận ra đó là một phiền năo, nhưng chỉ có Đức Phật Ngài mới nhi`n thấy nó là một thứ phiền năo. 

 

Trong một bài kinh rất danh tiếng của Đạo Phật, bài kinh đó mở đầu cho Trường Bộ Kinh, và cũng mở đầu cho kho tàng kinh Tạng pali, kinh Tạng Phật giáo, bài kinh đó Đức Phật Ngài đề cập đến, những kiến cách mà chúng ta gọi là tà kiến., ở trong bài  kinh Brahmajàla hay là bài kinh Phạm Vơng.  Khi chúng ta đọc về những tà kiến này rồi, chúng ta phải nhi`n thấy chúng  sanh ở trong đời này không phải chỉ có những phiền năo đối với sắc thinh khí vị xúc, tức là đối với sắc đẹp tiếng hay, mùi thơm xúc lạc. 

 

Và có thể nói rằng những tầng thiền như sơ, nhị, tam, tứ thiền, thậm trí những thiền vô sắc như  không vô biên, thức vô biên, vô sở hữu, phi tưởng, phi phi tưởng, và ngay cả vị này lấy tự ngă đối chiếu với Niết bàn.  Khi các vị nhi`n vào Niết bàn, các vị lại có một quan niệm, quan niệm này ở trong bài kinh Phạm Vơng gọi là Niết bàn viễn thế, những quan niệm về Niết bàn, như là những giải tỏa bậc nhất, mà đặc biệt ở trong đó Đức Phật Ngài dậy rằng sự có mặt của bản ngă.  Có đọc những bài kinh đó thi` chúng ta mới biết tại sao phiền năo nó không dễ để nhận diện, cho dù rằng chúng ta nhận nó là tham, là sân, là si. 

 

Thật ra thi` nếu chúng ta đọc kỹ những kiết sử, nhất là thượng phần kiết sử ở trong mười kiết sử, thi` chúng ta cũng có thể mường tượng được tại sao những thứ ái dục, như là sắc ái, vô sắc ái, hay là ngă mạn, phóng dật vô minh, những thượng phần kiết sử đó nó không phải là cái gi` mà thô thiển trong đời sống hàng ngày. Anh A giận anh B những lời nói bực, hoặc giả là chúng ta thích ăn ngon mặc đẹp, hay là người nam nữ thương với nhau có những nông nỗi, có những bất đồng, có những vụng về ở trong đời sống, nó không hẳn là chúng ta dễ dàng nhận ra như vậy.

 

Vi` vậy trong bài kệ này Đức Phật đề cập đến một cái nhi`n, một cái nhi`n khác với phiền năo, cái nhi`n đó giống như là những cánh hoa héo, và cây vassikaa rũ bỏ, cái hoa héo đó như thế nào thi` hăy rủ bỏ tham sân, một vị Tỳ kheo lên làm như vậy, có thể nói rằng đây là một y' nghĩa rất lớn cho mỗi chúng ta khi chúng ta đối diện với đời sống tu tập.  Chúng ta cũng phải nói một khía cạnh khác liên quan đến hướng đi, mà nó thường tiềm tàng như một khả năng, có thể nói rằng hết sức đặc biệt trong cuộc sống của chúng ta, chúng tôi nói như vầy, nhớ đến Ngài Hoà Thượng Hộ Tông viết một quyển nhỏ, ở trong đó Ngài dùng tựa là "Nguyện Vọng Cao Nhất Của Con Người", và trong quyển này đă đề cập đến hạnh phúc, Ngài nói hạnh phúc là một sự truy ti`m lớn nhất trong cuộc sống, và khi nói đến hạnh phúc là chúng ta nói đến cái gi` tích cực, cái gi` đáng để chúng ta thân cận, đáng để chúng ta truy cầu, đáng để chúng ta hướng đến, nhưng mà điều này nó chỉ là một bước rất nhỏ, khi mà chúng ta nghĩ đến thanh bi`nh, chúng ta nghĩ đến hạnh phúc, chúng ta nghĩ đến sự thanh thản, chúng ta nghĩ đến sự an lạc, rồi bước kế tiếp là chúng ta phải nhận ra một cái gi` là cái tích cực, cái gi` là cái tiêu cực, cái gi` là cái an lạc, cái gi` là cái khổ đau, thi` đây là một sự phân định không phải đơn giản dễ dàng.

 

Khi Đức Phật Ngài từ trong hương thất của Ngài nhi`n các vị Tỳ khưu đang nhi`n cánh hoa như vậy, rất có thể Ngài có nhiều cách nói, những cách nói về đóa hoa chúng ta có thể ti`m thấy vô số những ví dụ ở trong kinh Phật.  Có khi Đức Phật Ngài dùng đóa hoa để nói lên cái gi` sớm nở tối tàn, nói về sự vô thường, có nhiều khi Ngài dùng đóa hoa như là hoa sen, để chỉ cho những căn tính của chúng sanh ở trong cuộc đời, như hoa sen co`n ở trong bùn, đă vương lên trong nước hay vuợt khỏi mặt nước, có khi Ngài dùng đóa hoa sen, để Ngài chỉ cho những đóa hoa hạn hữu để chỉ cho sự ra đời của một vị Phật, và ở trong trường hợp này,  một cái nhi`n mới và lạ về những cánh hoa úa, những cánh hoa úa của cây Vassikaa, những cây hoa lài và chúng ta tin rằng qua bài kệ này Đức Phật đă dùng những cánh hoa úa đó để cho chúng ta thấy một ví dụ về cái gi` đáng nhàm đáng chán, không đáng thi cầu, không đáng bám víu, và gi`n giữ.

 

Chúng tôi không biết rằng ở mỗi quốc gia có mỗi cái nhi`n khác nhau, đặc biệt về phương diện mỹ học, phương diện phẩm vị nghệ thuật, nhưng chúng ta có thể nói rằng khi Phật giáo truyền sang Trung Hoa, có đôi lúc các vị Thiền sư phải dùng hi`nh ảnh chiếc giày rách, để nói lên cái gi` đáng nhàm chán, đáng từ bỏ.  Chiếc giày rách khi chúng ta sống ở xứ mà tương đối đầy đủ về vật chất, quí vị có 5, 10 đôi giày ở trong tủ, thi` ít có khi nào quí vị nhi`n thấy đôi giày rách thật sự.  Chúng tôi những chuyến đi sang Trung Quốc, nhi`n thấy những người lao động làm việc với đôi giày rơm, đôi giày rơm được bện bằng rơm, khi mà nó rách rồi thi` nó không giá trị gi` hết, nó chỉ đáng để quăn vào thùng rác thôi, chứ nó không có giá trị gi` hết, và thuở xưa ngừơi ta dùng đôi giày rơm như vậy để đi lại, và dĩ nhiên khi mà nó hư rồi thi` nó rẻ rồi, và trong sự rẻ rúng đó, nếu nó co`n mới thi` nó co`n có chỗ dùng thi` cũng có ít giá trị, nhưng mà khi nó đă dơ, nó đă hư rách rồi thi` đôi giày đó nó không có gi` đáng hết. Thi` chúng tôi tin rằng thí dụ về đôi giày rách đó, nó cũng tương tựa như là những cánh hoa Vassikaa, khi nó úa tàn, nó héo đi thi` quả thật nó không có gi` đáng để giữ, mà nó đáng để rủ bỏ, và rủ bỏ một cách dứt khoát, chứ không phải là chù trừ.

 

Có một vài lần chúng tôi được dịp nói chuyện với một số Chư Tăng ở trong chùa, các vị cũng có bày tỏ một y' kiến, mà chúng tôi nghĩ rằng những y' kiến tương đối hết sức là đặc biệt, là những hoa đẹp được chưng ở trên các bàn thờ ở chùa, chúng tôi gọi là hoa đẹp là tại vi` những hoa này nó vừa đẹp vừa thơm, lấy ví dụ như là hoa Huệ trắng hoặc là hoa Sen, những thứ này phải nói rằng kể cả mai, kể cả đào cũng vậy, mai đào vào ngày tết, nhưng mai đào co`n đỡ, nhưng đặc biệt hoa huệ và hoa sen, khi mà co`n tươi, vừa mới nở ra thi` chẳng những thơm, chẳng những đẹp mà khi chúng ta nhi`n vào chúng ta thấy có cái gi` rất là  đạo vị, rất là thiền vị.  Tuy nhiên hai loại hoa này có đặc tính, đặc tính đó là rất mau tàn, hoa sen chỉ trưng buổi sáng, buổi chiều quí vị nhi`n thấy những cánh sen rơi rụng ở trên bàn và thứ hai nữa những hoa này khi nó tàn rồi, nước trong bi`nh rất là hôi, và đặc biệt là khi chúng ta nhi`n thấy cảnh những đóa hoa sen hoa huệ mà khi nó đă tàn rồi, thi` chúng ta không có gi` chúng ta thích thú hết, hoàn toàn không có gi` thích thú.  Chúng tôi nghĩ rằng tại vi` ngay lúc đó Chư vị Tỳ kheo đang đứng ở ngay trước cây hoa lài, và nó có thể là một rừng hoa vassikaa, chúng ta không được biết những cây hoa đó ở một thời điểm nào đó nở ra đẹp và tươi và đầy hương sắc, nhưng mà rồi cũng có lúc những hoa đó bầm đi và tàn úa đi, thi` nhi`n những hoa đó quả thật là một cái gi` hết sức là tiêu cực, hết sức là mất mát, vi` vậy Đức Phật Ngài ví dụ, Ngài dùng cây hoa vassikaa để ví dụ như những phiền năo.

 

Với bài kệ này chúng ta một lần nữa thấy được Đức Phật Ngài dậy chúng ta đặt cái trọng tâm mi`nh chỗ nào.  Ngày đầu năm, hôm qua trong bản tin chúng tôi có nói về một vài cái phong tục của các quốc gia, và đặc biệt là quốc gia Nhật Bản, và về sau này chúng ta ti`m thấy một số các quốc gia, như Nhật và Đại Hàn, Trung Hoa, vi` do ảnh hưởng xa gần sao đó người ta cũng có phong tục ngày đầu năm họ thỉnh 108 tiếng chuông.  Rồi chúng tôi cũng biết rằng có những vị Phật tử đầu năm đến chùa vào cúng tiền chỉ lên thỉnh một tiếng chuông, người ta quan niệm rằng mỗi một tiếng chuông đầu năm được thỉnh lên,  làm cho chúng ta rủ bỏ đi một tiếng phiền năo, để trả về cho tâm hồn chúng ta sự thanh thản.  Phải nói rằng tâm tư của chúng ta theo năm dài tháng rộng, thi` những tập nhiễm nó chồng chất những hệ lụy, những cái buồn thương, những cái phiền năo, những nặng nề nhiều hơn  cái thanh thản. 

 

Chúng ta có thể nhi`n thấy tâm tư của chúng ta có đôi lúc, người không khéo tu tập thi` nó giống như cái lọc nước vậy, nước trong thi` nó cho đi, nước sạch thi` nó cho đi, và cái gi` co`n lại thi` thường thường nó là cái cặn cáu, nó là cái gi` không được tốt đẹp, và chính vi` vậy đôi lúc Đức Phật Ngài dậy chúng ta lên làm một công việc của một người khách quan là hăy đứng từ địa chỉ khách quan, để nhi`n lại những phiền năo chính mi`nh và phải tỏ thái độ, thái độ đó rất rơ ràng, thái độ đó là hăy xem phiền năo như ở bài kệ này nói rằng đó là những cánh hoa vassikaa đă uá tàn, đă không co`n đáng để hoan hỷ, không co`n đáng để tha thiết nữa, là nên rủ bỏ, rủ bỏ một cách không thương tiếc.

 

Thi` ở đây bài học này là bài học lớn chứ không phải nhỏ ở trong cuộc sống của chúng ta, chúng ta hay nghe chữ mà, ví dụ mi`nh làm cái gi` cho đă nư, hay là đă cơn tức của chúng ta, cái nư cái cơn tức của chúng ta là gi`, nó là một thứ phiền năo, nhưng mà ở trong lúc đó thi` chúng ta nghĩ rằng chúng ta làm thoả măn cái sân tâm đó, tức là thoả măn chính mi`nh, như vậy  sân tâm đó, với bản ngă là một, và vi` vậy thoải măn sân tâm tức là thoả măn chính mi`nh và do vậy chúng ta mới có những việc làm, mà thậm trí về sau này chúng ta phải ăn năn hối hận, là bởi  vi` mi`nh làm cho thoả măn, nếu chúng ta nhi`n thấy những sân tâm phiền năo, đó là phiền năo thôi, không thấy đó là ta, đó là tự ngă của ta, và nếu chúng ta nhi`n những sân tâm đó, co`n mạnh mẽ hơn nữa, như cái nhi`n của Đức Phật ở tại đây, ở trong bài kệ này là những cánh hoa héo úa, chúng ta dễ dàng rũ bỏ, rũ bỏ một cách không có thương tiếc, và bài kệ này cũng gợi cho chúng ta một y' là tại sao chúng ta lúc nào sống cũng ôm chầm lấy phiền năo, chúng ta lúc nào cũng coi phiền năo tự thân thiện với chính mi`nh, và tại sao chúng ta không thể bước ra khỏi vo`ng cương  tỏa của phiền năo được, bởi vi` thưa quí vị chúng ta thấy những phiền năo đáng để giữ, đáng để thấy và không phải là một thứ, mà chúng ta nghĩ rằng đó là bản ngă của chúng ta, và Đức Phật Ngài dậy ở trong đời này chúng ta có rất nhiều sự chấp thủ, nào là sắc, nào là thọ, tưởng hành thức, trong sắc có ta, trong ta có sắc, ta là sắc uẩn, sắc uẩn là ta, những thứ mà Đạo Phật  gọi là thân kiến, là vi` tại sao, chúng ta đă tự nhận rằng những thứ đó là tôi, là ta, là tự ngă, là của ta, chính vi` vậy chúng ta mới có những thái độ khác đi.

 

Cái nhi`n phiền năo ở trong tư cách khách quan đă là một việc rất khó, và điều này giải thích tại sao trên phương diện thiền quán nó cho phép một vị hành giả, hay là một người tu tập có thể nhi`n được phiền năo của mi`nh ở trong một cách nhi`n khác đi, nó giống như quan niệm ở một thời phong kiến xa xưa, việc ở trong một gia đi`nh, ở trong một đất nước, việc mà lúc nào cũng phải dấu kín, lúc nào cũng phải bưng bít, bởi vi` sao?, tổn thương đến cho gia đi`nh, là có thể nói rằng tổn thương đến cho bản thân, và danh dự của bản thân nó gắng liền với danh dự của gia đi`nh. Do vậy ở trong những triều đại ngày xưa nó có những câu chuyện, nó có những điều hết sức là tiêu cực, nó hết sức là xấu xa, và những điều đó bị bưng bít đi, không được đưa ra bên ngoài.  Trong những xă hội tiến bộ ngày nay thi` những vấn đề của xă hội, cho dù đó là vấn đề của vị Tổng Thống, hay vấn đề đó là vấn đề của thành phố thi` người ta sẵn sàng đem ra bàn luận, ở đây người ta không đặt vấn đề danh dự, mà người ta chỉ đặt thế nào để cải thiện xă hội. 

 

Chúng ta sống ở một quốc gia dân chủ thi` chúng ta thấy rằng, vai tro` của báo trí nó cho phép người dân trong xứ nhi`n vấn đề khách quan đi, chúng tôi nhớ có một lần chúng tôi sang bên Âu Châu, và trong lúc chúng tôi đang thăm viếng thi` có một số vấn đề của vị Tổng Thống Hoa Kỳ đang được báo trí nói đến nhiều, và một người Phật tử nói với chúng tôi rằng, những người Mỷ sống không có y' thức gi` hết,chuyện của vị Tổng Thống mà nói ra như vậy, nó nhục cả quốc gia, khi chúng tôi nghe vị đó nói thi` chúng tôi mới chợt nghĩ là: đó là cái văn hoá của chúng ta, chúng ta nghĩ rằng những điều xấu của vị Tổng Thống mà nói lên nó nhục cả một quốc gia, nhưng đối với một xă hội dân chủ, thi` nếu mi`nh không nói lên điều đó, thi` đó là cái hại cho cả quốc gia, chứ không phải cái nhục cho cả quốc gia.

 

Chúng tôi cũng nghe một vị danh Tăng khác, là Ngài Achaan Dhamasano, hiện là trụ tŕ của chùa Akayackkiry ở tại San Francisco, khi những người Phật tử họ đến nói với Ngài rằng, đă có một số bài viết được đăng trên tờ Post và tờ Nation, là hai tờ báo Anh ngữ lớn của Thái Lan đề cập đến những suy đồi ở trong giới Tăng lữ Thái lan, thi` điều đó thật sự đáng buồn quá, thi` Ngài mới nói một điều rằng thật ra nó cũng có một chuyện như vậy là một điều đáng buồn, nhưng mà nó sẽ là một điều đáng buồn hơn khi mà điều đó không được ai nói đến, khi người ta đem ra ánh sáng, người ta nói đến, thi` người ta có hy vọng để cải thiện nó.

 

Đức Phật Ngài ở trong rất nhiều trường hợp Ngài đă gợi y' cho chúng ta một điều quan trọng là chúng ta có thể nhi`n lại những cái phiền năo, những cái rắc rối, những khúc mắc ở trong lo`ng mi`nh, nó giống như là một cái nhi`n khách quan, như  ví dụ hồi năy giờ chúng tôi nói với quí vị là trong một quốc gia, thi` báo chí có thể nhi`n vấn đề chính quyền, nhi`n vấn đề của xă hội, ở trong cái nhi`n phê phán khách quan để làm gi`?, từ cái nhi`n khách quan đó thi` chúng ta mới không có gọi là cái này là cái của ta, là tự ngă của ta, mi`nh phải bảo vệ nó, có những lúc chúng ta sẽ có thái độ mạnh mẽ, dứt khoát đây là vấn đề cần phải loại bỏ và đây là vấn đề cần phải duy tri`, khi mà chúng ta đă đọc vào Phật pháp thi` chúng ta thấy có một khía cạnh hết sức  quan trọng của ly' vô ngă, ly' vô ngă mà Đức Phật Ngài dạy ở trong nhiều bài kinh và đặc biệt ở trong Tạng A Tỳ Đàm, mà khi nói đến điều pháp, chi pháp, điều đó là danh, điều đó là sóc, chúng ta muốn nói điều đó là một cái gi` ở trong năm uẩn đi nữa, thi` thưa quí vị không nên chấp chặt lấy nó là đây là cái mà mi`nh phải vĩnh viễn vướng  măi, bởi vi` nó là tự ngă của mi`nh, nó là cái gi` mà mi`nh không muốn đụng đến, ví dụ như là đây là sắc, đây là thọ, đây là tưởng hành thức v.v...có nghĩ như vậy nó mới cho phép chúng ta đứng ở trên một cương vị khách quan, và đó là cái khó nhất của một hiền giả mà bước vào đời sống tu tập.

 

Thưa quí vị có thể nói đây là kinh điển cho thí dụ điển hi`nh ở trong vô số các bài kinh mà chúng ta được nghe Đức Phật Ngài giảng về thái độ khách quan, nhi`n lại chính mi`nh và có một lối sống tách biệt ra khỏi quan niệm chủ quan, và chính vi` vậy giúp cho chúng ta một cái nhi`n hết sức là mới mẻ, mà nếu chúng ta không đọc kinh Phật, và chúng ta không hành thiền, thi` thưa quí vị nó măi măi là một sự bí ẩn, không hiểu tại sao tự mi`nh làm khổ lấy chính mi`nh, tự mi`nh chuốt lấy cái phiền muộn cho mi`nh, là bởi vi` tại sao?, là bởi vi` chúng ta đă ôm chầm lấy những phiền năo đó, gọi những phiền năo đó là anh là em là thân thiết là ruột thịt, gọi những phiền năo đó là tự ngă của mi`nh, để rồi mi`nh chẳng những không dám đụng đến nó, chẳng những mi`nh không dám có một thái độ phiền năo mà chúng ta lại nghĩ rằng mi`nh phải nuông ch́u, mi`nh có thái độ như thế nào để làm cho phiền năo không bị mảy may chi giảm và đó là ly' do tại sao cả một khối Đức Phật gọi là khổ, nó được sanh khởi và hi`nh thành ở trong cuộc sống của chúng ta và những người chung quanh chúng ta,

 

Chúng tôi thật sự không muốn nói nhiều về ngày tết, bởi vi` ngày tết dương lịch lẽ ra nó không phải là ngày tết lớn cho mọi người.  Và kính bạch quí Ngài và thưa quí vị, nhưng mà dù sao đi nữa nhân ngày đầu năm 2004 này, chúng tôi xin thay lời của TT Trí Siêu và tất cả Chư Tôn Đức ở trong rơom xin kính chúc quí Ngài và quí vị một năm 2004, gặp nhiều thắng duyên ở trong sinh hoạt Phật sự và trên đường tu tập cá nhân gặp được nhiều trợ duyên tốt đẹp để chúng ta có thể hoàn tất tâm nguyện phục vụ để hoàn toàn, và hoàn toàn để phục vụ.  Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật

 

Minh Hạnh biên soạn

   Trở Lại Câu hỏi

   Trở Lại Trang Kệ Ngôn Kinh Pháp Cú

Trở Lại Trang Pháp Đàm