Hành Trình Tâm Linh - Savatthi

Minh Hạnh phóng sự

"Ngày 22 tháng 3 năm 2010 -  tại Savatthi, đi thăm chùa Kỳ Viên, cúng dường Xá Lợi tại chùa Kỳ Viên, thăm thành Xá Vệ, tháp đánh dấu nhà ông Cấp Cô Độc, tháp kỷ niệm Ngài Vô Não, tháp nơi Đức Phật thị hiện thần thông giáo hóa ngoại đạo.

Những câu chuyện về ông Cấp Cô Độc, bà Visakha, Ngài Vô Não do TT Giác Đẳng giảng cho Phật tử hành hương tại Savatthi.

--

Ngày 22 tháng 3 năm 2010. Ăn sáng xong chúng tôi ra xe đđi thăm thành Xá Vệ. Savatthi (Sanskrit: श्रावस्ती), một thành phố cổ xưa của Ấn Độ, là một trong sáu thành phố lớn nhất tại Ấn Độ thời Phật Gautama. Thành phố nằm ở vùng đồng bằng sông Hằng phì nhiêu của quận Gonda ngày nay của Uttar Pradesh. Có ngôi chùa Kỳ Viên là một tu viện nổi tiếng gần thành Xá Vệ. Ch Xá Vệ t ch Savatthi gồm ch ghép lại "Savat" và "thi", "Savat" có nghĩa là "tất cả" và "thi" nghĩa là "có". Savatthi có nghĩa là cái gì cũng có hết. Ngày xưa nơi này là kinh đô của x Kosala chúng ta gọi là Kiều Tát La, nhng người thương buôn hỏi rng khi mình đi đến x này thì mình sẽ có cái gì và thường thường họ nói vi nhau là "Cái gì cũng có hết" thành ra t ch Savatthi chúng ta còn có ch Xá Vệ.

Phật tử chùa Pháp Luân dưới sự hướng dẫn của TT Giác Đẳng đang tụng kinh Tam Bảo tại Hương Thất của Đức Phật tại chùa Kỳ Viên

TT Giác Đẳng giảng về lịch s của chùa Kỳ Viên. Ông Cấp Cô Độc là người giàu có bậc nhất của thành Xá Vệ lúc bấy gi, ông đến thành Vương Xá và gp Đức Phật, sau khi quy y tr thành đệ t Phật thì ông khẩn khoản rước Phật về thành Xá Vệ, ông thưa vi Đức Phật rng:

"Bạch Đức Thế Tôn x Kosala là một vương quốc ln nơi đó kinh đô là Xá Vệ, một nơi mà nhng đệ t rất cần đến giáo pháp của Đức Thế Tôn. Chúng con xin cung thỉnh Đức Thế Tôn vì lòng bi mẫn hong pháp độ sinh."

 Đức Phật Ngài nhận li về thành Xá Vệ. Đức Thế Tôn nhận li về đây thì ông Cấp Cô Độc khẩn khoản thỉnh Đức Phật rng :

"Bạch Đức Thế Tôn, xin Ngài cho biết tôn ý của Ngài về một nơi thích hp." thì Đức Phật nói rng một nơi không quá xa và không quá gần thành thị, không quá xa thành thị để không bị ồn ào là nơi thanh tịnh.

Ông Cấp Cô Độc đi cùng vi Ngài Xá Li Phất vi s mệnh là giúp ông Cấp Cô Độc thiết trí một nơi thích hp cho Đức Phật và Chư Tăng. Đó là mùa hạ th bảy, bảy năm sau khi Đức Thế Tôn thành đạo. Khi ông Cấp Cô Độc về đây thì ông đã đi rất nhiều ngày, cuối cùng thì ông đến nơi này là một công viên vi cây cao bóng mát rất hu tình nhưng đây lại là một ng viên của Thái T Jeta tc là Thái T Kỳ Đà. Nhưng Thái T Jeta là một ông hoàng của x Kosala rất giàu có và ông Cấp Cô Độc sau khi đi nhiều nơi thì ông thấy rng đây là nơi thích hp nhất có cây cao bóng mát cảnh trí u nhã không quá xa  

       TT Giác Đẳng đang giảng về lịch sử chùa Kỳ Viên

 thành xá vệ và cũng không quá gần và ông đã làm một việc mà chưa bao gi ai dám làm trước kia đó là đến gp Thái T Jeta để mua lại ng viên của Thái T, và Thái T Jeta rất bàng hoàng và xng xốt vì xưa nay chưa có ai hỏi mua khuê viên của Thái T và vị Thái T nhìn ông Cấp Cô Độc nghi ng hỏi ông có nói thật hay không, thì ông khng định là ông muốn mua vườn nghỉ mát của Thái T. Thái T Jeta thật s không cần tiền và không có ý muốn bán nhưng thấy ông Cấp Cô Độc là một người giàu có bậc nhất của x Kosala thi bấy gi, lúc đó Thái T Jeta nghĩ rng không thể t chối được do đó nói một câu rng:
"Thật ra tôi không muốn bán công viên vì công viên là một nơi lý tưởng nhưng thôi thì vàng trải đến đâu thì ly đất đến đó."

Đó là câu trả li của Thái T Jeta là một câu trả li cho có, vì đất mênh mông như vậy mà trả li là vàng trải đến đâu thì lấy đất đến đó giống như một câu đuổi người ta đi, nhưng ông Cấp Cô Độc trả li là "được", và sáng ngày hôm sau thì lập tc cho người mang vàng đến và lấy tng đồng vàng trải liền vi nhau nguyên cả mảnh đất này do đó về sau mảnh đất này gọi là Bố Kim T. Khi ông đang trải vàng thì Thái T Kỳ Đà đến thấy ông trải vàng thì cũng xng xốt, do đó Thái T Kỳ Đà hỏi tại sao ông có thể x dụng một số tiền ln như vậy thì ông nói là ông muốn mua công viên này để cúng dường đến Đức Phật, và lúc đó ông đang trầm ngâm thì Thái T Kỳ Đà nói như vậy giá cao quá phải không thì ông trả li:

"không, tôi đang nghĩ là lấy vàng t kho nào đến đây."

 

                   khuôn viên chùa Kỳ Viên

 Khi nghe ông nói như thế thì Thái T Kỳ Đà nói rằng "đất thì ông trải vàng được nhưng nhng gốc cây thì làm sao ông trải vàng được chng nhẽ ông đốn hết cây xuống, thì thôi như vậy, đất thì do ông cúng còn cây thì do tôi cúng."

Do vậy về sau này trong kinh ch Hán có câu là "Kỳ thọ Cấp Cô Độc viên." Kỳ thọ nghĩa là cây của Thái T Kỳ Đà, Cấp Cô Độc viên là vườn của ông Cấp Cô Độc, tc là thi đó người ta lấy vàng trải ra để mua ngôi chùa này.

Theo Ngài Huyền Trang đến đây vào thế kỷ th 7 sau Tây Lịch thì Ngài cho biết là ngôi chùa thi đó vẫn là ngôi chùa rất đẹp mc dù thi đó đã bị hoang phế, nghĩa là sau khi vua A Dục xây dng kinh đô Pataliputra cai trị toàn x Ấn Độ thì Xá Vệ đã rơi vào quên lãng, nghĩa là không còn là trung tâm quyền lc của Ấn Độ na, nhưng Phật t hành hương về đây hàng năm còn rất đông do vậy đây vẫn còn tìm thấy chùa Kỳ Viên tương đối thịnh theo trong ký s của Ngài Huyền Trang. Khi gic Hồi đến đây t đó về sau chúng ta không còn nghe đến, chúng ta chỉ còn nghe nhc vị vua Miến Điện sai phái bộ sang đây thì lúc đó hoàn toàn rơi vào trong hoang phế, khi tướng Kyanzittha ti đây thì không thấy nhng dấu vết mà chúng ta thấy tại đây nhng nền tháp mà chúng ta thấy là do nha khảo cổ đào bi lên, ngày xưa nó là nhng ngọn đồi phủ đất và phủ cỏ lên, ngày nay chúng ta khai quật một số điểm chính, trước nhất là người ta khai quật tư thất Kosambi của Đức Phật làm tiêu điểm để tìm ra hương thất và các chỗ khác.

T năm 35 tuổi Ngài đã hoá đạo suốt 45 năm, trong 45 năm thì chúng ta có thể nói rng có hai giai đoạn; giai đoạn th nhất là t năm th nhất đến năm th 20, 20 năm đó Đức Thế Tôn đã đi rất nhiều và nhng người gp Đức Thế Tôn trong giai đoạn đầu chúng ta gọi là nhng bậc tinh anh, thí dụ như Ngài Xá Li Phất, Ngài Mục Kiền Liên, Ngài A Nậu Đà La, v.v... đó là nhng bậc thông tuệ tuyệt vi. 25 năm sau khi Đức Phật thành đạo thì Phật Giáo tr thành một tôn giáo đại chúng tc là tôn giáo rộng ln, và tôn giáo rộng ln đó nghĩa là trong tất cả các quốc đ miền châu thổ sông Hng nơi nào cũng có đệ t Phật là người xuất gia và tại gia, lúc bấy gi thì Đức Thế Tôn Ngài la chọn Xá Vệ này để an cư trong suốt phần còn lại, có nghĩa là một năm vào ba tháng mùa mưa thì Đức Phật an cư tại đây và sau mùa mưa thì Đức Thế Tôn đi du hóa nhng nơi khác, tc là qua mùa khô. Khi Đức Thế Tôn tại đây thì Ngài nhập hạ tổng cộng là 24 mùa an cư tại thành Xá Vệ, trong 24 mùa an cư đó thì 19 mùa an cư thì Đức Thế Tôn tại chùa Kỳ Viên này và còn 5 mùa an cư khác thì Đức Thế Tôn nhập hại tại Đông Phương Tự. 

               Cây Bồ Đề tại Vườn chùa Kỳ Viên

 Vì lúc bấy giờ Phật Pháp đã có cơ sở rộng lớn và do vậy rất cần nơi cố định để Đức Phật bắt đầu ban hành giới luật cho Chư Tăng, nếu Đức Thế Tôn đi chỗ này chỗ kia và mỗi một nơi Ngài ban hành những giới luật rời rạt thì chuyện đó rất khó để có sự nhất quán và không được toàn bộ, do đó lúc bấy giờ chùa Kỳ Viên tại thành Xá Vệ là trung tâm nơi đó là nơi áp dụng những điều luật căn bản Đức Phật Ngài đặt ra. Mỗi lần chư Phật t hoc chư tỳ kheo xa muốn về thăm viếng Đức Phật vì có nhiều vị không có thần thông nên không biết nơi đến thì nơi bảo đảm nhất là hướng về thành Xá Vệ, lấy ví dụ như Ngài Mahakaccayana khi một vị vua đến hỏi Ngài "vậy ch bậc đạo sư là ai và làm sao để có thể đến đảnh lễ", thì Ngài Mahakaccayana lúc bấy gi Afghanistan diễn tả rng "Phương Đông có một kinh đô là thành Xá Vệ nơi đó có ngôi chùa Kỳ Viên có Đức Thế Tôn bậc A La Hán Chánh Đẳng Giác đó", diễn tả như vậy điều đó có nghĩa là 25 năm hoàng đạo sau cùng của Đức Thế Tôn và hơn phân na thì Đức Thế Tôn thường an cư tại chùa Kỳ Viên này và điều này rất dễ hiểu là khi 20 năm đầu Phật giáo có tánh cách phôi thai tiên khi thì Đức Phật Ngài đi du hoá nhiều, nhưng khi Chư Tăng và Phật t đông đảo thì Đức Thế Tôn một chỗ để Ngài là nơi quy hướng cho nhiều người. 

Và có một lần ông Cấp Cô Độc đã đến gp Đức Thế Tôn để thưa một chuyện: "Bạch Đức Thế Tôn đôi khi Chư Tăng và Phật t t xa về thành Xá Vệ này và muốn vào diện kiến Đức Thế Tôn nhưng khi họ đến chùa Kỳ Viên thì Đức Thế Tôn đã đi khỏi và họ đã rất là thất vọng tại vì đường xa như vậy mà không được gp Đức Thế Tôn." Thì Đức Phật đã cho phép làm một việc là Ngài cho phép trồng một cây Bồ Đề tại chùa Kỳ Viên này tc là nếu Đức Phật không có mt tại đây mà nhìn thấy cây Bồ Đề cây là nơi Đức Phật thành đạo thì cây Bồ Đề như là biểu tượng Đức Phật.

 Sau đó chúng tôi vào nơi Hương Thất của Đức Phật tại chùa Kỳ Viên, bây gi chỉ còn nhng tường gạch dan d vì bị tàn pháp bi thi gian và gic Hồi, cũng tại nơi này Đức Phật đã giảng kinh Pháp Cú. Thi Đức Phật còn tại thế thì Ngài đã an cư 19 mùa mưa tại đây, và tại Hương Thất này đã có rất nhiều Chư Thiên và nhng vị Tỳ Kheo đến đây lng nghe li dạy của Đức Phật. Một cái giếng được Đức Phật dùng thi Đức Phật còn tại thế và sau này người ta đã lp miệng giếng lại và thay vào đó một máy bơm nước lấy t dưới giếng này, kế bên là toà đĐức Phật ngồi giảng pháp cho Chư Thiên và chư vị Tỳ Kheo, khi chúng tôi đến thì có rất nhiều Chư Tăng đang tụng kinh tại đây. Chúng tôi được TT Giác Đẳng hướng dẫn tụng kinh Tam Bảo và kinh Hạnh Phúc sau phần tụng kinh là li nguyện của TT Giác Đẳng.

                chụp tại Hương Thất của Đức Phật

TT Giác Đẳng : Chúng ta đã đến đây rất muộn 2500 năm sau khi Đức Thế Tôn viên tịch, chúng ta về đây chiêm bái di tích chùa Kỳ Viên nơi Đức Tôn Sư đã an cư 19 mùa mưa, tại Hương Thất này đã có rất nhiều lần nhng vị Chư Thiên nhng vị Tỳ Kheo đến đây lng nghe li dạy của Đức Phật, chúng ta kém duyên kém phước diện kiến Đức Thế Tôn hoc giả là không chng ngộ đạo quả khi Đức Thế Tôn còn tại thế, hôm hay chúng ta có chút duyên lành về đây tuy rng Đức Thế Tôn đã viên tịch t lâu rồi nhưng mà chúng ta được đến Hương Thất này xin nhất tâm đđảnh lễ Đức Phật, xin thành tâm để suy niệm giáo pháp và xin tất cả nhng phước lành nhng công khó mà chúng ta đã tạo trong chuyến đi hành trình xa xôi t Hoa Kỳ t Âu Châu sang đây một hành trình dài rất mệt nhọc nhưng mà rồi đến đây tại Hương Thất của Đức Phật xin tất cả nhng công đức đó sẽ tạo thành duyên lành cho chúng ta đời này cho đến khi thành Phật lúc nào sanh ra đời đều có thiện duyên vi Phật Pháp, nếu chúng ta gp được Chư Phật ra đời xin tâm của chúng ta thật s thành kính đón nhận như ông Cấp Cô Độc như nhng người đàn tín đã tng qùy đảnh lễ dưới chân của Đức Phật, xin cho chúng ta có thiện duyên vi Phật Pháp để lng nghe như là Chư Thiên đã tng lng nghe Pháp Âm Vi Diệu t Đức Thế Tôn và cho chúng ta không bao gi rơi vào khổ cảnh sanh làm người thì đừng là người đói kém thiếu trí tuệ ngũ căn không đầy đủ và cuối cùng xin cho tất cả chúng ta thành tu quả vị giác ngộ mà Chư Phật đã giác ngộ, xin cho chúng ta có nhiều phước lành sung mãn như là nhng người hu duyên hu phước đã tng có mt trong vùng đất này thi Đức Thế Tôn còn tại thế như ông Cấp Cô Độc bà Visakha và xin cho mỗi chúng ta trong chuyến đi hành hương này không phải chỉ nói lên niềm thành kính đối vi Đức Phật mà còn thấm nhuần li dạy của Ngài.
Chúng tôi di chuyển đến vùng đất mà nha khảo cổ đang khai quật, tại đây TT Giác Đẳng giảng câu chuyện bà Visakha.

TT Giác Đẳng giảng: Điểm rất đặc biệt là t nhiều quốc độ khác nhau mỗi nơi đều có người đàn tín để hộ trì Đức Phật, nhưng đặc biệt thành Xá Vệ này thì có hai vị thí chủ cc kỳ quan trọng đó là ông Cấp Cô Độc và bà Visakha, họ không xuất thân t vua chúa nhưng họ giai cấp thương gia, nhng người cấp thương gia này ngoài công việc buôn bán thì đời sống của họ chỉ dành cho công việc hộ pháp mà thôi, họ là hình ảnh mẫu mc của người cư sĩ tiêu biểu ch không giống như nhng vị vua chúa. Khi Đức Thế Tôn về đây một thi gian thì lúc bấy gi trong thành có bà đại thí chủ Visakha bà đến đây thường xuyên và là một đại thí chủ bà lo lng cho Đức Phật và Chư Tăng rất nhiều th và bà tr thành như là bà mẹ của Chư Tăng, có nghĩa là mỗi buổi sáng hay buổi chiều bà đến chùa thì nhng vị tỳ kheo hay sadi nhất là nhng vị sadi trẻ tuổi thường trông vào bà Visakha đến để mang nhng th uống như sa và mật v.v..

            Nhi, anh Long, ĐĐ Thiện Thắng và anh Hòa

 Có một lần bà đến đây vi một người tỳ n, lúc đó bà đang đi d một dạ hội rất ln và bà mc một áo choàng rất đắt tiền, khi bà đến đây bà không muốn mc chiếc áo choàng đó nên bà thay áo ra và mc một chiếc áo rất giản dị rồi trao chiếc áo choàng đó cho người tỳ n, cô tỳ n vào nghe pháp khi về thì bỏ quên chiếc áo, bà mi nói cô người hầu đó tr lại và nếu chiếc áo đó còn nm yên tại chỗ thì lấy nó về, nếu mà Tôn Giả Ananda hay chư Tỳ Kheo đã đụng ti và cất đi thì không bao gi lấy về. Quả thật khi tr lại thì Tôn Giả Ananda biết cái áo đó của bà nên Tôn Giả đã cất đi, lúc đó bà mi trình vi Tôn Giả Ananda rng bà đã có li nguyện là nếu chiếc áo đó mà Chư Tỳ Kheo đã cất đi thì bà xin được cúng để làm ngôi Tam Bảo. Sau đó bà đã đem bán chiếc áo choàng trong thành Xá Vệ, vì chiếc áo được chạm toàn bng ngọc qúy nên có giá trị liên thành rất mc do đó trong thành Xá Vệ không ai có đủ tiền để mua chiếc áo vì vậy bà đã bỏ tiền ra để mua chiếc áo choàng lại và dùng số tiền đó cất một ngôi chùa theo li dạy của Đức Phật phía đông thành Xá Vệ là ngôi chùa Pùràràma. Chùa Pùràràma là một ngôi chùa nổi tiếng, có một ngôi chùa khác do vua Ba Tư Nc cất mà ngày nay chúng ta không còn thấy vết tích đó là ngôi chùa Racikarama là ngôi chùa hoàng gia nhưng ngôi chùa đó chúng ta không được biết nhiều. Ông Cấp Cô Độc và bà Visakha là hai người tín chủ bật nhất của Đức Phật một nam một n. Theo trong kinh Đức Phật Ngài rất đặc biệt là buổi tối mà Ngài nghỉ chùa Kỳ Viên thì buổi trưa thì Ngài nghỉ Pùràràma, nếu buổi tối Ngài nghỉ Pùràràma thì buổi trưa thì Ngài nghỉ chùa Kỳ Viên, đó là thông lệ của Đức Phật. Chúng tôi nghe nói là các nhà khảo cổ đang tìm và định được vị trí của ngôi chùa Pùràràma, nhưng mà chưa được, hy vọng một ngày nào đó chúng ta có thể tìm ra nơi này. Theo ký s của Ngài Huyền Trang cho chúng ta biết rng khi Ngài đặt chân đến vào thế kỷ th 7 thì nơi này là một nơi hành hương của thập phương bá tánh rất đông và trước ca chùa Kỳ Viên có một pháp xá rất ln như là một khách sạn thi bấy gi, pháp xá đó cung cấp ăn uống miễn phí cho nhng người hành hương về lễ Phật và chùa Kỳ Viên lúc bấy gi ước chng có hơn 1000 tăng sĩ tại đây, không lâu sau khi Ngài Huyền Trang đến đây thì đã rơi vào trong hoang phế mà ngày nay chúng ta về chỉ còn có nền gạch mà thôi.

 

Ri chùa Kỳ Viên chúng tôi đi thăm thiền viện quốc tế Mahamongkol Meditation Center.

Chúng tôi đến thăm thiền viện quốc tế Mahamongkol Meditation Center do vị N Cư Sĩ Maha Upasika Dr. Bongkot Sitthipol thành lập. Khoảng 15 năm trước bà là người lãnh đạo 1.000 Phật t ti trung tâm Phật giáo Ấn Độ và Nepal, bao gồm Lâm Tỳ Ni, Sarnath, Kushinagar, Gaya và lần đầu tiên là Shravasti.

Vào năm 1996, vị Cư Sĩ Maha Upasika đã mua được 125 mẫu đất phía sau khuôn viên chùa Kỳ Viên, là trung tâm áp dụng những điều luật căn bản Đức Phật Ngài đặt ra và cũng là nơi Đức Phật đã an cư 19 mùa an cư tại đây. Bà đã mang 9,999 cây đa (Banyan) giống t Thái Lan, ngày nay thì tại trung tâm thiền viện đã có khoảng 40,000.

    chụp tại thiền viện quốc tế Mahamongkol Meditation Center

 Mỗi ngày có khoảng 300 du khách đến thăm viếng thiền viện. Khi chúng tôi đến vào gia trưa mọi người phải để giày bên ngoài cổng thiền viện và đi chân đất trên một bãi cỏ rộng mênh mông. Chúng tôi được TT Giác Đẳng hướng dẫn tụng kinh Tam Bảo dưới chân một tôn tượng Phật thật ln trong khuôn viên thiền viện sau đó thì người tri khách của thiền viện hướng dẫn chúng tôi vào chánh điện, nơi đây chúng tôi tụng kinh Tam Bảo và ngồi thiền 15 phút sau đó thì được vị tri khách hướng dẫn đi tham quan thiền viện

 

Ri thiền viện chúng tôi đi thăm thành vương Xá

TT Giác Đẳng giảng: Dọc hai bên đường có nhiều ngôi chùa Phật giáo được xây cất, tại đây có một ngôi chùa Phật giáo Trung Hoa cất rất sm nhưng sau đó bị rơi vào trong hoang phế và người Ấn Đđã chiếm ng ngôi chùa này. Thi Đức Thế Tôn còn tại thế thì ngoài ngôi chùa Racikarama là ngôi chùa của vua Ba Tư Nc mà Ngài Huyền Trang cũng không xác định được vị trí đâu vì thành Xá Vệ bên trong chỉ là hoàng cung không có nhiều di tích liên quan đến Phật giáo, chỉ ngoài thành có hai ngôi chùa ln là hai ngôi chùa Kỳ Viên và chùa Đông Phương thành Xá Vệ. Đức Phật và Chư Tăng buổi sáng thường vào thành Xá Vệ khất thc, theo trong bản s giải của Ngài Buddhaghosa thì thành Xá Vệ thi đó có khoảng 250,000 thị dân là một thủ đô tương đối ln thi bấy gi, ngày hôm nay một thành phố có 250,000 dân thì là thành phố nhỏ. Người ta đang trùng tu m rộng con đường đi vào thành Xá Vệ. 

                chụp tại nền nhà của ông Cấp Cô Độc

Ngày nay thì thành Xá Vệ rơi vào tình trạng hoang phế hoàn toàn, người ta không biết cho đến khi nào thì khai quật được thành Xá Vệ nhiều hơn na nhưng chc chn dưới vùng đất thành Xá Vệ cha rất nhiều di tích quan trọng. Chính phủ Ấn Đđã có chương trình bảo vệ cho thành Xá Vệ.

bên trong thành chúng ta vẫn còn hai di chỉ rất quan trọng đối vi đạo Phật đó là tháp đánh dấu ngôi nhà của ông Cấp Cô Độc và bên cạnh còn có tháp kỷ niệm Ngài Vô Não. Ngài Vô Não trước khi xuất gia là một tướng cướp cuồng sát nhưng nh Đc Phật hoá độ tr thành tỳ kheo trong đạo tràng của Đc Phật. Theo các nhà khảo cổ cho biết thì ngôi nhà của ông Cấp Cô Độc ln hơn công viên mà chúng ta được biết rất nhiều, ngày nay thì nha khảo cổ đã làm hàng rào chung quanh để đánh dấu công viên nơi khai quật. Ông Cấp Cô Độc là đệ nhất cư sĩ thi Đc Phật còn tại thế về phía bên nam giống như và Visakha là đệ nhất cư sĩ về phía bên n và ông đặc biệt đóng một vai trò rất quan trọng trong vai trò hộ pháp. Có rất nhiều giai thoại liên quan đến ông Cấp Cô Độc như qúi Phật t khi đọc nhng bài kinh như hồi nãy chúng ta đọc là "Như vầy tôi nghe một thi Đc Thế Tôn ng tại Kỳ Viên tịnh xá của ông Cấp Cô Độc" thì chúng ta thấy rằng tên của ông gắng liền vi nhiều bài kinh. Chúng tôi chỉ muốn nhắc lại một giai thoại ông là một thương buôn thì công việc làm ăn có lúc thăng có lúc trầm, đa số trong cuộc đi của ông thì ông rất giàu có nhưng cũng có một lần vì ông quá lo Phật s và ít có lo việc buôn bán nên tài sản của ông bị khánh tận, thì theo trong kinh nói rằng lúc bấy gi kinh tế đây cũng khó khăn và bản thân của ông gặp nhiều khó khăn, tuy nhiên ông vẫn gi phận thủ thường, ông sống rất đơn giản, ăn cơm vi muối, thì có cơm có cháo ông vẫn cúng dường Đc Phật cơm cháo, hình ảnh đó rất đẹp là mặc dầu trong thành có vua Ba Tư Nặc giàu có là vua của một x nhưng khi ông Cấp Cô Độc nghèo thì Chư Tăng vẫn đến đây để thọ thc giống như lúc ông giàu có, không có gì thay đổi, và ông cũng không mảy may gì cảm thấy khó khăn khi mà cuộc sống cá nhân của ông bị khó khăn về tài chánh như vậy. Tại nơi này có một giai thoại rất đặc biệt là năm đó ông Cấp Cô Độc ln tuổi ông cảm thấy ông sống không bao lâu na, ông mi cho người nhà chạy sang chùa Kỳ Viên để trình vi Đc Phật rằng ông Cấp Cô Độc sắp trút hơi th cuối cùng, thì Đc Thế Tôn cùng vi Tôn Giả Xá Li Phất sang đây gặp ông và Tôn Giả Xá Li Phất đã thuyết một bài kinh nói về s vô thường, khổ não, vô ngã của thân ngũ uẩn này, khi nghe xong thì ông Cấp Cô Độc chảy nước mắt, Tôn Giả Xá Li Phất Ngài hỏi một cách trc tiếp "Có phải là đạo hu có điều gì hối tiếc không?" thì ông Cấp Cô Độc nói không có điều gì hối tiếc mà chỉ khi nghe xong ông rất xúc động và chảy nước mắt vì tại sao t xưa đến gi ông không được nghe bài kinh như vậy, thì Tôn Giả Xá Li Phất ôn tồn trả li rằng bài kinh đó là bài kinh đặt nặng về tính chất tu thiền, thường chỉ đọc cho nhng vị xuất gia, khi đó ông có một li thỉnh cầu là "Bạch Tôn Giả, người cư sĩ có thể nghe và có thể được nhiều li ích t nhng bài kinh như vậy, nên xin thỉnh qúi Ngài nên giảng dạy điều đó cho người cư sĩ về sau này." Thì đó là li khẩn cầu của ông trước khi ông nhắm mắt trút hơi th cuối cùng tại đây. Chúng ta cũng có câu chuyện liên quan đến chùa Kỳ Viên trong đó có câu chuyện liên quan đến ông Cấp Cô Độc.

 

Tháp kỷ niệm Ngài Vô Não.

TT Giác Đẳng giảng: Ngài Vô Não là người xuất thân t thành Xá Vệ, cha là vị đại thần của vua Ba Tư Nc, khi bà mẹ va sanh Ngài thì các vũ khí trong kho t nhiên sáng lên, ngày hôm sau người ta bàn vi nhau có lẽ là điềm bất tường cho vương quốc Kosala và nhng vị Bà La Môn mi bàn là hãy coi gi đó có đứa bé nào sanh ra đời thì phải tìm bt đứa bé thì quả thật là cha của Ngài Vô Não là vị quan đại thần đã m đứa bé đến trình vi nhà vua là chính đứa nhỏ này khi sanh ra thì vũ khí trong nhà sáng lên, các vị quan đại thần khuyên nhà vua là nên giết đứa nhỏ nhưng vua Ba Tư Nc phản đối một cách mạnh mẽ, nhà vua nói đứa bé vô tội và cha mẹ của Ngài Vô Não đã nuôi Ngài và đặt tên là Ahimsa có nghĩa là vô hại, ý là để Ngài lớn lên không có sát sanh không hại ai

             Phái đoàn chụp tại tháp kỷ niệm Ngài Vô Não

 
 Ln lên Ahimsa khôi ngô tuấn tú có trí tuệ và có sc mạnh, và người cha cương quyết là làm sao cho đứa con mình tr thành người hiền lương nên đã gi Ngài sang x Taxila để học tại trường đại học đó, và đến học thì được thầy rất thương vì thông minh, nhưng bị nhng người bạn ganh tỵ mi nói vi thầy rng Ahimsa mỗi lần chơi vi ai thì nói là mai mốt còn giỏi hơn ông thầy, thì một lần, hai lần, một người, hai người, ba người nói như vậy thì ông thầy tin và ông có s đố kỵ vi Ahimsa, ông nghĩ rng người học trò này rất thông minh không phải dễ dàng để mình triệt hạ nên ông mi nói rng:

"Thầy có một pháp thuật rất cao cường nếu con luyện được pháp thuật này thì con tr thành người trác tuyệt trong thế gian này nhưng con phải làm một điều mà thiên địa không dung được đó là làm sao để có được một sâu chuỗi kết thành bi 1000 ngón tay và mỗi một ngón tay phải t một người mà do chính con giết người đó tc là muốn làm xâu chuỗi đó phải giết 1000 người."

 Ông Ahimsa đã tr về quê hương của mình là x Kiều Tát La biên gii x Kosala và trong một khu rng đã tàn hại nhng người th săn tất cả là 999 người và mỗi một người chỉ lấy một ngón tay út rồi kết thành tràng ngón tay do vậy ông có tên là Angulimala. Angulimala trong ch Hán là Ưu Ma Quật có nghĩa là tướng cup có tràng chuỗi bng ngón tay. Về sau này Angulimala được gp Đức Phật và được Đức Phật độ Angulimala trong một giai thoại chúng tôi sẽ kể sau. Nhưng khi Angulimala tr thành tỳ kheo thành Xá Vệ này thì cũng do Đức Phật Ngài can thiệp vi vua Ba Tư Nc để không truy cu Ngài Angulimala là một tướng cướp trước kia. Có một lần tỳ kheo Angulimala đi khất thc t chùa Kỳ Viên đi vào thành khi đi đến một chỗ Ngài Angulimala nghe tiếng kêu khóc rất thảm thiết của một người phụ n và Angulimala đã dng lại hỏi người chung quanh là có chuyện gì thì được biết đó là một sản phụ đang bị sanh khó. Thi đó không có bác sĩ như bây gi do vậy một

                 chụp tại Hương Thất của Đức Phật

 phụ n sanh đẻ thì chịu rất nhiều khổ s. Ngài bỏ chuyến đi khất thc và tr về chùa Kỳ Viên bạch vi Đức Phật:

"Bạch Đức Thế Tôn, trên đường con đi khất thc đã gp một sản phụ sanh con rất khó và kêu gào thảm thiết, con thấy trc ẩn mà con không biết phải làm gì." Đức Phật trả li rng:

"Con hãy đi đến chỗ đó và con hãy nói lên một li chân thật và phát nguyện li đó sẽ là năng lc giúp cho sản phụ."

Rồi Đức Phật Ngài dạy Ngài Angulimala câu kệ:

"T khi tôi sanh ra ti gi thì chưa có một ý tưởng và chưa có làm tổn hại một sanh linh nào, thì xin cho li chân thật này, xin cho chị được bình an."

Ngài Angulimala nghe câu kệ đó thì Ngài bạch vi Đức Phật."Bạch Đức Thế Tôn con là một người vi bàn tay đẫm máu trước khi xuất gia thì làm sao nói như vậy được."

Đức Phật Ngài nói rng: "Nếu như vậy thì con hãy nói rng: T khi con sanh ra trong ra gia đình bậc thánh ti bây gi thì chưa bao gi làm tổn hại sanh linh nào." 

  Ngài Angulimal đã học câu kệ đó của Đức Phật tc là "t khi sanh ra trong gia đình bậc thánh ti bây gi thì chưa bao gi hại bất c sinh linh nào xin nguyện vi li chân thật này xin cho người được bình yên" và Ngài đã đi tr lại và Ngài xin vi gia chủ cho Ngài đứng cách người sản phụ một bc màn và Ngài nói lên li này cho người sản phụ nghe lập tc người sản phụ hết đau đớn và sanh được hài nhi mẹ tròn con vuông. Câu chuyện đó đã tr thành giai thoại và câu đó tr thành câu kinh cầu an mà ngày nay chư tăng nhiều quốc gia vẫn còn tụng câu kệ đó. Tại đây đánh dấu một tướng cướp hoàn lương không làm hại người khác mà con cu rỗi được người khác.

Lễ cúng xá li Phật tại chùa Kỳ Viên.

Buổi chiều chúng tôi có một buổi lễ cúng dường Xá Li Phật tại chùa Kỳ Viên. Tại chánh điện chùa Kỳ Viên có 108 bc tranh vẽ liên quan đến cuộc đời của Đức Phật trên tường tuyệt đẹp, TT Giác Đẳng đã giảng giải tng bc tranh một cho chúng tôi nghe.

                      Cây Bồ Đề tại chùa Kỳ Viên

 Đến gi chiêm bái Xá Li Phật thì chúng tôi mỗi người đội một mâm hoa dâng lên bàn Phật. Nhng hương hoa đã được bà Linh và các Phật t chùa Pháp Luân phát tâm cúng dường. Chúng tôi tuần ttiến đến bàn th Phật nơi để Xá Li Phật, vSư Cả giở chiếc khăn phủ hộp đựng Xá lợi Phật, và ch tng người chúng tôi đến gần Ngài rọi đèn pin vào hộp Xá Li Phật, tay kia cầm cây nhỏ như cây viết có mũi tên nhọn chỉ vào ngọc Xá lợi nhỏ xíu. Tôi lạy xuống đảnh lễ Xá lợi Phật rồi mới qùy lên chăm chú nhìn vào mũi tên nhọn chỉ vào viên ngọc Xá Li sáng rực long lanh do ánh đèn của Ngài Sư Cả rọi vào. Sau đó mọi người lần lượt được vị Sư Cả để cái đỉnh đựng Xá Li Phật lên đầu và Ngài tụng kinh ban phước lành cho mỗi người. Lần đầu tiên trong cuộc đời tôi được chiêm bái Xá Li, mc dầu t lâu tôi được biết Xá Li Phật qua nhng bài viết và hình ảnh trên Internet nhưng chưa bao gi được phước duyên để chiêm bái và đây là một phước duyên ln trong dịp đi hành hương do TT Giác Đẳng hướng dẫn lần này. Trong lúc Phật t chiêm bái Xá Li thì chúng tôi được TT Giác Đẳng hướng dẫn tụng kinh Chiêm Bái Xá Li, không khí thật là trang trọng và thành kính. Và một s việc đã thật s xúc động trong tôi đó là khi mọi người xếp hàng tuần t lên chiêm bái Xá Li Phật thì tôi nhìn thấy ông xã là người đi sau cùng, anh đi chầm chậm hai tay chp trước ngc, mt thì nhìn xuống đất trước mt và vẻ mt hết sc thành kính tiến đến nơi để Xá Li Phật, hình ảnh thành kính của anh đã làm tôi dâng lên nỗi xúc động, tôi nghẹn ngào nhìn anh mà nước mt rưng rưng vì lòng thành kính của anh đối vi Đức Phật mà đây là lần đầu tiên tôi thấy hiện bày trên khuôn mt của anh, bây gi nhc lại tôi vẫn còn cảm xúc nghẹn ngào, có lẽ đây là hình ảnh xúc động nhất đã làm chao động lòng tôi của suốt chuyến đi 20 ngày này và mang trong tâm tôi suốt cuộc đời còn lại của tôi về người bạn đường hiền hoà này. Sống xa quê hương t hồi còn trẻ, trên đất lạ quê người khó tìm được một cảnh chùa nên tôi thường tìm hiểu Đạo Phật qua kinh sách, nhưng ông xã tôi thì lại ít siêng đọc sách do vậy anh hiểu rất ít về Đức Phật và Giáo Pháp của Ngài cho nên tôi vẫn thường nguyện rng phải có một lần được đưa anh đến x Phật để mong anh có được phước duyên vi Phật, và thật là may mn trong chuyến hành hương do Thầy tổ chc kỳ này thật là đầy đủ phước s nên chúng tôi đã ghi danh tham d. Và tại đây hình ảnh anh vi tâm thành đảnh lễ Xá Li Phật đã làm tôi vô cùng xúc động.

 Sau phần cúng dường Xá Li Phật chúng tôi bước qua cánh đồng ruộng phía sau chùa nơi có hồ nước mà tương truyền rng hồ nước này là nơi nàng Cinca bị đất rút chôn sống vì nàng phạm tội vu khống Đức Phật làm nàng mang thai. Bây gi hồ nước vẫn còn chung quanh là ruộng lúa nhưng tại đây đất thấp trũng xuống chỉ thấy sình và nước.

Ri chùa Kỳ Viên chúng tôi đến viếng nơi Đức Phật thị hiện thần thông để giáo hóa ngoại đạo:

TT Giác Đẳng giảng: Năm 1988 khi chúng tôi đến Ấn Đđi ngang nơi này thì chỉ có một ngọn đồi duy nhất tồn tại nơi đây nm trong bình nguyên mênh mông của x Kiều Tát La. Trước kia nha khảo cổ có một chút nghi ng tại vì ngọn đồi này theo ký s của Ngài Huyền Trang

                 Lễ cúng dường Xá Lợi tại chùa Kỳ Viên

cho rng tại ngọn đồi này có một ngọn tháp rất ln do vua Ba Tư Nc xây cất đánh dấu nơi Đức Phật thị hiện thần thông nhưng ngày nay thì người ta không thấy ngọn tháp đó mà chỉ có ngọn đồi này mà thôi, nhưng sau cùng do s vận động của rất nhiều người cuối cùng nha khảo cổ Ấn Đđã bt đầu khai quật phần trên và khi khai quật phần trên đem phần đất ra thì hiện ra nền gạch như bây gi, dưới là một khối gạch rất ln nhưng người ta chưa khai quật hết do đó chúng ta không thấy.

Một s việc rất thú vị là thi Đức Phật còn tại thế năm đó Ngài 72 tuổi thì có một s việc xảy ra là có một trưởng giả rất giàu có, vị trưởng giả này nói rng nghe nói nhng vị tu sĩ có vị giáo chủ có thể hiện thần thông nhưng thật ra xưa nay không thấy ai có thần thông hết, ông nghĩ rng người ta chỉ t xưng như vậy mà thôi, và ông đã xuất tiền ra mua một bình bát bng cây trầm đỏ rất ln đồng thi ông kiếm nhng cây tre rất cao và chp thành một cây sào rồi ông treo cái bình bát lên sào cao và nói rng:

 

"Cái này leo lên thì rất là khó leo chỉ có nhng người có thần thông mi leo lên lấy cái bình bát được mà thôi, nếu thật s trên thế gian này có người có thần thông thì thật s có thể lên lấy cái bình bát này."

Ông treo trong bảy ngày không ai lên lấy cái bát đó, sau đó ông mi tuyên bố mọi người rng nhng vị samôn chỉ khoát lác ch không có thần thông, thì có một vị tỳ kheo đệ t Phật chỉ là một phàm tăng thôi nhưng tu hành đắc thần thông, vị này đi khất thc nghe thấy như vậy thì nghĩ rng "nếu vị trưởng giả này có s thách đố như vậy mà không ai lấy bình bát xuống thì quần chúng càng lúc càng tin vào tà kiến", do vậy vị này thị hiện thần thông lên lấy cái bình bát xuống, quần chúng xung quanh reo hò và tin đó lan truyền vào thành Xá Vệ và đến tai Đức Phật Ngài. Đức Phật nói là các vị tu sĩ không được làm 

tại nền toà tháp nơi Đức Phật thị hiện thần thông giáo hóa ngoại đạo

  như vậy và t đó về sau Đức Phật cấm chư vị tỳ kheo thi triển thần thông, nhng người ngoại đạo nói rng: "Đức Phật không có thần thông ch nếu Ngài có thì Ngài không cấm như vậy." Đức Phật Ngài nói vi vua Ba Tư Nc rng Ngài sẽ biến hiện thần thông để cho nhng người ngoại đạo thuần phục thì vua Ba Tư Nc hỏi Đức Phật là tại sao Ngài cấm chư tỳ kheo thị hiện thần thông mà Ngài lại thị hiện thần thông thì Đức Phật trả li rng có nhng điều có thể làm được.

Trưa hôm đó Đức Phật đến nơi này và Đức Phật dạy mang đến cho Ngài một trái soài, trái soài được cúng dường Đức Thế Tôn ăn tráng miệng, sau khi Ngài dùng xong thì Ngài để hột soài xuống đất và hột soài t mọc thành cây soài ln dần ln dần, thì Ngài nhìn vào cây soài ln rất là nhanh chóng giống như chúng ta xem phim mà xem chậm. Sau đó Đức Thế Tôn hiện thần thông ra bng một vị Phật có lc rất đặc biệt là song thân (yamaka) tc là t trong lỗ chân lông của Ngài một lúc phun ra nước và la. Thật ra nguyên tc thi triển thần thông là một người muốn biến hiện thần thông nước thì phải nhập vào đề mục nước, nếu muốn biến hiện thần thông la thì phải nhập vào đề mục la, nhưng Ngài có thể một lúc đổi qua đổi lại rất nhanh chóng do đó t lỗ chân lông của Ngài có thể phun ra va nước va la,  phép thần thông đó gọi là yamaka chỉ có vị Chánh Đẳng Chánh Giác mi có thể làm được mà thôi, đó là hạ th bảy sau khi Đức Phật Ngài hiện thần thông thì Ngài lên cung tri Đao Li đđộ Phật Mẫu và sau ba tháng an cư Ngài xuống vùng đất Sankassa gần New Dehli, ngày nay tại Sankassa còn di tích đánh dấu nơi Đức Phật tr về t cung tri Đao Li.

 Đức Phật đề cập đến là có ba loại thần thông: biến hiện thần thông thí dụ như phi hành trên hư không hoc biến thế này thế kia, thần thông thứ hai gọi là tha tâm thông tức là có thể đánh trúng vào thị hiếu sở thích của quần chúng thí dụ như những người quảng cáo hàng hoá họ biết thị hiếu của quần chúng họ bán được hàng hoá chúng ta gọi là tha tâm thần thông, thần thông thứ ba là giáo hoá thần thông tức là thần thông bng con đường giáo dục thí dụ như một đứa nhỏ hư mình ngồi xuống để dạy nó để nó trở thành người tốt. Thì trong ba thứ thần thông này Đức Phật tán thán hạnh giáo hóa thần thông, tại vì nếu mà thời Đức Phật còn tại thế mà Ngài chỉ thị hiện sự biến hiện thần thông để cảm hóa mọi người, lúc đó người ta thấy được thần thông của Đức Phật họ tin theo Đức Phật mà Đức Phật không dạy giáo pháp thì người đời sau chúng ta không có gì để học không có gì truyền đạt lại cho chúng ta được. 

chụp tại chân đồi nơi có toà tháp Đức Phật thị hiện thần thông giáo hóa ngoại đạo

 Do vậy Đức Phật nói rất rõ là con đường Phật Pháp là con đường giáo dục, bản thân của Đức Phật Ngài có thần thông nhưng Ngài x dụng con đường giáo dục là Ngài nêu cao hạnh lành Ngài truyền dạy nhng điều mà tỳ kheo, tỳ kheo ni, thiện nam tín n đều có thể học được ch không phải lúc nào cũng dùng niềm tin của người khác. Phật pháp thì có nhiều khuynh hướng đôi khi chúng ta tìm khuynh hướng dị đoan linh thần có tánh cách là làm sao để chúng ta tăng trưởng niềm tin. Nhưng câu hỏi chúng ta đặt ra một điều như vầy là nếu có điều gì linh hiển mà cha mẹ tin được mà không thể truyền niềm tin lại cho con thì nó sẽ mất vì nó chỉ được một đời mà thôi, cái gì mà cha mẹ học được và hành được mà dạy lại cho con thc hành được thì đó mi là con đường giáo dục thật s. Chúng ta lấy ví dụ bây gi qúi vị nói rng qúi vị cầu nguyện như thế nào đó mà qúi vị được tiền bạc hay được cái gì đó, thì sau đó niềm tin đó không trao được cho con cái nhưng nếu qúi vị học hỏi điều gì đó có phương pháp có hệ thống đàng hoàng như phương pháp tu tập tâm t, phương pháp tu t niệm x thì điều đó có thể truyền đời này sang đời kia được. Do đó con đường của Đạo Phật là con đường da trên s giáo dục để chuyển hoá đời sống.

Đức Thế Tôn đã thị hiện thần thông tại đây đó là mùa an cư th bảy sau đó Đức Thế Tôn lên cung tri Đao Li để thuyết pháp độ Phật Mẫu là hoàng hậu Maha Maya. Trong kinh nói rng ngày gi Cung Tri Đạo Li khác vi ngày gi của chúng ta, trần gian ba tháng thì trên đó chỉ bng một ngày thôi do vậy khi Đức Thế Tôn lên đó thuyết một bài pháp xem ra bài pháp dài ba tháng ở nhân gian nhưng chỉ bng một ngày cõi tri độ Phật Mẫu đđền ơn tại vì sau khi Đức Thế Tôn ra đời thì bảy ngày sau Phật Mẫu qua đời t đó về sau Ngài không gp Phật Mẫu na, hoàng hậu Maha Maya là một người đại ân đại đức đối vi Đức Phật nên sau khi Ngài thể hiện thần thông thì Ngài lên cung tri Đao Li đđộ Phật Mẫu thì việc Ngài lên cung tri Đao Li đđộ Phật Mẫu ngay cả Ngài Huyền Trang khi đến đây cũng thấy rng đó là s kiện rất trọng đại, và trong ký s của Ngài Huyền Trang thì ngọn tháp nơi Đức Phật thi triển thần thông để cảm hoá ngoại đạo thì cao nhất thành Xá Vệ, chúng ta không biết cao bao nhiêu nhưng đại khái nền tháp mà ngày nay chúng ta thấy là một ngọn đồi thì rất có thể ngọn tháp khi chưa sụp đổ thì còn cao hơn na. T nền tháp này mà chúng ta có thể nhìn thấy bình nguyên mênh mông của vương quốc Kiều Tát La tc là vương quốc Kosala một vương quốc rất trù phú về nông nghiệp thi Đức Thế Tôn còn tại thế và cũng là dịp đặc biệt đây là lần đầu tiên mà chúng tôi lên ngọn tháp này nhìn hoàng hôn của thành Xá Vệ.


Trình bày: Minh Hạnh và Nguyễn Văn Hòa

Trở về Trang Ðề Án Tháng 05, 2010

Ðầu trang