Hành Trình Tâm Linh - Rajgir - Bodh Gaya |
|
Minh Hạnh phóng sự "Ngày 29 tháng 3 năm 2010 - từ Rajgir - Bodh Gaya. Chúng tôi rời khách sạn rất sớm để lên đường về Bồ Đề Đạo Tràng, xe bus chạy trên con đường xa lộ liên tỉnh, xa lộ này sẽ dẫn chúng tôi đi từ tỉnh bang Uttar Pradesh và Bihar đến Patna và về Bồ Đề Đạo Tràng. Đây là đoạn đường khá dài mà chúng tôi sẽ phải đi qua. Trên xe bus lời giảng Phật Pháp của TT Giác Đẳng liên tục để nhắc nhở chúng tôi về chuyến hành hương lịch sử này. -- |
|
TT Giác Đẳng: Buổi sáng tại chân núi Hi Mã Lạp Sơn khí trời lạnh, xe chạy ngang qua thánh địa nơi Đức Thế Tôn nhập Niết-bàn nhìn thấy mặt trời mọc ở trên thánh địa với những hàng cây xanh mướt và có phái đoàn Phật tử người Tích Lan đang tiến vào bên trong đền thờ Đức Thế Tôn viên tịch giống như ngày hôm qua chúng ta đã đi đến đây. Những hình ảnh như vậy nếu chúng ta đem vào lòng thì chúng ta sẽ nhớ về một đất nước Ấn Độ, bất kể ở bên ngoài ra sao nhưng vào bên trong thánh địa là cả một thế giới khác biệt với cái mà chúng ta thấy ở bên ngoài hàng rào. Bây giờ thì chúng ta đang tiến ra phía cổng của Thánh địa, một lần nữa bên tay phải là chùa Miến Điện, trước mắt chúng ta là chùa Linh Sơn, nhhìn những ngôi chùa mà chúng ta đã thăm viếng vào buổi sáng mặt trời mọc, thật ra thì đây là những cảnh rất đẹp, đó là những phần thưởng cho chúng ta trong những chuyến đi dài. |
TT Giác Đẳng giảng Pháp cho Phật tử trên xe bus trên đường từ Kusinara đi Vaishali |
Sau khi rời ở đây khoảng chừng 10 phút chúng ta sẽ cùng nhau tụng thời kinh xong thì chúng tôi sẽ nói câu chuyện của Ấn Giáo (Bàlamôn giáo.) Chúng ta đến nơi này thì không thể không biết về Balamon giáo bởi vì Balamon giáo có một gốc rễ ăn sâu vào nền văn hóa cũng như lịch sử của Ấn Độ từ xa xưa, xưa đến nỗi mà sử sách chưa có, lịch sử chưa viết thành sách và cho đến ngay cả bây giờ không hiểu được Bàlamon giáo hay là Ấn Giáo thì chúng ta sẽ không hiểu được nhiều ý nghĩa ở trong kinh điển Phật Giáo cũng như là cuộc sống của người Ấn Độ ngày hôm nay. Mặt trời mọc ở trên Thánh Địa. Cũng là một điều lạ, có lẽ không có nơi nào khác ở trên thế giới này khi chúng ta đến mà được nhắc nhiều về cảnh mặt trời mọc và mặt trời lặn. Có lẽ một phần là vì thời tiết ở tại đây, một phần vì người Ấn Độ từ thời rất xa xưa họ đã có nghi thức thờ cúng mặt trời. Tập tục này đã ảnh hưởng rất sâu xa đến một số những quốc gia như Ai Cập hay Ba Tư ngày xưa có đạo thờ mặt trời nếu chúng ta đọc những tài liệu về kim tự tháp, ví dụ như những khu lăng mộ của các vị vua pharaoh của Ai Cập, thờ mặt trời là một ở trong những tín ngưỡng rất quan trọng. Có một số học giả thì nói rằng trong Tịnh Độ Tông có một từ là Vô Lượng Quang Phật, Đức Phật A Di Đà có danh hiệu là Vô Lượng Quang và Vô Lượng Thọ. Trong đạo thờ mặt trời của người Ấn Giáo gọi mặt trời là thần Suriya là Vô Lượng Quang. Đó là một trong những sự trùng hợp. Phái Hoả giáo tức là đạo thờ lửa đạo thờ mặt trời là một trong những quen thuộc của đạo Balamon hay đạo Ấn Giáo, nên ngày nay chúng ta được biết có một số những nghi lễ của người Ấn Độ cũng dựa vào hình ảnh của mặt trời, hoặc mặt trời mọc lên hoặc lặn xuống tức là dầu là bình minh hay hoàng hôn cũng vậy. |
Chúng ta đã đến Varanasi, đã có dịp đi thuyền ở trên sông Hằng và chúng ta có thể nhìn thấy cảnh buổi sáng những tu sĩ Bàlamon, những người Ấn Giáo ra các bến tàu để tụng những câu thần chú và cầu nguyện khi mặt trời mọc, đó là một trong những sắc thái, và chúng ta tìm thấy sự giải thích là tại sao mặt trời mọc tại đây lại có ý nghĩa lớn với người dân nơi này. Chúng tôi nhớ những năm đầu tiên sang đây trong chuyến đi do Thầy Huyền Diệu tổ chức, thường đến những ngôi chùa thì Thầy hay mời lên sân thượng kể cả chùa Việt Nam Quốc Tự để nhìn ngắm mặt trời mọc buổi sáng và lúc đó nhiều người tự hỏi rằng mặt trời ở Ấn Độ có gì đặc biệt hơn ở những nơi khác, nhưng mà thưa qúi vị, chúng tôi cũng cảm nhận được một điều là ở trên Thánh địa buổi sáng sớm nhìn mặt trời mọc lâu ngày cũng cho chúng ta một ấn tượng về một sự bắt đầu của một ngày mới như câu nói của chúng ta là "Nhật tân, nhật tân, hữu nhật tân." Nhưng mà chẳng những một ngày mới mà mặt trời là một trong những hình ảnh quang rạng khó có những thứ khác để so sánh được. |
Thánh địa buổi hoàng hôn |
Bây giờ
không phải vì chúng ta thờ
phượng mặt
trời mà tụng
kinh buổi sáng, nhưng
chúng ta sẽ tụng một thời
kinh buổi sáng để
bắt đầu
cho một hành trình đi
xa nhưng rất
thú vị bởi
vì con đường
từ đây
đến
Vaishali tương
đối là êm
ả, chúng ta đến
Vashali một thành phố lịch sử,
thành phố đó
sẽ để
lại cho chúng ta hình ảnh rất đáng
ghi nhớ cho chuyến
đi này. Chúng
tôi muốn qúi Phật tử
chuẩn bị kinh tụng, sau phần kinh
tụng thì chúng tôi sẽ nói về Ấn
Giáo.
Sau phần tụng kinh TT Giác Đẳng bắt đầu giảng về Ấn Giáo TT Giác Đẳng: Trước nhất chúng ta nên bắt đầu chữ Hindu, ngày nay chúng ta thường gọi là Ấn Giáo, chữ Hindu đó là vốn một với Bàlamon giáo vốn được nhắc ở trong kinh điển của Đạo Phật. Balamon giáo âm từ chữ brāhmana, có khi âm từ tiếng Sanskrit là Bràhamana. Chữ Brah nghĩa là thanh tịnh trong sạch, thí dụ như Brahmacharya nghĩa là Phạm hạnh. Chữ Bràhmana nghĩa là Bàlamon hay âm là Phạm Chí. Chữ Phạm nghĩa là trong sạch. |
Ngày nay thì chúng ta ít nhắc đến khái niệm này, mặc dầu ở tại Ấn Độ họ nói đến rất nhiều nhưng ở ngoài thì họ gọi là Hindu. Người Balamon họ quan niệm Thượng Đế tức là Phạm Thiên là chủ thể của thế giới này và chữ Phạm Thiên được hiểu như một thần linh ở mức độ cao vợi nhất, mức độ đó gọi là thanh tịnh. Có khi người ta tạc tượng Phạm Thiên bốn mặt tượng trưng cho một người có bốn đức từ bi hỉ xả, như chúng ta nhìn thấy hình ảnh Phạm Thiên được khắc tại đền Angkor Watt ở Cambochia hay ở một số các đền đài tại Ấn Độ. Quan niệm này tương đối là cao siêu hơn nếu chúng ta so với những quan niệm thần ngã khác, thông thường thì những quốc gia khác hay những đạo giáo khác khi nói về Thượng Đế người ta chỉ nói đến một đấng tối tôn sáng tạo chủ, nhưng mà người ta không nói đến đấng thanh tịnh ví dụ như trong kinh Cựu Ước người ta đưa ra những hình ảnh Thượng Đế có lúc nổi giận, Thượng Đế có những lúc đòi hỏi loài người phải vinh danh ngài, điều đó không có trong hình ảnh Thượng Đế của Ấn Giáo hay Balamon Giáo. |
Kusinara buổi bình minh |
.Ấn Giáo tôn thờ Thượng Đế đấng Brahama do đó họ gọi là Balamon. Bràhmana được âm là Bàlamon có khi được âm tắc là Bàn môn, giống như trong tiếng Việt Nam có thành ngữ "bàn môn tả đạo" nhiều khi chúng ta nghe chữ bàn môn tả đạo thì nghe như tà ma ngoại đạo, nhưng thật ra chữ bàn môn là chỉ cho Balamon, tại vì những người Phật tử xem đạo Balamon là ngoại giáo là Bàlamon, tả đạo là chỉ cho đạo Thiên Chúa. Ví dụ như người ta nói "bình tây sát tả" người Phật tử gọi là tả đạo, do vậy Balamon gọi là bàn môn, nhưng chữ bàn môn là chữ rất tiêu cực, thường trong tiếng Việt chúng ta nói bàn môn tả đạo, đạo mà tà mị gọi là bàn môn, nhưng thật sự chữ bàn môn đó là từ chữ Bràhmana mà ra. Về sau này khi người Hồi Giáo xâm lăng Ấn Độ thì ở trong ngôn ngữ Persian của đế quốc Phổ mà chúng ta gọi là đế quốc Ba Tư người ta có dùng chữ Hindu để chỉ cho đạo Balamon. Tại sao vậy? Tại vì người Hồi Giáo quan niệm chỉ có Thượng Đế và những khải huyền ở trong kinh Koran mới thật sự là chánh giáo, còn những phương pháp những cách thờ cúng của người Ấn Độ như thờ bò hay thờ khỉ hay nhiều quan niệm khác thì họ cho là ngoại đạo tức là không nằm trong chánh đạo, và họ gọi người Ấn Độ theo đạo Balamon là Hindu. |
Chữ đó rất là thú vị tại vì khi người Hồi Giáo cai trị Ấn Độ họ gọi người Bàlamon là Hindu thì họ gọi bằng ý nghĩa rất là tiêu cực là những ngoại đạo, nhưng người Ấn Giáo thì ngược lại, họ thấy chữ Hindu đúng, họ nói quan niệm về sự tu của họ không có cái gì giống với đạo Hồi Giáo, mình khác với Hồi Giáo là đúng, thành ra họ dùng chữ Hindu, về sau chữ này trở nên phổ cập. Tiếng nói của người Ấn Độ họ gọi là tiếng Hindi, đạo của người Ấn Độ là Hindu, tĩnh từ dùng trong ngữ pháp Hindustan, hay cái chất của Hindu cũng gọi là Hindustan. Ngày nay có một nhật báo gọi là hindustan là một nhật báo lớn. Như vậy chữ Hindu không bắt nguồn từ trong tiếng Sanskrit mà bắt nguồn từ tiếng nói của Preußen tức là đế quốc Phổ mà ngày nay chúng ta gọi là Iran tức là Ba Tư khi họ sang xâm lăng xứ này vào thế kỷ thứ 12, và do vậy dần dà ở trong suốt thời đại của các vị vua Hồi Giáo thì một bên gọi là đạo Islām là đạo chính thống của vua chúa tức là đạo Hồi, một bên là đạo Hindu là ngoại giáo. Lý do rất đơn |
Cây cầu b?t ngang sông H?ng |
giản là tại vì họ không biết đạo Balamon giáo thực hành cái gì đặc trưng hoàn toàn là Balamon giáo, A cũng phải, B cũng phải, C cũng phải, kiểu này cũng được kiểu khác cũng được do đó họ gọi chung tất cả những thứ gọi là ngoại giáo. Chúng tôi xin nói lại một lần nữa là chữ Hindu ngày nay là để chỉ cho Bàlamon giáo ngày xưa, ngày xưa chúng ta gọi là Balamon giáo và ngày nay chúng ta gọi là Hindu, và Hindi là tiếng nói được dùng cho Ấn Giáo nhưng Hindi cũng là ngôn ngữ dùng cho cả nước Ấn Độ và do vậy khi chúng ta dùng là Ấn Độ thì chúng ta dùng chữ Hindu là Ấn Giáo và Hindi là Ấn ngữ và Hindustan là những người theo đạo Hindu là từ mà trong Anh ngữ cũng nhưng trong tiếng địa phương họ cũng sài như vậy. Vậy thì khi chúng ta trở lại câu chuyện chúng ta biết chữ Hindu là hậu thân của Balamon giáo tôn giáo hay đương đại là Balamon giáo thì chúng ta đi vào một câu hỏi khác đó là Balamon giáo dạy điều gì? Trước khi nói về Balamon giáo dạy điều gì chúng ta nói về ba đặc điểm của Bàlamon giáo khiến cho đạo giáo này không giống bất cứ tôn giáo nào khác trên thế giới ngoại trừ một vài điểm nhỏ. |
|
1.) Thứ
nhất là Bàlamon giáo không có vị giáo
chủ khai đạo,
trong trường
hợp của Đạo
Phật thì chúng ta nói đến
Đức Phật
một vị Đạo
Sư của chúng
ta ra đời
cách đây 2500
năm, trong trường
hợp Khổng
Giáo chúng ta nói đến
Đức Khổng
Tử, hay là trường
hợp của
Ky Tô Giáo thì có Chúa Jesu, hay tối thiểu
như Do Thái
Giáo thì họ cũng nói đến
thủy tổ của lòai người
như là Abraham
hay ông Jacob, Hồi giáo thì chúng ta nói
giáo chủ Muhammad, riêng trường
hợp của
Ấn Giáo thì không ai biết được,
không ai nói, và không hề có một vị
giáo chủ đầu
tiên. Do vậy ở
trong Ấn Giáo họ thường
nói đến
những vị
Guru còn được
biết là những
vị đạo
sư hay là bậc
chân sư là những
người thực
hành Ấn Giáo trong nhiều thế hệ,
là người
có sở trường
gì đó, do đó
ngày nay trong tiếng Anh chữ
Guru là chỉ cho một Expert một
chuyên gia là bậc thầy để
dạy về điều
gì đó thì gọi
là Guru, và những
bậc Guru này tu đến
trình độ
cao họ gọi là những
Sadhu ví dụ như
trong lịch sử
Ấn Độ
có 80 vị Sadhu ảnh hưởng
lớn như
Narayan và một số những
vị Sadhu khác. Thì đặc
điểu đầu
tiên của Ấn Giáo là họ không có vị
giáo chủ khai sơ
vị giáo chủ khởi
đầu.
|
C?u Mahatma Gandhi |
2.) Đặc
điểm thứ
hai của Balamon giáo là họ không có một
sự bắt
đầu của
lịch sử,
những tập
kinh Vệ Đà
mà chúng ta được
biết ngày nay theo các nhà nhân chủ học
ước tính tại
vì họ dựa
ngữ Pháp, họ
dựa trên những
câu chuyện huyền thoại đọc
trong kinh Vệ Đà
thì họ ước
chừng có từ
4 cho đến
5000 năm, nhưng
trong kinh Bổn Sanh của Đạo
Phật thì có một số ghi nhận có
lẽ là kinh Vệ Đà
còn xưa hơn
nữa, xưa
hơn có nghĩa
là nhiều ngàn năm
trước khi Đức
Phật ra đời
vì tiền thân của Ngài đã
từng sanh trong
những gia đình
Balamon thông hiểu kinh Vệ Đà,
và như vậy
kinh Vệ Đà
có rất lâu. Chúng ta được
biết như là
những tập
Mahabrarata hay tập Upanisad là Áo Nghĩa Thư
thì những tập
thánh thi này đã
nói lên nguồn gốc khởi
đầu của
Ấn Độ
từ thần
Rama xuống trần rồi có những
cuộc tình với
nàng Sita (Radhà) và có nhiều huyền thoại
khác, nó tương
tự như
chuyện Lạc Long Quân và Âu Cơ.
Những câu chuyện
trong Rig Véda thì nói nhiều về sáng thế
ký nói nhiều về sự
khởi thủy
của Ấn Độ,
điều đó
đã được
chấp nhận thọ trì rất lâu. Thời
Đức Thế
Tôn ra đời
cách đây 25 thế
kỷ thì Bàlamon giáo đã
có một hệ thống kinh điển
hoàn chỉnh, ví dụ qúi vị nghe đến
những Balamon như
Balamon Bramadu, Balamon Bramaya là những
người thông
hiểu tam Vệ Đà
tức là trước
khi Đức Phật
ra đời thì
Balamon giáo đã
có một hệ thống kinh điển
cố định
chứ không phải
là một tôn giáo có tánh cách phôi thai.
|
|
3.) Đặc điểm thứ ba của Balamon Giáo thì giống đạo Do Thái một chút, giống Do Thái về điểm là gắng liền với sắc tộc, nói rõ hơn Balamon Giáo là một đạo giáo nói thì rất rộng lớn nhưng gắng liền với bốn giai cấp của xã hội Ấn Độ. Những giai cấp Thượng Đế sanh ra đời thì có giai cấp Balamon, giai cấp Sát Đế Lỵ, giai cấp Vệ Xá, và giai cấp Thủ đà la. Giai cấp Balamon là giai cấp giáo sĩ, giai cấp Sát Đế Lỵ là giai cấp vua chúa hay chiến sĩ, giai cấp Vệ Xá là giai cấp thương gia người điều hành nguồn máy kinh tế, giai cấp Thủ Đà La là giai cấp nô lệ. Thì cả bốn giai cấp này đều có một giai tầng gắng liền với xã hội và có đặc tình nền văn hóa Ấn. Có nghĩa là những gì mà Balamon Giáo nói về bốn giai cấp này và đem ra cho những nền văn hóa khác như Âu Châu hay Việt Nam hay Trung Hoa thì không trúng vào đâu hết, tại vì quan niệm về giai cấp nó gắng liền với đạo giáo và quan niệm về giai cấp gắng liền với xã hội Ấn Độ. Dĩ nhiên có một số những trường phái của Balamon Giáo được truyền ra xứ khác, thí dụ như trong trường hợp Hari Krisna chẳng hạn thì họ nói nhưng mà họ nói cách miễn cưỡng khi nó vượt qua khỏi biên giới để đi sang những văn hóa khác. |
du?ng vào thánh d?a noi thành l?p ni doàn |
Chúng ta thấy tương
tự như
là nếu qúi vị đọc
Tân Ước thì
lời dạy của
chúa Jesu có tánh cách là vượt
ngoài ranh phận của người
Do Thái, nhưng đọc
Cưu Ước
thì thật sự
là hầu như
thế giới này
được sáng
tạo ra và điều
đó gắng
liền với người
Do Thái, gắng liền
với đất
nước Do Thái,
và đất nước
do Thái là vùng đất
hứa và dân tộc
Do Thái là dân tộc được
Chúa lựa chọn,
thí du như vậy.
Và như vậy đạo
giáo gắng liền
với một chủng
tộc, và điều
này có sức mạnh
của vị ngã nhưng
đồng thời
nó bị hạn hẹp ở
trong một chủng tộc, ở
trong quốc độ
một số người,
đó cũng là
trường hợp
của Balamon giáo.
Quan niệm về bốn giai cấp không đi ra khỏi biên giới của Ấn Độ và sang các quốc gia khác được. Người Ấn Độ họ gọi nhân loại bằng chữ manussa, chữ manussa bắt đầu bằng chữ manu, manu tức là bộ luật manu nói về luật mà con người phải sống theo thiên khải như thế nào, tức là ví dụ Thượng Đế sanh ra cho con người làm nô lệ thì con người phải làm nô lệ, sanh ra con người làm vua thì phải làm vua, như trong chuyện Kiều cụ Nguyễn Du nói là: "Mới hay muôn sự tại trời. Trời kia đã bắt làm người có thân. Bắt phong trần phải phong trần .Cho thanh cao mới được phần thanh cao ." |
|
Tức là nói rằng những người cuộc sống trong xã hội này bất kể đó là sự bất công, sự dĩ biệt giữa giàu nghèo sang hèn, giữa người may mắn bất hạnh tất cả đều do định mệnh an bày. Chúng ta lấy một thí dụ là người Ấn Độ họ quan niệm một người chết đi dù đó là ông thủ tướng hay là một vị vua hay bất cứ ai một nhân vật quan trọng nào thì khi đặt lên dàn hỏa thì người châm lửa phải là người quét đường, họ đi tìm một người nào đó chuyên môn quét đường chuyên môn dọn dẹp đến châm lửa, tại vì sao, tại vì Thượng Đế đã an bày cho người có trách nhiệm dọn dẹp là dọn dẹp thế gian này. Do vậy quan niệm Thượng Đế gắng chặc vào trong lòng người, chưa có một đất nước nào mà nô lệ hóa con người bằng tôn giáo như là Ấn Độ, người Ấn Độ mà thuộc giai cấp hạ tiện mà ngày nay chúng ta gọi là untouchable, cấp cùng đinh thì họ sanh ra trong giai cấp hạ tiện và họ bằng lòng với số phận của họ bởi vì người ta nói rằng Thượng Đế đã cho họ như vậy, Thượng Đế đã dành cho họ một chỗ đứng giữa xã hội loài người là như vậy. Và do vậy Phật tử nghe nói rằng có những người theo lời kêu gọi của bác sĩ Ambedkar cải đạo là từ bỏ Ấn Giáo trở về với Đạo Phật, tại vì đạo Phật không nói đến |
t?i thánh d?a thành l?p Ni doàn |
giai cấp, năm
nào cũng vậy có cả mấy chục
ngàn người từ
Ấn Giáo sang đạo
Phật là bởi
vì họ ở
Ấn Giáo họ không thoát khỏi giai cấp
của họ, và điều
đó cũng giải
thích tại sao người
Hồi Giáo rất thành công khi họ đặt
chân đến
Ấn Độ,
họ xóa bỏ giai cấp và họ kéo theo
một số người
không chịu nổi cái quan niệm về
giai cấp, cái quan niệm về số phận
an bày của Ấn Giáo.
Nói như vậy không có nghĩa là Ấn Giáo là một tôn giáo quan niệm về thần ngã, thần học hời hợt, thật ra thì Ấn Giáo có quan niệm về thần ngã rất là tinh vi, tinh vi bậc nhất ở trong những tôn giáo nói về thần ngã tức là thờ phượng Thượng Đế. Người Ấn Giáo họ cho rằng có ba vị Phạm Thiên, ba vị Phạm Thiên này là ba vị Thượng Đế, là ba vị chủ trì đại cuộc của thế giới tức là vận chuyển máy huyền cơ của thế giới này. Vị đầu tiên là Thượng Đế Bràhma. Thượng Đế Bràhma tức là Thượng Đế sáng tạo, Ngài là người đã tạo ra núi non cây cỏ con người muôn vật thượng cầm hạ thú, đã tạo ra cả thế giới mà chúng ta được biết, Ngài là Thượng Đế sáng tạo Brāhma. Thượng Đế thứ hai là Thượng Đế Vishnu là Thượng Đế duy trì, Ngài hóa hiện trong nhiều hình thức, thí dụ như tại sao người Ấn Độ thờ bò, tại vì họ cho rằng bò cũng là một hóa thân của Thượng Đế Vishnu mang lại sữa mang lại phân mang lại sự sống của con người. Và Thượng Đế Vishnu là Thượng Đế duy trì những gì cần phải duy trì trên thế gian này. Thượng Đế thứ ba là Thượng Đế Shiva là Thượng Đế hủy diệt tức là cái gì không cần thì hủy diệt đi. Nếu Thượng Đế Shiva nổi giận thì Ngài cũng có thể hủy diệt những điều gì chúng ta không tưởng tượng được ví dụ như sóng thần (tsunami), bão (Hurricane), bão tố phong ba v.v... là do Thượng Đế Shiva làm ra. |
|
Thật ra người Ấn Độ quan niệm rằng có ba vị Thượng Đế: Thượng Đế Bràhma - Thượng đế sáng tạo là thuần tịnh, Thượng đế Vishnu là người có lòng đầy bi mẫn, và Thượng đế Shiva được xem là người có khả năng hủy diệt. Giống như quan niệm mà chúng ta gọi là tam đầu chế. Thì thật ra quan niệm này rất thú vị, bởi vì thưa qúi vị là một trận bão như trận bão Andrew thổi vào Florida hay bão Katrina thổi vào in New Orleans, Louisiana, thì những trận bão đó làm xập những ngôi nhà thờ mang lại bao nhiêu sự tổn thất về nhân mạng tài sản, rồi người ta tụ lại những ngôi nhà thờ đổ nát để cám ơn Thượng Đế đã cho họ sống sót. Nhưng mà điều đó đối với những người khác rất là mỉa mai tại vì nếu trận bão là do Thượng Đế tạo nên thì đáng lẽ Thượng Đế đáng nguyền rủa chứ sao lại làm lễ cảm ơn Thượng Đế đã cho mình sống sót và giết đi những người khác làm hư hại tài sản của những người khác, thì thật sự là sự cảm ơn Thượng Đế khi Thượng Đế mà một lúc vừa tạo ra tai ương hoạn nạn cho loài người mà loài người lại cảm ơn Thượng Đế vì đã tha |
t?i thánh d?a thành l?p ni doàn |
mạng cho mình, thì việc đó nó không ổn. Có lẽ từ điều này nên chi người Ấn Độ giáo họ quan niệm không phải chỉ có một Thượng Đế mà có đến ba Thượng Đế, và lời cầu nguyện như vầy là: Cầu nguyện Thượng Đế Bràhma sáng tạo những điều tốt đẹp cho cuộc sống, Thượng Đế Bràhma đã tạo ra trăng, đã tạo ra sao, tạo ra sông núi tạo ra cảnh trí hữu tình tạo ra sự sống, thì xin cầu nguyện Thượng Đế Vishnu duy trì những điều tốt đẹp và cũng xin cầu nguyện Thượng Đế Shiva lấy đi những thứ không tốt đẹp của đời sống, nói chung là có cân bằng quyền lực, có chi có thu, có tạo nên thì cũng có hủy diệt nhưng trách nhiệm không hoàn toàn ở một người. Khi cơn bão đến thì người ta hiểu là cơn thịnh nộ của Thượng Đế Shiva và không ai trách Thượng Đế Vishnu, không ai trách Thượng Đế Bràhma, tại vì mỗi người có vai trò riêng, mỗi một vị chủ thể có một trách nhiệm riêng. Thật ra thì vào thế kỷ 5 trong kinh Phật có bộ kinh ra đời là kinh Hoa Nghiêm cũng có một quan niệm gần giống như vậy nhưng mang tánh Phật nhiều hơn, chúng ta gọi là trong thế giới này có ba thứ năng lực, trong kinh Hoa Nghiêm nói là: Quang minh lực tức là lực của Chư Phật. Thần lực tức là lực của chư thiện thần hộ pháp lực của các vị thiên. Sau cùng là nghiệp lực là lực của chúng sanh. |
|
Kinh Hoa Nghiêm nói về thế giới Hoa Tạng, nói về lăng kính trùng trùng thì trong đó nói rằng những yếu tố này hỗn hợp với nhau, có quang minh lực, có thần lực rồi có nghiệp lực. Thật ra thì khái niệm này cũng ở mức độ nào đó nói lên là thế giới đa phần chứ không phải là thế giới nhất nguyên và thế giới này có ảnh hưởng với nhiều lý do khác nhau thì điều đó vốn đã có mặt ở trong Ấn Giáo từ lâu. Chúng ta nói đến một quan niệm thứ hai của Ấn Giáo và quan niệm này kể ra cũng rất xa lạ với người Tây Phương, quan niệm đó là quan niệm về một thế giới bất nhị, thế giới bất nhị là quan niệm chúng ta gọi là nền tảng căn bản của Bà la môn giáo. Nhiều Phật tử khi nói về thế giới bất nhị thì chúng ta nghĩ rằng đó là một triết lý của Đạo Phật. Nhưng thế giới bất nhị thật ra bắt nguồn từ giáo thuyết mà chúng ta có thể khẳng định rằng đó là giáo thuyết căn bản nhất của Balamon giáo. |
t?i thánh d?a thành l?p ni doàn |
Bởi vì họ nói như vầy; sở dĩ mình thấy có một người đẹp là tại vì có những người khác xấu, nếu không có những người xấu thì không thấy được người đẹp, sở dĩ chúng ta thấy có ban ngày là tại vì chúng ta có ban đêm, nếu không có ban đêm thì không có ban ngày, như câu nói là "Thùy lữ trư dương tàn tịch bộ, tất dung vạn sự thế đô hôi" tức là nếu chúng ta hiểu được là có ánh sáng ban ngày mới có bóng đêm thì chúng ta có thể bao dung cả thế giới này. Thì trong giáo lý bất nhị nói rằng sở dĩ có điều tốt là tại vì có điều xấu, cái tốt cái xấu chỉ là hai mặt của đồng tiền, ví dụ như qúi vị là một người đẹp mà qúi vị ở chung với tất cả mọi người cùng đẹp thì người ta thấy qúi vị không còn đẹp nữa mà thấy qúi vị rất là bình thường, nhưng mà qúi vị là người trung bình thôi nhưng qúi vị ở trong những người đen đúa những người xấu thì người ta sẽ thấy cảm thấy qúi vị đẹp, cũng như có người nói "ở trong xứ mù thì người chột là vua. " Thì ở đây
khi người
ta đề cập
đến thế
giới bất
nhị thì họ nói rằng
tất cả những
quan niệm về tốt xấu, hay dở,
ngày đêm sáng
tối, âm dương,
nó đều là
hai mặt của
đồng tiền,
thấy nó là hai nhưng
nó là một. Bây giờ
họ lấy ví dụ là họ giải
thích Đức
Phật Ngài ra đời
có Đề Bà Đạt
Đa là một
vị đệ
tử đại
nghịch bất đạo,
thì có Đề
Bà Đạt Đa
thì hình ảnh của Đức
Phật mới nổi
bậc lên do đó
Đề Bà Đạt
Đa ra đời
để đóng
vai trò làm cho nổi bậc của hình
ảnh của Đức
Phật. Vì vậy nói cho cùng thì không có
chuyện tốt xấu mà chỉ có người
nào đóng vai đó
thôi. Như trong
một tuồng kịch chúng ta thường
xem kịch thấy có những
người đóng
vai chánh là những
người đóng
vai trung thần, có những
người đóng
vai nịnh thần, nhưng
nhờ có vai nịnh
thần họ diễn rất xuất sắc
rất nhập vai mà chúng ta lại cảm
thấy rất là thích thú đối
với vai trung thần,
nhưng nếu
không có nịnh thần thì không có trung thần.
Nói cho cùng thì không ai tốt xấu hết
mà vấn đề
là diễn xuất có nhập vai hay không, đôi
lúc chúng ta ghét một người
nào đó tại
vì họ đóng
vai ác nhưng chúng
ta càng ghét họ thì chứng
tỏ họ đóng
vai đó rất
là thành công. Thì nói chung trong quan niệm về
giáo thuyết bất nhị thì nói rằng
tất cả những
cái xấu tốt, sáng tối nó là hai mặt
của đồng
tiền và nó không có chuyện gì khác nhau
nó chỉ là câu chuyện của vai trò
thôi, ở vai
nào mà làm xuất sắc
vai đó thì nó
cho chúng ta một phản cảm khác nhau.
|
Thật ra thì về sau này ở
trong Phật giáo Đại
Thừa có quan
niệm là Niết-bàn và sinh tử
không có khác, mà Niết-bàn và sinh tử
vốn là một. Hay là qúi vị nghe nói
về những
điều gọi
là nhất thể tức
là cho dù mọi thứ
trong cuộc đời
này đều
là vạn pháp uy nguyên rồi đi
về nhất thể hết, nó không có
chuyện cao thấp tốt xấu v.v...
thì giáo lý bất nhị nó đã
làm cơ sở
rất quan trọng cho tất cả tính
lý của người
Ấn Độ
tại đây,
tính lý đó dẫn
đến một
thái độ
rất bao dung nghĩa là cái gì mình cũng
có thể chấp nhận được,
nhưng nếu
chấp nhận nhiều quá thành ra thụ
động, chúng
tôi lấy thí dụ là ở
trong xã hội Ấn Độ
tại sao có những
chuyện là ai muốn sao cũng được,
mỗi người
tu kiểu nào cũng được
làm kiểu nào cũng được
và có thể nói là xã hội này tự
do trên phương
diện nào đó
được
chấp nhận nhiều hơn
nơi khác, tại
vì sao, tại vì người
ta tin rằng cuối
cùng thì đường
nào cũng đến
La Mã nhưng mà
mỗi người
có mỗi kiểu mỗi cách khác nhau
thôi, do đó điểm
thứ nhất
là chúng ta nói rằng
thế giới
bất nhị là nền tảng của
Bà la môn giáo.
|
chụp tại thánh d?a thành l?p ni doàn |
Điều
thứ hai là một điều
ảnh hưởng đến
Đạo Phật
rất nhiều, Đạo
Phật phát triển về sau này là sự
thị hiện tức là sự hiển
bày, nghĩa là bày vẽ cho thấy vậy
thôi chứ thật sự không có thật.
Ví dụ, thần Vishnu hiện ra làm rắn,
hiện ra làm khỉ, hiện ra làm bò
thì thật ra bò rắn
khỉ chỉ là phương tiện để
phụng sự và để
cảnh báo loài người cảnh báo
thế gian này thôi và điều
đó chỉ
là phương tiện chứ nó không có
ý nghĩa gì ngoài phương tiện đó.
Dĩ nhiên là cái này chúng ta gọi là hiển
bày tức là cho thấy như vậy thôi
chứ không phải là một cái gì thật.
Điểm này về sau cũng có trong Đạo Phật, chúng tôi lấy ví dụ là bên truyền thống Phật Giáo trong Tam Tạng kinh điển Pali thì Đức Thế Tôn Ngài đi bộ, Đức Thế Tôn Ngài có những lúc bị bịnh, trong truyền thống Pali cũng nói rằng Đức Thế Tôn có một giai đọan Ngài thành đạo dưới cội Bồ Đề và trước khi Ngài thành đạo Ngài còn là vị Bồ Tát thì Ngài cũng có gia đình có vợ có con. Nhưng mà rồi cũng có quan niệm cho rằng Đức Thế Tôn đã thành đạo trong vô lượng kiếp tức là trước khi Ngài ra đời Ngài đã thành Phật rồi, trước khi Ngài thành đaọ dưới cội Bồ Đề Ngài cũng đã thành Phật rồi và trong câu chuyện Ngài là Thái Tử Sĩ Đạt Đa Ngài có gia đình Ngài có vợ có con v.v... chỉ là sự thị hiện hiển bày cho người đời sau thấy chỉ là phương tiện thôi chứ thật ra thì chuyện đó không có ý nghĩa gì thật sự hết. Về điểm này đưa chúng ta đến một cảm giác khác nhau. Giả sử như tất cả những sự kiện liên quan đến cuộc đời của Đức Phật mà chỉ là một sự thị hiện thôi nghĩa là vì phương tiện hiển bày cho thấy thôi thì chúng ta không tìm thấy ý nghĩa vĩ đại. Thí dụ như chuyện Ngài từ bỏ thành Ca Tỳ La Vệ ra đi bất qúa chỉ là một vai trò mà Ngài bày cho người ta thấy thôi chứ không thật sự là một đại nguyện là một sự khước từ vĩ đại. |
|
Nói chung đó là ở trong Balamon giáo quan niệm thị hiện là quan niệm rất rộng lớn, do vậy người Ấn Giáo họ thờ đủ thứ hết, họ thờ đất đá, thờ lửa, thờ mặt trời, thờ rắn, thờ bò, thờ khỉ. Thì quan niệm này nhiều người nghĩ rằng Ấn Giáo là một tôn giáo đa thần, đủ thứ niềm tin đều có thể đem vào trong Ấn Giáo hết, thật sự thì họ bắt nguồn từ một thứ là tất cả đều do biến hiện của Thượng Đế. Chính vì điểm này thì người Ấn Giáo lại có rất nhiều nghi lễ, những nghi lễ đó gắng liền ở trong đời sống của người Ấn Giáo tại đây, người Balamon giáo thì hầu như mỗi ngày họ đều có lễ Vucha tức là lễ cúng thần linh và một năm như vậy họ có rất nhiều ngày nghĩ lễ. Có thể nói rằng vô số sự thờ cúng của người Ấn Giáo bắt nguồn từ hình ảnh là làm sao để hội nhập với Thượng Đế và trở về với Thượng Đế.
|
TT giảng tại thánh địa |
Khi chúng ta nói đến Ấn Giáo thì chúng ta cũng nói đến một đại nguyện khác mà có lẽ về điều này ít có đạo giáo nào giống như họ đó là sự trở về với đại ngã. Trong Ấn Giáo quan niệm rằng Thượng Đế là một đại ngã và chúng ta mỗi người là một tiểu ngã là một cái linh căn, linh căn đó tách rời khỏi đại ngã và trôi dạt ở trong cõi trần này và muốn trở về với Thượng Đế là con người phải bỏ tất cả và kể cả sự tu khổ hạnh, có nhiều pháp khổ hạnh mà chúng ta không thể tưởng tượng được là khổ hạnh như thế nào, nhưng con người bỏ tất cả thì sẽ trở về với Thượng Đế, phương pháp đó cũng ảnh hưởng rất nhiều. Nói về hình thức thì Ấn Giáo có hình thức rất đa dạng nhiều màu sắc và một đặc điểm ở trong Ấn Giáo tức là những thánh thi, qúi vị nào đã đọc Chỉ Tôn Ca (Bhagavadgìtà) thì cũng hiểu được là đó là một trường thi có cả mấy mươi ngàn câu thơ và viết liên tục do đó cái thể gọi là ca vịnh thường được ngâm nga trong các buổi lễ như là để ca tụng Thượng Đế v.v... Nhiều màu sắc thi ca và thế giới của Hindu thật sự là thế giới rất vui vẻ. Có nhiều Phật tử hỏi tại sao mở TV Ấn Độ ra thì thấy họ vũ họ ca như vậy, thật ra thì ở trong giáo điển của Vệ Đà diễn tả đời sống của Chư Thiên là đời sống rất là hỉ lạc, Chư Thiên không phải đi làm như chúng ta, Chư Thiên sống phô diễn sự vui vẻ sự hỉ lạc trong lòng bằng những điệu vũ lời ca, do vậy để sống gần với Chư Thiên loài người cũng có những vũ điệu bài hát. Do vậy trên một hình thức nào mà chúng ta nhìn thấy thì người Ấn Độ họ có một đạo rất chú trọng nhiều về lễ nhạc vũ điệu . Một nhánh của Ấn Giáo là Hari Krisna rất thu hút người Tây Phương, thu hút người da trắng là bởi vì đối với họ con đường đến với Thượng Đế là sống như Thượng Đế do đó ngoài những bài hát những điệu vũ thì họ làm sao cho con người sống được vui vẻ và do vậy có một hấp lực rất lớn đối với những người Tây Phương. Dĩ nhiên chúng ta nói rằng ba thập niên về trước ngày nay thì Hari Krisna không còn mạnh như ban đầu, nhưng thời Hari Krisna mới tràn qua Hoa Kỳ nó đã trở thành một hiện tượng. |
|
Sau phần giảng thì xe bus cũng vừa tới một tiệm ăn bên đường, bữa ăn này rất đặc biệt là tuy vào tiệm ăn của người Ấn nhưng lại ăn thức ăn Việt Nam do các anh chị mỗi người góp một tay phụ nấu với bếp ga và nồi cơm điện của đoàn hành hương, bữa ăn gồm cơm và canh bầu nấu với tôm khô, thêm một món cari gà từ tiệm đem ra. Bữa ăn vừa xong chúng tôi lại tiếp tục lên đường và đến Vaishali sau đó. Vaishali tương đối là một thành phố nghèo, có những căn nhà khi nhìn vào thì không dám nghĩ đó là một căn nhà để người ta có thể ở được, và những căn nhà như vậy rất nhiều trên đường chúng tôi đi qua. Khi đến gần thánh tích thì tương đối quanh cảnh chung quanh khá hơn với nhiều chùa, tháp của nhiều quốc gia Phật giáo được xây dựng tại đây, chúng tôi thấy có chùa Tích Lan, chùa Việt Nam, chùa Nhật Bản với toà đại tháp Hoà Bình. Xe bus dừng tại thánh tích nơi Đức Phật cho phép thành lập phái đoàn tỳ kheo ni. |
Giờ ăn trua tại quán ven đường |
Thánh tích nơi
thành lập phái đoàn
tỳ kheo ni là một khuôn viên rộng lớn
với nhiều
cây cảnh rất đẹp
mắt tuy nhiên đó
là được
bảo trì sau này, ngoài ra là các toà tháp kỷ
niệm xưa còn
lưu lại tuy đã
bị tàn phá nhưng
vẫn còn những
nền tháp và có một trụ đá
đầu sư
tử do vua A Dục
dựng là còn
nguyên vẹn. Khi những
nhà khảo cổ đến
đây thì họ
không thấy cái tháp mà chỉ thấy đầu
con sư tử
nằm trên một
ngọn đồi
nhưng khi khai quật
thì hé lộ cho biết là trụ đá
của vua A Dục đánh
dấu nơi giáo
đoàn tỳ kheo
ni, có hồ nước
kế bên tháp trước
kia Đức Phật
và Chư Tỳ
kheo tắm vào buổi
trưa, được
biết là hồ này ngày xưa
lớn hơn,
cho biết mãi cho đến
thế kỷ thứ
11 họ mới xây
nhỏ lại để
làm kỷ niệm. Quang cảnh giống những
thánh tích mà chúng tôi đã
đi qua, cũng nền
tháp trong một khu đất
rộng mênh mông
. Tại đây TT Giác Đẳng đã giảng về sự thành lập ni đoàn. TT Giác Đẳng: Thành phố này ngày nay người ta đọc là Vaisheli nhưng thời Đức Phật còn tại thế thì đọc là Vesali, trong chữ Hán gọi là Tỳ Xá Li. Chính tại nơi này khi vua Tịnh Phạn viên tịch Đức Thế Tôn về Ca Tỳ La Vệ và sau khi Đức Phật độ vua cha đắc đạo chứng quả rồi viên tịch Niết-bàn thì Ngài đã từ Ca Tỳ La Vệ đi về đây, lúc bấy giờ bà Di Mẫu Maha Pajapati Gotami là người đã nuôi Thái Tử Sĩ Đạt Đa từ hồi từ tấm bé thay thế cho Hoàng Hậu Maya cùng với 500 công nương của giòng họ Thích Ca đã làm một chuyến đi với đôi chân trần, cạo tóc mặc y vàng đi từ Ca Tỳ La Vệ đến trước cổng xin gặp Tôn Giả Ananda là thị giả của Đức Phật nhờ thỉnh lời đến Đức Phật để xin cho người nữ được xuất gia trong giáo pháp, tại vì trước đó ở trong giáo pháp của Đức Phật chỉ nam cư sĩ tức là chư vị tỳ kheo chứ chưa có phái nữ. Tôn Giả Ananda đã vào đảnh lễ Đức Phật để xin cho người nữ xuất gia trong giáo pháp. Đức Thế Tôn đã từ chối ba lần và cuối cùng thì Tôn Giả Ananda đã hỏi Đức Thế Tôn những câu hỏi rất là quan trọng, trong đó có một câu : |
|
"Bạch Đức Thế Tôn, ở trong giáo pháp của Đức Thế Tôn, những gì mà người nam thành tựu được như quả vị sơ quả, nhị quả, tam quả và tứ quả, thì người nữ có thành tựu được không?" Thì Đức Phật trả lời là "đúng như vậy, những gì mà người nam thành tựu được trong giáo pháp này thì người nữ cũng thành tựu được như vậy." Đ ó là lời xác chứng của Đức Phật, nhưng sau đó thì Tôn Giả Ananda đã khẩn khoản xin Đức Phật cho phái nữ xuất gia và Đức Phật Ngài đã đồng ý với điều kiện gọi là bát kỉnh phápCó ba lý do Đức Phật đã không cho phép người nữ xuất gia trong giáo pháp mà ngày nay chúng ta khó có thể tưởng tượng: |
chị Mai Ðào đang nấu nồi canh bầu |
1.) Thứ nhất
là do có người
nữ tu trong giáo
pháp nên chùa mọc lên nhiều, vì người
nữ không thể
đi rày đây
mai đó sống
dưới cội
cây, sống du phương
như chư
tăng do vậy
người nữ
cần có nơi
ở đàng
hoàng. Ví dụ như
tỳ kheo thời
Đức Phật
còn tại thế một chùa ni phải nằm
ở trong tầm
mắt của
chùa tăng, có
chuyện gì kêu cấp cứu
thì chư tăng
có thể qua cấp cứu
được.
Do có chư vị
tỳ kheo ni xuất gia trong Phật giáo bắt
đầu có sự
kiện lập lên nhiều chùa và do có nhiều
chùa thì tượng
pháp phát sanh. Ngày nay chúng ta quan niệm rằng
chùa cao Phật lớn
thì Phật Pháp hưng
thịnh, nhưng
với cái nhìn của
Đức Phật
thì khi nào chùa chiền nhiều thì chư
vị xuất gia thủ đắc
tư hữu
nhiều và sự
thủ đắc
tư hữu
cất chứa tài
sản giàu có thì Phật Pháp đi
xuống và điều
này ít khi nào chúng ta nghĩ đến,
chúng ta nghĩ rằng
hễ chư tăng
giàu chùa chiền giàu thì Phật Pháp sẽ
hưng thịnh,
nhưng mà thật
ra trên căn bản
mà ngày nào chư
vị xuất gia mà thủ đắc
tài sản nhiều thì ngày đó
Phật Pháp đi
xuống, và khi nào chư
tăng sống đời
sống bần hàn thanh hạnh thì lúc đó
Phật Pháp hưng
thịnh. Do có chư
vị tỳ kheo ni xuất gia nên cơ
sở chùa chiền
được lập
nên và Đức
Phật Ngài cho biết rằng
vì lý do đó
nên Phật Pháp chỉ tồn tại hưng
thịnh trên mảnh đất
này chỉ 500 năm
thay vì 1000 năm.
Và đúng như
lời Đức
Phật dạy là 500 năm
sau khi Đức
Phật viên tịch thì Phật Giáo đã
bị phân hóa trên xứ
sở này và
không còn trong thời
kỳ nguyên thủy nữa
lý do là tượng
Pháp phát sanh quá nhiều.
2.) Điều
thứ hai là có
một điều
cực kỳ khó
khăn là thời
Đức Phật
còn tại thế người
nữ tuy rằng
họ không nói theo đạo
tam tòng của người
Trung Hoa nhưng căn
bản mà nói thì người
nữ Ấn Độ
từ xưa
đến nay họ
thuộc về gia đình,
khi ở nhà thuộc
về cha mẹ, khi lấy chồng thì thuộc
về chồng, khi chồng chết thì họ
sống với
con. Một người
phụ nữ không
có gia đình sống
đời sống
rày đây mai đó
không thân nhân gia đình
thì họ cho rằng
đó là những
người phụ
nữ bị đẩy
ra bên lề của xã hội và những
người nữ
như vậy không
nhận được
sự tôn kính ở
trong xã hội này.
|
|
3.) Lý do thứ ba, Đức Phật Ngài cũng có nói rằng người nam và người nữ quả có khác, sự khác biệt đó là trên phương diện đời sống của ni chúng thì người nữ có một số nhược điểm có khác với nam, ở đây chúng ta dùng chữ khác biệt không có nghĩa người nữ tệ hơn người nam nhưng căn bản về thể xác về sinh lý về tâm lý thì người nữ có khác với người nam, về tâm thái của người nữ cũng khác. Đức Phật Ngài không có nói rằng người nam và người nữ hoàn toàn giống nhau và việc nam nữ bình đẳng mà chúng ta nói ngày nay là chúng ta nói trên phương diện lý thuyết, và căn bản thì Đức Phật nhìn nhận rằng người nam và người nữ có sự khác biệt do vậy ở trong ni chúng khi nhiều người nữ sống với nhau không đơn giản như bên tăng, điều đó không phải là vấn đề kỳ thị nhưng Đức Phật Ngài muốn đặt để cho một nền tảng rất quan trọng là làm sao mà ni chúng được xuất gia với những lời cảnh báo trước và đồng thời có những sự chuẩn bị đầy đủ, và quả thật thì sau đó người nữ xuất gia rất đông và chính ở tại nơi này là nơi mà Thánh Ni Ma Ha Ba Xoà Ba Đề tức là di mẫu Maha Pajapati Gotami được Thế Tôn cho thọ đại giới và là vị ni trưởng đầu tiên ở trong giáo pháp của Đức Phật một sự kiện rất trọng đại và đó là một ni đoàn tu sĩ đầu tiên được ghi lại trong lịch sử nhân loại có hệ thống tổ chức, có giới phẩm, có hạ lạp, có giới luật như là một hiến chương một nội quy rõ ràng, giới luật của vị tỳ kheo ni. |
Qúi anh chị đang chuẩn bị bữa ăn trưa tại quán ven đường |
Tại vùng đất Vaishali có một sự kiện khác cũng rất quan trọng mà chúng ta nên nói đến: 1.) Thời Đức
Phật còn tại thế thì có 16 quốc
gia, có một quốc gia tên là Vajjì có kinh
đô là Vaishali
là một quốc gia dân chủ duy nhất
mà chúng ta được
biết xưa nhất
trong lịch sử
của nhân loại, quốc gia dân chủ đó
họ có 711 vị dân biểu từ
711 bộ tộc khác nhau, mỗi một năm
như vậy
trong bộ tộc đề
ra một người
và người đó
sẽ được
đến kinh đô
Vaishali làm một vị dân biểu, họ
có quyền hội họp mỗi ngày ở
trong Dhammasala là pháp đường,
(ngày nay pháp đường
này vẫn còn và kế bên tháp Shanti
của Nhật Bản), họ làm việc
theo nguyên tắc
đa số thắng
thiểu số, thiểu số phục tùng
cho đa số
cho những quyết
định. Có một
lần vua A Xà Thế có ý định
xâm lăng xứ
Vajjì và cho người
đến để
coi ý của Đức
Phật như thế
nào và qua sự
gián tiếp thì Đức
Phật khẳng
định với
Ngài Ananda rằng
là xứ Vajjì
không nên xâm lăng
là tại vì xứ
Vajjì là một xứ
mà họ có đủ
các yếu tố cường
thịnh và , Ngài nói 7 pháp hưng
thịnh là 7 giềng mối của nền
pháp trị dân chủ ở
tại đây.
|
|
2.) Tại Vaishali có một số giai thoại mà ở trong đó có một giai thoại ngày nay rất phổ biến giữa người Ấn Độ. Đó là kỹ nữ Ambapali là một danh kỷ của kinh đô Vaishali. Kỹ nữ Ambapali rất đẹp, cô có một gia sản khổng lồ, những vương tôn công tử người nào đến sống với cô phải trả một số tiền rất cao, cô có một vườn xoài rất đẹp tại đây. Trong kinh ghi lại là những tháng ngày trước khi Đức Phật viên tịch thì Đức Phật trở lại ngang thành phố này thì kỹ nữ Ambapali đến thỉnh Đức Thế Tôn về nhà trai tăng và Đức Thế Tôn nhận lời ngày mai sẽ đến nhà trai tăng, thì lúc bấy giờ những vị hoàng tử Licchavi là hoàng tử của một bộ tộc rất hùng mạnh tại đây họ rất giàu có, họ thỉnh Đức Thế Tôn trai tăng thì Đức Thế Tôn không nhận lời Ngài nói rằng Ngài đã nhận lời dùng cơm ở nhà kỹ nữ Ambapali với tỳ kheo tăng, những vị hoàng từ nước Licchavi nghĩ rằng chuyện đó rất dễ tính nên họ đã đánh vòng qua con đường ruộng để chận đầu xe ngựa của kỹ nữ Ambapali và cảnh tượng rất đẹp mà sau này các nhà hoạ sĩ vẽ lại là kỹ nữ Ambapali ngồi trên xe ngựa và các hoàng tử Licchavi chận đầu, và những hoàng tử này nói là chúng tôi muốn ngày mai thỉnh Đức Thế Tôn về hoàng cung để trai tăng nhưng nghe nói nàng đã mời thỉnh được Đức Thế Tôn vậy thì bây giờ nàng hãy cho một giá tiền và giá nào thì chúng tôi sẽ |
Qúi anh chị đang chuẩn bị bữa ăn trưa tại quán ven đường |
trả giá đó
để nhượng
lại ngày mai làm lễ trai tăng,
thì nàng lắc đầu
và bảo bao nhiêu tiền cũng không được.
Một người
bán thân để
kiếm tiền sống bây giờ
thỉnh Đức
Phật về trai tăng
và nàng xem đó
là câu hỏi hạn hữu,
những vị
hoàng tử đưa
ra một số tiền khổng lồ nhưng
nàng vẫn từ
chối. Câu chuyện đó
được
ghi lại trong kinh Đại
Bát Niết-bàn, về sau này nàng cúng dường
khu vườn xoài
rất đẹp
của nàng để
làm một tịnh xá Ambapali Rama. Và câu chuyện
người kỹ
nữ Ambapali là
câu chuyện ngày nay được
lưu truyền ở
trong dân gian rất nhiều, nếu qúi vị
nào đọc cuốn
Siddhartha của văn
hào Hermann Hesse, trong đó
có nàng Kiều Lan với
Tất Đạt,
thì nàng Kiều Lan với
ý mà Hermann Hesse mượn
từ vai trò của
kỹ nữ
Ambapali, Tất Đạt
Siddhatha dĩ nhiên là một hư
cấu thì chúng ta không nói nhưng
nhân vật Kiều Lan là muợn
từ kỹ nữ
Ambapali. Sau này bà xuất gia trở
thành vị Thánh Ni trong đạo
Phật.
Và có một câu hỏi người
ta hỏi ngược
lại là một kỹ nữ
mà được
Đức Phật
độ xuất
gia thì đó là
một điều
đại hạnh
là một điều
đáng hoan hỉ
nhưng tại
sao một người
có khả năng
đắc đạo
chứng quả
mà trong kiếp chót còn làm kỹ nữ
nữa, thì câu hỏi
đó chúng ta sẽ
nói sau.
|
|
3.) Ở đây cũng có câu chuyện về một con khỉ khi Đức Phật Ngài ở tự viện này thì con khỉ đó rất là thương Đức Phật mỗi lần buổi trưa Đức Phật Ngài đi về thì nó hay đi theo Đức Phật, bữa đó thấy có tổ mật ong nó hái ổ mật và đem đến cúng dường Đức Phật ổ mật ong đó. Vaishali là một thành phố mà chúng ta tạm gọi ngày nay là thành phố tiên tiến tức là họ có nhiều cái giá trị đi trước thời đại kể cả về phương diện âm nhạc, thời trang. Chúng tôi nhớ trong kinh Đại Bát Niết Bàn có một lần Đức Phật Ngài ngồi ở trong chùa Ngài nhìn thấy những hoàng tử Licchavi từ xa đi đến thì Ngài quay sang Chư Tỳ kheo Ngài nói rằng nếu chư tỳ kheo mà vị nào không có thần thông nhìn thấy Chư Thiên ở cõi trời tam thập tam thiên thì hãy nhìn những hoàng tử Licchavi, cách phục sức của họ, xe ngựa họ cưỡi, và phong thái của họ rất giống Chư Thiên ở cõi tam thập tam thiên. Xứ Vajji có kinh đô tại Vaishali này là một xứ dân chủ, dân chủ ở đây là họ cũng có vua cũng có hoàng tử nhưng vua và hoàng tử của họ mà chúng ta gọi là công tử nhiều hơn là hoàng tử tức là họ có nhiều bộ tộc và những vai trò mà được bầu lên kể cả vai trò trưởng lão hay là niên trưởng v.v... thì tất cả những vai trò đó đều là được bầu được chọn và thiểu số phục tùng đa số. |
Sông Hằng buổi hoàng hôn |
Những người
ở xứ
Vajjì đã đem
binh hùng tướng
mạnh để
đến xứ
Malla đòi chia
xá lợi của
Đức Phật,
và họ được
1/8 xá lợi đã
đem về nơi
này, họ cất một tháp gọi là
tháp Licchavi để
tôn thờ xá lợi
Đức Phật.
Đến 218 năm
sau đó vua A Dục
khi thống nhất Ấn Độ
đã có một
quyết định
mở tháp xá lợi
đó ra và chia
xá lợi làm nhiều
phần để
thờ nhiều
nơi trong xứ
Ấn Độ.
Trong sử ghi rằng
ban đầu những
người có
trách nhiệm đến
đây mở
tháp lấy đi
phân nửa xá lợi,
rồi lần thứ
hai họ lấy thêm phân nửa
nữa tức
là lần thứ
hai họ lấy 1/4 số nguyên thủy, nhưng
lần thứ ba
họ đến
định lấy
thêm nữa thì mưa
gió vần vũ, có thể nói rằng
mưa to gió lớn
suốt 7 ngày 7 đêm,
họ đã trở
về trình với
vua A Dục là có lẽ Chư
Thiên không muốn đem
phần xá lợi
đó đi
do vậy nhà vua ra lệnh đóng
tháp lại, phần xá lợi
đó giữ
nguyên vẹn cho đến
khi nơi này
thành một chốn hoang vu không còn thành phố
nữa và rơi
vào trong quên lãng thì tướng
Cunningham là người
đã dùng vị
trí cái hồ nơi
cất pháp đường
của người
Vaishali để
xác định lại
vị trí nơi
cất xá lợi,
cuối cùng người
ta đã tìm ra
chân tháp thờ
xá lợi. Ngày
nay họ đã đưa
phần xá lợi
đó về bảo
tàng Patna. Chúng tôi có đọc
một bản tin theo đó
là chính phủ Ấn Độ
đang có một
thương lượng
với hội
Maha Bồ Đề
và với nhóm
thiền sinh của Ngài Goenka là sẽ chuyển
phần xá lợi
Phật và các Đại
Đệ Tử
đang giữ
tại các viện bảo tàng cho ngôi tháp
thờ xứng
đáng của
Phật giáo ở
trên xứ này, tại
vì chính phủ và những
người Phật
tử tại đây
thấy rằng
xá lợi của
Đức Phật
không nên cất giữ
trong viện bảo tàng như
là những vật
cổ bình thường
mà nên tôn kính ở
chỗ xứng đáng.
Đó chỉ là
quyết định
chung nhưng chúng
ta chưa biết
chừng nào xong.
Tháp thờ xá lợi
của những
người
Licchavi cất bên bờ
hồ là cả một khám phá lịch sử
rất quan trọng của tướng
Cunningham. Ngày nay thì họ xây một mái
tôn hình tháp để
bao che cái nền và đó
cũng là nơi
Phật tử về
chiêm bái đảnh
lễ.
Rời thánh địa chúng tôi, rời Vaishali chúng tôi tiếp tục cuộc hành trình dài để về Bồ Đề Đạo Tràng. Trên đường đi chúng tôi được dịp nhìn ngắm cảnh thiên nhiên của những cánh đồng quê Ấn Độ, phần lớn đất đai tại nơi đây trồng chuối, rất nhiều vườn chuối xanh mướt với những quầy chuối nặng trĩu, những quầy chuối chín được bày bán dọc hai bên đường rất rẻ, khoảng chừng 2 dollars một quầy lớn có chừng cả trăm trái, có điều trái chuối rất nhỏ cỡ bằng chuối tiêu, dân chúng hơi lam lũ vì cuộc sống cơ cực. Trong chuyến hành hương với những đoạn đường dài thì chúng tôi có được phước duyên là nghe TT Giác Đẳng giảng rất nhiều đề tài, từ Phật Pháp cho đến thường thức, văn hoá xã hội và đời sống của người dân địa phương, là một cơ hội để chúng tôi học hỏi thêm.
|
|
TT Giác Đẳng giảng: Chúng ta đang trên đường đến Patna, con đường đến Patna thì sẽ băng ngang sông Hằng, cây cầu trước kia dài nhất Ấn Độ, đường xe chạy là bốn đường, cầu có tên là Mahatma Gandhi là tên của Thánh Gandhi. Cầu xây rất cao do vậy độ dài của cầu sâu vào đất liền để tạo độ dốc không quá dốc cho các xe cộ di chuyển dễ dàng, nhịp cầu bị rung chuyển với độ mạnh vì bị nhồi, nơi chấp nối của cây cầu sẽ thấy độ nhồi nhiều. Cầu này sẽ đi qua sông Hằng nơi xưa kia là ranh phận của xứ Ma Kiệt Đà và xứ Vajjì, bây giờ thì bên kia là Patna là thủ phủ của tiểu bang Bihar. Patna được thành lập ở những năm tháng cuối cùng khi Đức Phật Ngài sắp viên tịch và lúc đó Đức Phật Ngài đã đi ngang qua thành phố này, thành phố đó có tên là Pataliputra tên chữ Hán gọi là Hoa Thị Thành, về sau người dân gọi là Patna. Patalipatra ngày nay là một thủ phủ bậc trung khó ai tưởng tượng được đó là kinh đô của vua A Dục là chiếc nôi quyền lực cai trị một đế quốc rộng lớn nhất Ấn Độ thời xưa đến giờ, đế quốc đó kéo dài từ A Phú Hãn sang Bangadesh, từ Hi Mã Lạp Sơn đổ sang biển nam Ấn Tích Lan, cũng như Kusinara vật đổi sao rời từ một trung tâm quyền lực quan trọng trở thành một nơi tương đối kiêm tốn so với những thành phố khác của Ấn Độ. Vùng này nằm ở gần sông Hằng do đó vào mùa mưa |
Những người Ấn Giáo đang tắm tại sông Hằng để cầu nguyện |
mùa nước nổi
thì phù sa nhiều nên đất
đai tương
đối màu mở,
cây trái đa dạng
hơn, như
hồi nãy chúng ta thấy người
ta trồng trái vải, trồng chuối,
trồng trái ấu, trái ấu ở
đây khác với
trái ấu bên Việt Nam, người
Việt Nam có câu "khi thương
trái ấu cũng tròn", trái ấu ở
đây không nhọn
và không có gai như
trái ấu ở
Việt Nam và ăn
rất ngon. Chúng ta nhìn thấy bên đường
xe chạy có một cái chợ
phiên mở khi
có lễ hội đặc
biệt nào đó.
Quan cảnh cánh đồng
cảnh trí rất đẹp.
Vajji vốn là một bình nguyên bằng
phẳng nhưng
chỗ nào có đồi
cao dốc thì những
nhà khảo cổ nghi ngờ
đó không phải
là cái gò thường
mà là một di tích cổ, do đó
ngày nay những
công trình xây cất tại đây
họ rất cẩn thận, tại vì năm
nào họ cũng khám phá ra di tích cổ rất
quan trọng.
Patna là nơi
kết tập Tam Tạng lần thứ
ba một cuộc kết tập Tam Tạng
lịch sử ở
trong giáo pháp của Đức
Phật. Vaishali là một nơi
rất là nổi tiếng đối
với đạo
Jain. đây là nơi
ra đời của
Ngài Mahavira tức
là Ni Kiền Tử
người lập
ra đạo Jain
do vậy đối
với những
người đạo
Jain thì thỉnh thoảng họ về đây
để họ
có những buổi
lễ hàng năm
rất lớn giống
như người
Phật tử đối
với Lumbini, tuy
nhiên phải nói rằng
nhờ vào vua A Dục
nên những di
tích liên quan đến
cuộc đời
của Đức
Phật thì được
chúng ta xác định
vị trí chính xác và chứng
tích lịch sử
rõ ràng hơn còn
đối với
những vị
giáo chủ khác thì mang tánh cách rất mơ
hồ, thí dụ như
họ nói rằng
Ngài Mahavira sanh ra ở
Vaishali thì người
ta viết ở
Vaishali thôi chứ
không viết đích
xác ở chỗ
nào như trường
hợp chúng ta
xác định đối
với Vaishali, đối
với vườn
Lộc Uyển, đối
với Bồ Đề
Đạo Tràng.
|
|
Chúng ta sẽ đi ngang sông Hằng. Sông Hằng là giòng sông bắt nguồn từ Hi Mã Lạp Sơn và chảy ngang qua Varanasi rồi chảy đến Vaishali đổ ra vịnh Bengal. Thời Đức Phật còn tại thế thì kinh đô của xứ Makiệt Đà đặt tại thành Vương Xá tức là nơi mà tối nay chúng ta sẽ nghỉ. Khi Đức Thế Tôn sắp viên tịch thì vua A Xà Thế đã có ý định rời kinh đô về Xá Vệ Pātaliputra nhưng vua đã không làm được việc đó chỉ khởi công xây cất mà thôi, về sau này vua A Xà Thế bị giam vào ngục vì bị đứa con xoát ngôi và đứa con đó là người rời kinh đô về Pātaliputra. Triều đại Maurya là triều đại Khổng Tước cũng là một triều đại thừa tiếp triều đại của vua A Xà Thế của vua Bình Sa Vương, triều đại Maurya được ghi trong lịch sử thì đã có mặt tại vương quốc Ma Kiệt Đà khoảng chừng 150 năm trước khi Đức Thế Tôn ra đời, là một triều đại dài và rất là sung lượt mặc dầu có bi kịch là vua Bình Sa Vương bị con là A Xà Thế chiếm ngôi bằng bạo lực thì A Xà Thế cũng bị đứa con là Udayin xoái ngôi bằng bạo lực, nhân quả như câu nói "Hiếu thuận hoàn sanh hiếu thuận tử, ngỗ nghịch hoàn sanh ngỗ nghịch di." |
Sông Hằng buổi bình minh |
Chúng tôi muốn nói về một điểm liên quan đến cuộc đời của Đức Phật khi chúng ta đi lại trên vùng đất này có tiện nghi như máy lạnh có xe cho chúng ta đi, nhưng chắc chắn chúng ta khó tưởng tượng Đức Thế Tôn đã sống như thế nào, con đường mà chúng ta đi qua chắc chắn là con đường mà Đức Thế Tôn và các Đại Đệ Tử của Đức Phật đã đi qua ở trong 45 năm hoàng đạo của Ngài. Đức Phật xuất thân là một vị vua một vị quân vương và khi Ngài rời khỏi hoàng cung thì bấy giờ Ngài đi vào nếp sống của thành phần nằm ngoài xã hội thời bấy giờ người ta gọi là samon. Ở trong xã hội Ấn có hai hạng tu sĩ, một hạng là tu sĩ Bàlamon và một hạng gọi là Samon. Tu sĩ Bàlamon là những vị giáo sĩ họ phải sanh ra trong gia đình Balamon và khi họ lớn lên thì họ học Tam Vệ Đà, họ là những người được xem là có thẩm quyền về nghi lễ và họ có những quyết định là phải làm như thế nào thích nghi về phương diện nghi lễ bùa chú về nhiều thứ khác nhau cung ứng cái nhu cầu mà chúng ta gọi là tín ngưỡng nhân gian, đó chính là tu sĩ Balamon. Những vị Samon hay Samana là những người từ bỏ gia đình, sống đời sống không gia đình, và những người này chuyên một hướng đi một phương pháp thực hành để giải thoát bản thân và giúp đỡ người khác, họ là những vị tu sĩ không phải do giai cấp không phải do xã hội và không phải do đáp ứng nhu cầu tính ngưỡng của quần chúng, chúng ta tạm gọi là tu sĩ, ngày nay thì có những vị tu sĩ chuyên làm đám cúng tế như những tu sĩ Balamon, và những người khác chuyên tu thiền, thì khi Đức Phật rời hoàng cung để trở thành tu sĩ, do đó những người ngoại đạo là samon Cồ Đàm hay Gotama, Gotama là họ mẹ. | |
Mười năm sau khi Đức Thế Tôn bắt đầu hoằng pháp độ sinh, cả miền Trung Ấn các vị vua hai vương quốc lớn là Kiều Tát La và Ma kiệt Đà, vua Bình Sa Vương và vua Ba Tư Nặc đều quy ngưỡng Đức Phật, ở Vaishali người dân cũng quy ngưỡng Đức Phật, giòng Sakya cũng vậy, xứ Koliya cũng vậy, nói chung là hầu hết những vị vua chúa đều quy ngưỡng, Ngài có những đệ tử rất giàu ví dụ như ông Cấp Cô Độc, bà Vishakha ở tại Xá Vệ hay tại Vương Xá thì Ngài có Jivaka ở Licchavi thì có các vị hoàng tử, Kapilavatthu (Ca-tỳ-la-vệ) thì có giòng Thích Ca, nói chung là ảnh hưởng của vị giáo chủ thì Đức Phật Ngài có đệ tử từ giai tầng thượng lưu của xã hội cho đến những người cùng đinh và như vậy thì Đức Thế Tôn Ngài có rất nhiều phương tiện từ ăn ở di chuyển, nhưng Đức Thế Tôn không lựa chọn phương pháp sống như ngày nay đa số chúng ta đều lựa chọn. Ngài không tổ chức ban hộ trì Tam Bảo, Ngài cũng không tổ chức hệ thống giúp đỡ cho Ngài hay Chư Tăng phương tiện ăn ở di chuyển. Căn bản thì những bữa ăn hàng ngày của Đức Phật |
Tại thánh địa thành lập ni đoàn |
và Chư Tăng là nếu có người thỉnh ngày mai thọ trai thì Đức Phật và Chư Tăng nhận lời, thì buổi sáng hôm đó Đức Phật và Chư Tăng không đi khất thực và khoảng 8 , 9 giờ Đức Thế Tôn và Chư Tăng đi tới nhà người đó sớm một chút nhưng không đứng bóng, và khi Đức Phật đến thì thường họ đã soạn sẵn chỗ cho Đức Phật và Chư Tăng ngồi sau đó thì họ đặt thức ăn vào trong bình bát của Đức Phật, Đức Phật thọ nhận và dùng cơm thọ thực, thọ thực xong thì Ngài sẽ nói một lời chúc phúc, lời chúc phúc này không phải là lời kinh cầu nguyện, ngày nay chư tăng tụng là tụng lại lời Đức Phật dạy, trong lời chúc phúc đó ví dụ như Đức Phật ca ngợi về hạnh bố thí về quả của sự cúng dường v.v... Sau khi Đức Phật nói lời chúc lành rồi Ngài đi về. |
Trong trường
hợp không có
ai thỉnh mời
trai tăng thì Đức
Phật và Chư
Tăng vào buổi
sáng sớm đi
vào trong làng để
khất thực,
có hai hình thức
khất thực:
1 gọi là tuần tự khất thực tức là có một số vị đi đầu đà thì nhà nào dầu là Phật tử xa hay lạ đều đứng lại. 2. là đi vào trong làng với chiếc bình bát trong tay, những người nào hằng tâm hằng sản phát tâm đặt vào trong đó một ít, thực phẩm. Khi cảm thấy đủ thì các Ngài không đi nữa và đi tìm một nơi một gốc cây hay trở về chùa hay trở về một công viên một nơi thích hợp để ngồi thọ trai, thọ trai xong phần còn lại thường là cho những người bịnh nếu có, còn nếu không thì đổ cho chim ăn. |
Về điểm này thì chúng tôi phải nói rằng có một sự khác biệt giữa quan niệm của người Trung Hoa và người Ấn Độ, là người Trung Hoa chúng ta ăn cái gì thì mỗi khi ăn no rồi còn một ít thực phẩm thì cố gắng để ăn cho hết vì nếu ăn mà bỏ dư thì tội nhưng đúng ra ở trong giáo pháp Đức Phật thì ăn mà ăn ráng thì tội. Thời Đức Thế Tôn còn tại thế mà khi ăn thực phẩm mà con dư, tức là 5 miếng còn một miếng mà no thì ngưng, nếu ăn ráng thì bị tội, và nếu thực phẩm dư thì có thể đổ đi hay cho chim cho cá ăn chứ không ráng ăn cho hết. Những lúc Đức Phật và Chư Tăng đi khất thực như vậy đó thì các Ngài chỉ im lặng thôi, người ta cúng cái gì thì người ta chỉ đặt trong bình bát chứ hoàn toàn không nói cảm ơn hay nói lời nào hết chỉ giữ sự yên lặng. Từ sự ăn uống cho đến phương tiện di chuyển, Đức Thế Tôn lựa chọn ở cảnh thế gọi là giản dị nhất, Ngài lựa chọn cách thế gọi là làm gương lành cho những người đời sau này. Ví dụ như Đức Phật Ngài còn tại thế mà cuộc sống của Ngài cái gì Ngài cũng giao cho những vị vua như vua Bình Sa Vương hay |
Thánh đia thành lập ni doàn |
vua A Xà Thế hay vua Ba Tư Nặc để lo cho Ngài thì về sau những đệ tử nói ngày xưa Đức Phật có vua chúa lo cho thành ra Ngài làm được bây giờ mình làm không được. Đức Phật Ngài không sống như vậy. Hay chúng ta nói rằng Đức Phật Ngài có thần thông thành ra Ngài đã sống, Ngài đã làm được việc đó bây giờ mình không có thần thông mình làm không được. Đức Phật Ngài cũng có dùng thần thông trong một số trường hợp nhưng đời sống hằng ngày khi Ngài đi thì Ngài cũng vẫn lên đường bằng chân trần và Ngài với tầm vóc chậm nhất của vị tỳ kheo ở trong đoàn. Ở trong Tôn Tưởng Binh Pháp có một câu nói rằng: "vận tốc của một đoàn quân di hành luôn luôn bằng vật tốc của người lính đi chậm nhất" bởi vì họ không thể bỏ lại sau lưng ai hết do đó họ tính người lính đi chậm nhất là đoàn binh phải đi theo đó. Thì thời Đức Phật còn tại thế cũng vậy Chư Tăng và Đức Phật sau khi ở một chỗ thấy không thích hợp rồi các Ngài lại lên đường. Lộ trình mà chúng ta đang đi thì có những lần Đức Phật và Chư Tăng cũng có đi qua, các Ngài không lên đường bằng xe cộ bằng phương tiện được cung cấp hay hoặc giả là bằng thần thông mà các Ngài đi, Đức Phật cũng vậy, các vị Thánh cũng vậy đi cùng với đại chúng tỳ kheo ở trong đó có các vị Cao Tăng để Ngài tạo gương lành. Dó là đời sống của những người sống tỉnh thức, đó là sự lựa chọn trong cách sống của Đức Phật. Lúc bấy giờ thì chùa chiền không có nhà bếp như chúng ta, chùa chiền chỉ là nơi trú ngụ thích hợp cho Đức Phật và Chư Tăng, ở nơi trú ngụ đó có quy luật. Thông thường những người như những vị trưởng giả cúng dường lên Đức Phật thì họ cúng dường một công viên ở đó có cây cao bóng mát. | |
Đức Phật Ngài dạy chư tỳ kheo tứ pháp y tức là bốn pháp cơ sở để sống: Nếu có người cúng dường thực phẩm thì được phép thọ nhận, nhưng nếu không thì có thể sống bằng thức ăn đi khất thực ôm bình bát đó gọi là chánh mạng. Nếu có người cúng dường y thì có thể xử dụng y đó nếu không thì Đức Phật cho phép lượm vải rách vải trong thùng rác để chắp may lại thành y mà mặc. Nếu có người cúng dường am thất thì có quyền ở nhưng nếu không có am thất thì có thể ở dưới cội cây. Nếu đau bệnh mà có người cúng dường thuốc thì được thọ dụng nhưng mà nếu không thì dùng trái a ma lac (amalaka) ngâm với nước tiểu để trị bịnh |
Thánh địa thành lập ni doàn |
. |
Bốn pháp y nói lên tinh thần di dược
tức là bản
thân của Đức
Phật và Chư
Tỳ kheo lúc bấy giờ
không làm gánh nặng
cho một tổ chức
gánh nặng cho một
nhóm người
gánh nặng cho một
cá nhân, sống nhờ
vào quần chúng mà không lệ thuộc
vào quần chúng có nghĩa là các Ngài đi
khất thực
ai phát tâm cúng dường
vào bình bát gọi là sống nhờ
vào quần chúng không vì vậy mà các Ngài
lệ thuộc vào cá nhân người
này hay người
kia, các Ngài có cuộc sống độc
lập, độc
lập trong giờ
giấc trong sự
sinh hoạt của chính mình.
Có rất nhiều hình ảnh nhiều tôn chỉ mà ngày nay chúng ta có thể tìm thấy, ví dụ như là ngày nay chúng ta thường quan tâm người nào là Phật tử người nào không là Phật tử, người nào thân người nào sơ, nhưng thời Đức Phật còn tại thế thì Ngài có thể nói chuyện với rất là nhiều người, từ những trẻ em ở bên đường hay là một người Balamon đang thờ thần lửa làm lễ cúng tế và nếu Ngài nói lên điều gì thì Ngài chỉ nghĩ một lý do là mang lại lợi ích cho người đó, chỉ như vậy thôi chứ Ngài không có nói người đó phải quy y phải là Phật tử phải theo đạo này theo đạo kia, mà Ngài xem là những sự hướng dẫn, những lời dạy của Ngài mang lại lợi ích bằng phương diện này phương diện khác. Tất nhiên là có một số người được hưởng lợi ích đó, do vậy họ đã quy ngưỡng Đức Phật. Nhưng trong thời bình minh của Đạo Phật khi Đức Phật còn tại thế thì Đức Phật Ngài không có ý thành lập ra một đạo giáo, ngay cả khi Đức Thế Tôn Ngài sắp viên tịch thì Ngài cũng khẳng định một điều rằng Ngài không có nghĩ rằng Ngài là người lãnh đạo tức là phải ra lệnh cho Chư Tỳ kheo phải làm thế này phải làm thế kia, Ngài ban hành giới luật dạy chư tăng thực hành nhưng Ngài không có lãnh đạo từ trung ương đến địa phương, chư tăng phải có tổ chức ngang tổ chức dọc. |
|
Nói chung là có một hình thức mà chúng ta tạm gọi là một đơn vị tăng già là bốn vị tỳ kheo, có việc gì thì bốn vị tỳ kheo họp lại để có quyết định, trong những trường hợp quyết định của tăng chúng thì thiểu số phục tùng đa số. Đức Phật Ngài cũng không có hệ thống kiểm soát chư tăng từ thành thị đến thôn quê, Ngài đưa ra những giới luật và chư tăng thực hành theo đó và mỗi một điều luật do các vị đó tự biết tự làm chứ thực sự không có ngành gọi là chấp pháp, và dĩ nhiên có những trường hợp rõ rệt thì chư tăng có thái độ nhưng không có một hệ thống chúng ta gọi là luật pháp như chúng ta thấy ngày nay liên quan đến việc như là kỷ luật răn phạt, ngoài trường hợp như là cấm phòng hay pháp đàn nhưng mà không kể như ngày nay chúng ta thấy liên quan đến luật pháp hiện hành. |
Vờn chuối dưới chân cầu Mahama Gandhi |
Đời sống của Đức Phật và Chư Tăng hồi còn tại thế dựa vào bốn thứ đó là ăn mặc ở và trị bịnh tức là y phục thực phẩm chỗ ở và thuốc men, tứ vật dụng hay là bốn nhu yếu của đời sống, căn bản bốn nhu yếu đó là tất cả, và chúng tôi có nói tứ pháp y là sống như vậy. Đức Thế Tôn Ngài đã đi như là một người không có quốc gia, Ngài đi từ nơi này sang nơi khác không cần passport đến những quốc gia không cấm đoán các vị tu sĩ đi khắp nơi như Ngài đi từ xứ Ma Kiệt Đà sang xứ Kiều Tát La và ở mỗi một nơi như vậy Ngài kêu Chư Tăng nên tôn trọng luật pháp địa phương. Xã hội Ấn hồi xưa, giống như hôm nay thì không rõ nét nhưng ngày xưa, Ấn Độ là một xã hội rất bao dung, ví dụ những vị tu sĩ đi khất thực trên đường cúng dường thực phẩm, họ không kể vị tu sĩ đó là ai, thì một xã hội bao dung như vậy đó là điều kiện thích hợp. Tất cả chư tăng và Đức Phật đều sống với tánh cách trung đạo. Trong khi đạo Ni Kiền Tử là đạo loả thể, nhưng Đức Phật thì dạy chư tăng khi vào trong xóm thì chùm y kín mít, ở chùa mặc y để hở vai trái ra thứ nhất là hợp với mặc y, thứ hai là bày tỏ sự tôn kính khi mà làm lễ chẳng hạn. | |
Đức Thế Tôn thì Ngài xuất thân từ một vị quân vương là một người thuộc giòng vua chúa và những đệ tử của Ngài ban đầu như Ngài Xá Lợi Phất, Ngài Mục Kiền Liên, Ngài Đậu Đà La, Ngài Ananda v.v... đều là những vị hoàng tử được giáo dục đầy đủ về uy nghi tế hạnh do đó trong thời gian đầu Đức Phật Ngài không chỉ dẫn chư vị tỳ kheo nên ăn như thế nào nên mặc y như thế nào nên sống như thế nào, chỉ dạy giáo pháp mà thôi, nhưng sau này thì chư tăng xuất gia đông đảo trong giáo pháp với nhiều thành phần vào thì tương đối có một vài hình thái không đẹp xảy ra và nhân đó Đức Phật Ngài ban hành luật liên quan đến oai nghi tế hạnh. TT Giác Đẳng trả lời một câu hỏi về: Những vị thánh tăng như Angulimala, hay kỹ nữ Ambapali. Tại sao trong kiếp cuối tu hành đắc đạo thánh quả thì những vị đó phải là đại duyên đại phúc chứ làm sao sanh ra lại là tướng cướp hay kỹ nữ. |
Cát phù sa sông Hồng dưới chân cầu Mahama Gandhi |
Nếu chúng ta nhìn từ
một góc cạnh khác thì chúng ta cảm
thấy rằng
quả là một điều
rất tán thán, ví dụ như
từ một kỹ
nữ mà hoàn lương
trở thành một
vị thánh ni hay là một tướng
cướp bỏ
gươm xuống
thì giác ngộ, chúng ta thấy thật sự
là một sự
chuyển hóa vĩ đại,
nhưng tại
sao lại có trường
hợp một vị
ở trong kiếp
chót lại tạo lỗi lầm như
vậy. Thì thưa
qúi vị chúng tôi xem đây
là một điểm
thú vị trong đạo
Phật, một người
làm nên đại
sự có những
thành tựu lớn
thì dĩ nhiên là họ là một sự
tích tập của nhiều kiến thức
của nhiều kinh nghiệm và thêm vào đó
Đạo Phật
nói là do phước
đức ở
quá khứ.
Không có những điều thất bại trong đời sống như vậy rất là bình thường, đôi khi quan niệm của chúng ta có tánh cách quan niệm gọi là tiệm tiến tức là một người ra trường tiến sĩ thì trước đó phải có thạc sĩ có cử nhân, học tiệm tiến từ từ tiến dần lên và mỗi một bậc như vậy thì họ phải có trình độ như vậy phải có cách như vậy nhưng mà câu chuyện của học đường khác với câu chuyện ở bên ngoài, một nhà thương buôn rất thành công có thể là trước khi thành công người đó có thể làm một cuộc đầu tư thất bại và thất bại rất lớn. Ông Einstein có nói một câu đó là "ở trong 100 lần suy nghĩ thì có 99 lần là tạo nên lầm lẫn." Thì sự việc làm những sai lầm là việc rất bình thường trong đời sống. Nhưng đối với Đức Phật Ngài cho chúng ta biết rằng cái khả tính tức là cái tiềm năng giác ngộ ở trong người của chúng ta thật sự không ai đánh giá được hết. Chúng tôi lấy ví dụ như vầy là ở trong chùa có nhiều khi thấy người này giỏi người kia ngoan người này thế này người kia thế kia nhưng mà rồi những cái đánh giá hồi còn nhỏ ở trong chùa tới khi lớn lên ra ngoài thì nó khác, có những người hồi nhỏ rất lanh lợi nhưng tới lớn lên họ không làm được gì hết, hay có những người hồi nhỏ rất quậy nhưng mà rồi lớn lên họ lại có đời sống rất kiểu mẫu. Thì như vậy trước khi mà một người thật sự làm một cuộc thay đổi toàn diện cuộc sống thì không có nghĩa là người đó phải đặt ở cái chỗ toàn hảo hay là tốt đẹp mà vị đó có thể làm rất nhiều sai lầm, chúng tôi lấy ví dụ như vua A Dục là một vị vua hộ pháp thì trước khi nhà vua trở thành vị vua hộ pháp thì nhà vua đã từng là một bạo chúa. |
|
Chúng tôi xin tóm tắt câu trả lời là tại sao có những bậc ở trong kiếp chót đáng nhẽ là ba la mật hạnh chín mùi đắc đạo chứng quả mà còn ra đời với nghiệp làm kỹ nữ hay kẻ sát nhân thì chúng tôi xin thưa rằng sự khai mở tuệ giác nó là một câu chuyện khác mà đời sống con người bình thường nó có những trường hợp khác, có những người trước khi họ có những thành công lớn thì thường họ có những thất bại nhưng mà những thất bại đó không nhỏ, có nhiều khi họ thất bại thì chúng ta xem họ là người thiểu trí rất là ngu ngốc nhưng mà sau đó thì họ vươn lên, do đó Đức Phật Ngài nhìn chúng sanh trong cuộc đời này nói về tiềm năng về khả tính thì rất là khó nói, một vị tỳ kheo tên là Culapanthaka mà chúng ta thường gọi là Bàn Đặc Tôn Giả thì trước khi đắc đạo chứng quả lại học rất tối dạ, học cả ba tháng mà không nhớ được một câu kệ là bởi vì nghiệp trong quá khứ chi phối. Con người sở hữu cả hai thứ nghiệp thiện và nghiệp bất thiện, nghiệp bất thiện nó dong dủi làm chúng ta trở nên đầu óc hết sức mê mờ, có những cái nhìn bình thường thì mình không nghĩ là mình nghĩ như vậy nói như vậy nhưng mà tới lúc nào đó tự nhiên con người đâm ra nói những điều về sau này mình nghĩ lại thì cảm thấy rất xấu hổ vì mình đã làm những điều rất xấu hổ mặc dầu mình cũng có trình độ cũng có văn hóa. |
Hồ nước bên cạnh tháp là nơi Ðức Phật và Chư Tang đã tắm |
Nói chung con người là một chúng sanh vốn rất phức tạp. Chúng ta khó nhận xét con người qua màu da chủng tộc hay cuộc sống hay sự thành bại trước mắt. Trong cuộc đời chúng tôi chứng kiến nhiều loại người hồi còn trẻ họ rất thành công có nhiều tương lai hứa hẹn nhưng lớn lên thì hậu vận lại suy vi, còn có những người hồi còn trẻ thì cuộc sống thường thôi nhưng lớn lên lại phát đạt, chúng ta thường quen suy nghĩ mọi việc nó xảy ra trong một trình tự cố định, nhưng trong cuộc đời này có nhiều cái bất định, chúng ta không có nói trước được là như vầy hay như thế khác. Đức Phật Ngài gọi là tiềm lực, khả năng, khả tín nếu được dịp thì phát triển nhưng nếu không gặp dịp thì lại không phát triển được. Ngay cả trong tình hình chính trị hay kinh tế, chúng tôi lấy ví dụ như cách đây mấy hôm chúng tôi có coi một số hình ảnh của ông Obama thời còn nhỏ một người có dáng dấp của người da đen và cha mẹ lại có cuộc hôn nhân hơi bất bình thường, mẹ là người Mỹ trắng mà cha là người Kenya. da đen và ông đã từng sống ở Jakarta hồi còn nhỏ cho đến 10 tuổi để đi học trường Hồi giáo bên đó, lúc đó mà nghĩ rằng đứa bé đó lớn lên là vị tổng thống Hoa Kỳ thì chuyện rất là khó tin nhưng mà rồi sự đưa đẩy đời sống cuối cùng phải có sự việc xảy ra nằm ngoài dự liệu của mọi người, những sự việc như vậy xảy ra thường trong đời sống. Chúng tôi thường thích xã hội Hoa Kỳ ở một điểm là xã hội Hoa Kỳ họ là một xã hội rất cởi mở về chuyện họ đón nhận những khả tính rất là dễ dàng, ví dụ như chúng ta nói lên những người ca sĩ hay tài tử là xướng ca vô loại nhưng ông Ronald Wilson Reagan khi còn là tài tử thì ông đã có viết một bức thư để bày tỏ quan điểm chính trị của ông và tới cái tuổi nào đó thì ông bỏ phim trường để ông trở thành một nhà chính trị thống đốc của tiểu bang California và sau đó là vị tổng thống lỗi lạc của Hoa Kỳ, hay ông thống đốc California hiện tại ông là một tài tử đóng phim. Do vậy tiềm năng của chúng ta, cái tiềm năng giác ngộ của chúng ta khó có thể biết ở người nào nhưng không có nghĩa là ở một người bậc giác ngộ thì trước đó họ phải có đời sống hoàn hảo, không có điều gì bảo đảm điều đó, ở đây nó đều mang tánh cách bất định. | |
Sông Hằng lớn và rất dài, ở phía bên kia là thủ phủ Patna là thủ phủ của tiểu bang Bihar và cũng là thành phố lớn nhất của tiểu bang Bihar, theo ước tính thì có khoảng 6 triệu dân, một thành phố nghèo nhất của Ấn Độ nhưng lại có nhiều sự tiến bộ về đường xá về quang cảnh và ngoại trừ những di tích còn rất ít mà chúng ta tìm thấy ngày nay thì tất cả những cung điện đền đài của vua A Dục ngày nay hầu như là đã xóa sạch, vật đổi sao rời, Ấn Độ đã có lần rời kinh đô, và có lẽ sự tàn phá lớn nhất đối với Ấn Độ từ khi người Hồi sang đây vào thế kỷ thứ 12 họ đã phá đi rất nhiều đền đài xa xưa của Ấn Độ do vậy ở đây chỉ còn vài di tích như là trụ đá của vua A Dục, nơi kết tập Tam Tạng lần thứ ba hay là một số những pháp dụ hay những bia ký của vua A Dục được ghi ở trên đá ngoài ra thì không có nhiều. Viện bảo tàng Patna là viện bảo tàng đáng thăm viếng. Tiểu bang Bihar từ chữ Bihara có nghĩa là tịnh xá, bởi vì ngày xưa nơi này chùa Phật giáo rất nhiều nên tiểu bang này gọi là Bihar, thành phố Patna là nơi cất giữ nhiều cổ vật của Phật Giáo có thể nói là nhiều hơn cả viện bảo tàng tại New Delhi, ở đó có xá lợi Phật được mang về từ Vaishali. |
Sư tử trên đầu trụ đá vua A Dục dựng tại thánh địa nơi thành lập ni doàn |
Cây cầu băng qua sông Hằng đi sâu vào trong đất vì cây cầy được cất rất cao, qúi vị có thể thấy được từ đây đến bờ sông tương đối còn xa nhưng người ta đã bắt đầu làm con đường cao hơn so với làng xóm để có độ giốc thoai thoải cao, khi chúng ta lên cầu sẽ thấy đó là cây cầu rất dài là một trong những chiếc cầu dài nhất của Ấn Độ, cây cầu này mang tên của Thánh Gandhi và từ trên cầu chúng ta sẽ nhìn thấy giòng sông Hằng chảy bên trái và phải và rồi giòng sông Hằng này tại Patna là nơi phân ranh của hai xứ Vajji và xứ Ma Kiệt Đà. Thời Đức Thế Tôn còn tại thế thì Vajji là một nước độc lập nhưng sau khi Đức Phật Ngài viên tịch chừng 50 năm thì vua Ma Kiệt Đà với binh hùng tướng mạnh từ Pātaliputra là một thành phố rất gần Vaishali đã quyết định xâm lăng Vaishali tiểu quốc nhỏ bé này lại rơi vào trong tay của người xứ Ma Kiệt Đà, những người Licchivi sau này đã đi sang Nepal và có thời người Licchivi đã từng cai trị thung lũng Kathmandu của Nepal | |
Sông Hằng có những cồn cát ở giữa, khi mùa cạn người ta ra ngoài cồn cát để trồng cây, điều này rất đặc biệt và đến mùa nước nổi thì họ không trồng ở đó được nữa. Chúng ta chuẩn bị để đi lên cây cầu dài có tên là Mahatma Gandhi, mặt trời sắp lặn ở trên thành phố Pātaliputra hay là Hoa Thị Thành. Xưa kia thành phố Patna là xứ của vua A Dục và thành phố Patna cũng là nơi diễn ra cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ ba, thành phố này đã làm một cuộc vinh danh cuối cùng đối với Đức Phật là trước khi viên tịch thì Đức Phật đi ngang đây, cổng nào Đức Phật đi ngang thì người ta đặt cổng Gotama và con đường nào Đức Phật đi thì người ta đặt tên là đường Gotama, họ dùng tên của Đức Phật để đặt cho những vùng Đức Phật đi qua, đó là một nghĩa cử sau cùng của một thành phố nghiêng mình đảnh lễ Đức Thế Tôn trước khi Ngài viên tịch. Chúng ta đã có mặt ở trước cây cầu mang tên là Mahatma Gandhi, cây cầu này nếu chúng ta đi bộ sẽ thấy cây cầu này nhồi sự đàn hồi nhiều hơn là chúng ta tưởng tượng. |
Một người Ấn Giáo đang tắm trên giòng sông Yamuna |
Qúi vị nhìn thấy từ xa một màng trắng kéo ngang đó là nước của sông Hằng, cây cầu độ dốc ăn sâu vào trong đất liền do vậy mặc dầu ở đây là đất liền nhìn thấy cây cầu rất cao, đây là thành quả lớn của Ấn Độ sau khi dành độc lập họ đã thực hiện cây cầu này vào năm 1958, thời đó vào một quốc gia như Ấn Độ mà thực hiện được cây cầu được xem như là một kỳ công, ba năm sau đó thì Trung quốc mới có thể làm được một cây cầu do chính họ làm ở Nam Kinh cũng rất cao và không có sự giúp đỡ nào của các kỹ sư ngoại quốc bởi vì lúc đó giữa Trung cộng và Nga sô đang có sự xích mích với nhau và Trung quốc bấy giờ là một quốc gia rất mạnh do đó họ đã thực hiện được cây cầu, nhưng Ấn Độ đã thực hiện cây cầu này trước đó do các kỹ sư của Ấn Độ tự làm lấy. Qúi vị thấy cây cầu rất dài và đi sâu vào đất liền để họ tạo ra độ dốc không có dốc quá vì cây cầu băng ngang, xe cộ đi lại ở trên đường rày những xe tương đối yếu trọng tải lớn cũng có nhưng những xe như xe đạp xe gắn máy xe lam và nếu mà cây cầu có độ dốc cao quá có lẽ là nguy hiểm. | |
Lần cuối cùng Đức Phật đi ngang nơi này lúc đó nước dâng cao, trong kinh diễn tả là quạ đứng sát bờ có thể cúi xuống uống nước được, lúc đó có rất nhiều người chuẩn bị thuyền ghe để đi, thời bấy giờ không có cầu, Đức Phật đã dùng thần thông đưa Chư Tỳ Kheo qua bờ bên này và Ngài cảm khái đọc lên một bài kệ được ghi trong kinh Pháp Cú: "Có rất ít người đạt đến bờ bên, kia đa số người còn lại quanh quẩn ở bên bờ này" được ghi là đáo bỉ ngạn tức là Đức Phật cho biết rằng số người đạt đến giác ngộ giải thoát rất ít còn một số người quanh quẩn bên bờ luân hồi rất nhiều, và câu kệ đã được Đức Thế Tôn nói trong lần cuối cùng khi Ngài đi ngang sông Hằng trước khi đến Câu Ti Na để viên tịch. Qúi vị có được một cơ hội rất đặc biệt để nhìn thấy mặt trời đang lặn từ từ bên bờ sông Hằng là một giòng sông chúng ta được nghe nhắc đến thật nhiều, thí dụ như chúng ta nghe cụm từ "hằng hà sa số" và tại sao qúi vị nghe đến số cát của sông Hằng, sông Hằng chảy từ Hi Mã Lạp Sơn xuống do đó mang theo rất nhiều cát, cát ở đây là nguồn cung ứng lớn cho những công trình xây cất, quí vị nhìn thấy ở đây có những xe tải chở |
Bực thang để bước xuống giòng sông Yamuna |
cát của sông Hằng
về thì dễ hiểu để
chúng ta gọi là hằng
hà sa số. Hằng
hà sa số, hằng
là sông Hằng,
sa số là số cát, số cát ở
sông Hằng rất
nhiều. Đáy
sông Hằng vào
trong mùa cạn nước
còn rất ít và thấy những
cồn cát xuất hiện ở
giữa giòng
sông.
Nơi thiêng liêng nhất của giòng sông là nơi chảy qua Varanasi, thường thường sông Hằng chảy từ bắc xuống nam nhưng riêng về đoạn về Varanasi thì lại chảy từ nam lên bắc. Ở Ấn Độ mưa vào mùa hè, mưa hạ rất lớn, các sư Nam Tông thường nhập hạ theo lịch của Ấn Độ là an cư từ rằm tháng sáu cho đến rằm tháng 9 tức là an cư vào mùa mưa. Người Ấn Độ không phải chỉ thờ lửa, theo Ấn Giáo họ chỉ thờ lửa mà họ còn một pháp môn tu gọi là tịnh thủy, họ dùng nước của sông Hằng rửa sạch tội lỗi, mỗi ngày họ ra tắm trên sông Hằng hay sông Yamuna và trong lúc tắm thì họ đọc thần chú để tẩy những nghiệp chướng của họ do vậy ở trong văn hóa Ấn Độ. Những bực thang xuống sông gọi là ghat |
Trình bày: Minh Hạnh và Nguyễn Văn Hòa |