Hành Tŕnh Tâm Linh - Hậu Kapilavatthu |
|
"Ngày 23 tháng 3 năm 2010 -
Hậu Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu).
Biên giới Nepal -- |
|
Ngày 23 tháng 3 năm
2010. Rời
khách sạn lúc 7:30 sáng chúng tôi lên đường,
bắt đầu
cuộc hành tŕnh là một thời
tụng kinh Tam Bảo trên xe bus, tất cả
mọi thành viên trong đoàn
đều nhất
tâm tụng kinh Tam Bảo theo sự
hướng dẫn
của TT Giác Đẳng,
nhịp tụng kinh trang nghiêm trầm hùng
làm tăng thêm
phần tín tâm trong tôi và trong tất cả
mọi người.
Sau phần tụng kinh th́ TT để
chúng tôi có thời
gian nh́n ngắm
cảnh thiên nhiên trên đoạn
đường
nông thôn của vùng quê Ấn Độ.
Nơi đây
xưa kia là của
vương quốc
Kosala nhưng ngày
nay là nông thôn hẻo lánh của Ấn Độ,
hai bên đường
có nhiều ruộng mía, thỉnh thoảng
chúng tôi nh́n thấy cánh đồng
lúa vàng, đây
là vùng đất
mà từ thời
Đức Phật
c̣n tại thế cho đến
ngày hôm nay vẫn c̣n là vùng đất
tương đối
màu mỡ về
nông nghiệp, đời
sống dân chúng ở
nông thôn rất an lạc không có sự
bon chen tất bật như
đời sống
ở đô
thị. Những
cánh đồng
lúa vàng bát ngát, những
ruộng mía mênh mông cho thấy đời
sống dân chúng ở
đây khá thanh
b́nh và sung túc, không như
cảnh sống của dân Ấn Độ
trên đường
đến Bồ
Đề Đạo
Tràng với những
cánh đồng
bỏ hoang cỏ cháy khô, dân chúng nghèo đói
mà tôi đă đi
qua trong mấy ngày trước.
|
Đồng quê Ấn Độ |
Đến 12 giờ th́ xe bus dừng lại tại Hậu Ca Tỳ La Vệ để thăm viếng và dùng cơm trưa tại vườn soài nằm sâu trong khuôn viên của thành Ca Tỳ La Vệ II này. Bữa cơm trưa nay của chúng tôi vô cùng thích thú, không phải v́ các món ăn ngon mà v́ cảnh trí nên thơ, thoáng mát của vườn soài. Những người dân Ấn Độ có trách nhiệm chăm sóc Hậu Ca Tỳ La Vệ đă trải những tấm nylon thật lớn dưới gốc cây soài cổ thụ có tàng lá thật lớn che phủ hết ánh nắng chói chang của mặt trời. Mọi người cùng phụ nhau chuẩn bị bữa ăn gồm cơm trắng, rau luột, thịt heo sào xả ớt mắm, mắm bồ hóc, và một vài món nấm chay sào khô, mọi người ăn trong t́nh thân vô cùng vui vẻ. |
Ăn xong mọi người dọn dẹp sạch sẽ rồi lại lên đường đi qua biên giới Nepal. Trên xe bus TT đă giảng cho chúng tôi về lịch sử của thành Ca Tỳ La Vệ II này. TT Giác Đẳng giảng: Theo trong kinh ghi rằng vua Ba Tư Nặc gửi phái bộ sang nước cộng hoà Sakiya là quê hương của gịng họ Thích Ca để xin cưới công chúa. Nước cộng ḥa Sakiya là một vương quốc nhỏ và vương quốc này là chư hầu phải triều cống xứ Kosala. Theo trong sách ghi lại th́ gịng họ Thích Ca là gịng họ rất cao ngạo thường họ chỉ gả con trong gịng tộc không gả ra gịng tộc bên ngoài mặc dù bên ngoài cũng cao qúy nhưng họ vẫn giữ riêng cho gịng Thích Ca, khi vua Ba Tư Nặc gửi phái bộ sang cầu hôn th́ gịng Thích Ca không biết làm sao cuối cùng th́ họ đưa một giải pháp là trong thành Ca Tỳ La Vệ có một tỳ nữ, tỳ nữ này được nuôi trong cung từ nhỏ đến lớn nên biết tất cả những nghi lễ của triều đ́nh và đồng thời rất đẹp trong số những tỳ nữ, và họ quyết định chọn vị tỳ nữ này để đánh tráo cho một vị công nương của gịng Thích Ca, |
Phái đoàn dùng cơm trưa tại vườn soài trong khuôn viên của hậu Ca Tỳ La Vệ |
vị tỳ nữ này đă được gả sang xứ Kosala được vua Ba Tư Nặc phong hoàng hậu và được vua Ba Tư Nặc rất sủng ái. Không lâu sau th́ hoàng hậu sanh một hoàng tử là hoàng tử Lưu Ly (Vidùdabha). Hoàng tử này suốt thời niên thiếu không bao giờ được mẹ đưa về thăm quê ngoại cho đến năm 16 tuổi xin cha mẹ về thăm quê ngoại th́ mẹ không đi nhưng mẹ bằng ḷng để cho hoàng tử Vidùdabha lên đường về thăm quê ngoại. |
Khi được biết hoàng tử Vidùdabha của nước Kosala về thăm Ca Tỳ La Vệ th́ gịng Thích Ca đă gặp một sự phân vân khác bởi v́ họ nghĩ rằng Vidùdabha là con của một nữ tỳ th́ không lư ǵ mà trong hoàng tộc phải đón tiếp do vậy tất cả các vị lớn ở trong triều tổ chức một chuyến đi săn ở xa c̣n lại chỉ là những vị rất trẻ ở lại thành để đón tiếp hoàng tử Vidùdabha. Trong phép lễ tân để đón tiếp một vị hoàng tử th́ họ cũng tổ chức tiệc tùng đại yến để đón tiếp hoàng tử Lưu Ly nhưng mà rồi tất cả những người đón tiếp đều là những người rất trẻ, hoàng tử Lưu Ly lấy làm lạ và hỏi ra th́ được biết rằng tất cả những vị lớn trong gịng Thích Ca đều đă đi dả ngoại đi vào rừng một nơi rất xa không có ở trong hoàng cung. Theo thông lệ hồi xưa th́ nước Kosala chỉ gửi một người đến nhắn tin trước do đó không ai sắp xếp được chương tŕnh. Một sự cố xảy ra là trong lúc uống rượu th́ hoàng tử lại bỏ quên thanh bảo kiếm khi đă rời Ca Tỳ La Vệ, |
TT Giác Đẳng tại khuôn viên hậu Ca Tỳ La Vệ |
đi được
một quăng đường
th́ nhớ là ḿnh đă
bỏ quên thanh bảo kiếm, hoàng tử
Lưu Ly mới nghĩ rằng
nếu ḿnh sai một người hầu cận
trở lại th́ không phải phép do đó
đích thân
hoàng tử phi ngựa trở lại để
lấy lại thanh bảo kiếm, nhưng
khi vào hoàng cung th́ thấy vắng
vẻ v́ mọi người đă
đi về chỉ
có hai vị hoàng tử và một công chúa
c̣n lại trong cung và một cảnh tượng
là hoàng tử Lưu Ly không ngờ được
là khi hoàng tử bước vào trong chỗ
yến tiệc th́ thấy một vị
hoàng tử dùng sữa dê để
rửa chỗ ngồi của hoàng tử Lưu
Ly, khi họ rửa th́ nói với nhau rằng
thật là một điều
phiền phức ḿnh phải đón
tiếp một kẻ mà mẹ thuộc
giai cấp hạ tiện thành ra bây giờ
ḿnh phải lấy sữa rửa cho sạch.
Đó là một
phong tục thời bấy giờ, thí dụ
chỗ cao qúi mà có người thuộc
giai cấp hạ tiện lên ngồi th́ họ
lấy sữa rửa chỗ ngồi đó.
Hoàng tử Lưu Ly mới chợt hiểu
thân phận của ḿnh, mặc
dầu cha là vua Ba Tư Nặc
nhưng mẹ lại là một tỳ nữ
của gịng Thích Ca, thái tử Lưu Ly không
buồn nhưng mà rất giận và lập
tức bỏ thanh kiếm đó
đi về. Khi
rời Ca Tỳ La Vệ th́ Thái Tử Lưu
Ly đă thề
trong ḷng là ngày hôm nay gịng Thích Ca đă
dùng sữa để
rửa chỗ ngồi của ḿnh th́ mai mốt
ḿnh sẽ dùng máu của họ để
mà rửa cái nhục này. |
Quả thật sau khi vua Ba Tư
Nặc băng
hà và vua Ba Tư
Nặc băng
hà trước Đức
Thế Tôn khoảng chừng
ít tháng th́ thái tử
Lưu Ly đăng
quang trở thành
vị tân quân và một trong những
việc làm đầu
tiên là thái tử
cất quân sang tiêu diệt gịng Thích Ca. Ở
trong kinh kể rằng
đă ba lần Đức
Thế Tôn ngự
ở biên giới
để ngăn
cản th́ h́nh ảnh chúng ta được
biết trong kinh là khi thái tử
Lưu Ly mang quân
sang chiêm phạt gịng Thích Ca vào một buổi
trưa nóng nắng
chói chang, tại con đường
ở biên giới
có một gốc cây rất mát và một
gốc cây của một cây đă
chết rồi không có bóng mát, Đức
Phật ngồi dưới
gốc cây đă
chết trời
nắng chang chang,
thái tử
Vidùdabha đi từ
xa thấy Đức
Phật ngồi đó,
thật sự
th́ Vidùdabha lớn
lên ở thành
Xá Vệ và rất là kính trọng Đức
Phật, thấy Đức
Phật th́ Vidùdabha bước
xuống chạy lại đảnh
lễ Đức
Phật và Vidùdabha mới
hỏi Đức
Phật rằng:
"Bạch Đức
Thế Tôn, tại sao Ngài giữa
buổi trưa nắng
Ngài không ngồi dưới
gốc có bóng mát cho mát mà Ngài lại ở
nơi này trời
nóng nắng chang
chang như vầy"
|
Anh Ḥa và anh Long tại tháp thờ Xá Lợi Phật tại hậu Ca Tỳ La Vệ |
th́ Đức
Phật trả lời
một câu rất là ngắn
ngủi Ngài nói rằng:
"Tuy rằng
ở đây
nó nóng nhưng
cái bóng mát của quyến thuộc th́
nó mát hơn."
Với câu nói đó
thái tử
Vidùdabha hiểu rằng
Đức Phật
Ngài muốn can thiệp vào việc thái tử
đem quân sang
chinh phạt gịng Thích Ca. Nhưng
cũng là cái nghiệp của gịng Thích
Ca, cho đến
khi sau ba lần ngăn
trở thái tử
Lưu Ly th́ có
một lần Đức
Thế Tôn nhập thiền định,
lúc đó sức
khoẻ của Ngài hơi
kém, Ngài đau
đầu và
Ngài nhập thiền th́ thái tử
Lưu Ly nhân dịp
đó sang tiêu
diệt gịng Thích Ca. Gịng Thích Ca lúc bấy
giờ không đủ
binh hùng tướng
mạnh để
đương
đầu với
thái tử
Vidùdabha và phần lớn
là bị tiêu diệt chỉ c̣n những
vị hoàng thân trấn giữ
ở biên cương
xa xôi mới
c̣n sống xót. Có hoàng thân Mahanama của
gịng Thích Ca đă
trở về
gom góp những
tàng quân và những
người c̣n
sống lại của gịng họ Thích Ca
đi đến
nơi mà hồi
năy chúng ta dùng cơm
trưa xây dựng
một Ca Tỳ La Vệ mới
và do vậy chúng ta có hai thành Ca Tỳ La
Vệ, một là tiền Ca Tỳ La Vệ,
hai là hậu Ca Tỳ La Vệ.
|
|
Khi thành Ca Tỳ La Vệ
này được
hoàn tất th́ Đức
Phật Ngài chưa
bao giờ đặt
chân đến
đây và duy chỉ
có một điều
là tám phần xá lợi
Đức Phật
được
chia ra sau khi Đức
Thế Tôn viên tịch, th́ một phần
đă chia cho
gịng họ Thích Ca và gịng họ Thích Ca đă
đem về thờ
tại một tháp, một nền tháp
tṛn nha khảo cổ Ấn Độ
đang khai quật
nền tháp này ở
trên đó có một
cái thố bằng
đá qúi và khắc
chữ là "Đây
là di cốt của Đức
Phật Thích Ca Mâu Ni." được
trao cho gịng họ Thích Ca thời
đó, th́ cái
thố đó cũng
như phần
xá lợi đang
được
lưu giữ
tại viện bảo tàng New Dehli. Những
lần mà chúng tôi đưa
phái đoàn về
qua ngả New Dehli th́ đều
đến viện
bảo tàng để
chiêm bái và đảnh
lễ.
|
chụp tại ṭa tháp thờ Xá Lợi Phật tại Ca Tỳ La Vệ |
Xe bus gần tới
biên giới Nepal
TT Giác Đẳng
giảng cho chúng tôi về xứ
Nepal này.
TT Giác Đẳng giảng. Trước năm 2008 th́ Nepal gọi là vương quốc Nepal (kingdom of Nepal) nhưng ngày nay có tên mới gọi là Cộng Ḥa dân chủ liên bang Nepal (Federal Democratic Republic of Nepal.) Nepal là một vùng đất rất đặc biệt trước nhất là nằm ở giữa hai cường quốc lớn nhất của Á Châu: một bên là Trung Quốc và một bên là Ấn Độ. Trong chánh sách ngoại giao th́ Nepal thường đứng ở giữa, mặc dầu văn hóa ảnh hưởng Ấn Độ nhưng họ rất ái ngại thế lực của Trung Quốc ở phương bắc do đó họ luôn luôn nhân nhượng và thỏa hiệp, ví dụ như chánh sách đối với Đức Đạt Lai La Ma là một trong chánh sách tương nhượng của họ đối với Trung Quốc. Nepal lại có một đặc biệt về phương diện địa lư khác, đó là trong 10 đỉnh núi cao nhất thế giới th́ Nepal có tất cả tám đỉnh núi cao nhất thế giới trong đó có đỉnh núi Everest là đỉnh núi cao nhất thế giới cũng nằm trong đất nước Nepal. Nepal nằm dưới chân núi Hi Mă Lạp Sơn, một phần lớn đất nước Nepal ngày xưa nằm trong vương quốc của gịng họ Thích Ca, nên nhớ rằng biên giới ngày nay là do người Anh vẽ và do vậy rất là khó để xác định được biên giới của gịng họ Thích Ca đi đến đâu, chúng ta chỉ biết rằng phần đất của gịng họ Thích Ca nằm dưới chân núi Hi mă Lạp Sơn, và ngày nay th́ thể tích của Nepal về chiều dài có thể rộng hơn nhưng bề ngang có thể nhỏ vương quốc của gịng họ Thích Ca ngày xưa.
|
|
Theo sự
tranh luận của những
nhà khảo cổ th́ chữ
Nepal có thể đến
từ hai nguồn
gốc đó là
chữ Nepal là chữ
viết tắt của
chữ Newars,
Newars là tên của vương
quốc mà thủ đô
là Kathmandu bây giờ,
nhưng chữ
Nepal c̣n có nghĩa là chữ
Ne là bậc thánh Pal là hộ tŕ có nghĩa
là nơi được
hộ tŕ bởi
bậc thánh gọi là Nepal.
Đất nước Nepal diện tích non phân nửa đất nước Việt Nam với diện tích khỏang chừng hơn 140,000 cây số vuông dân chúng th́ hơn 29 triệu dân tức là hơn 1/3 dân chúng Việt Nam, họ nói ngôn ngữ Nepali và chữ viết giống dạng chữ Phạn ngày nay của người Ấn Độ. Giờ giấc tại Nepal rất đặc biệt là Nepal đi trước Ấn Độ 15 phút, chúng tôi lấy ví dụ là ở Ấn Độ 2 giờ th́ Nepal là 2:15, và Ấn Độ đi trước Việt Nam 1 tiếng rưỡi đồng hồ. Tiền Ấn Độ có thể dùng tại Nepal nhưng tiền Ấn Độ trị giá cao hơn tiền Nepal. Xe đă tới biên giới Nepal, ngừng tại trạm kiểm soát, ĐĐ Thiện Thắng và TT Giác Đẳng xuống xe để lo làm hộ chiếu cho đoàn, chúng tôi ngồi lại trong xe và nh́n qua cửa sổ quan sát sự sinh hoạt của dân chúng trong vùng biên giới. Dân chúng của cả hai nước Ấn Độ và Nepal tụ lại nơi đây buôn bán rất tấp nập, phần lớn nước da của họ đen sậm, nét mặt của người Nepal hao hao giống người Việt Nam, y phục th́ giống y phục của người Ấn Độ. |
Cổng vào biên giới Nepal có khắc h́nh Đức Phật |
Phần lớn
các sản phẩm tại đây
là vải vóc, quần áo và trái cây. Sau khi
làm xong thủ tục hộ chiếu ĐĐ Thiện Thắng
và TT Giác Đẳng
trở lại xe
cùng với rất
nhiều trái cây như chuối và quít được
quí Ngài mua cho đoàn ăn, chúng tôi rất
thích quít và chuối ở
đây tuy nhỏ
nhưng rất
ngọt. Xe bus lại tiếp tục lên đường,
xe chạy vào thôn làng của Nepal, hai bên đường
là những cánh đồng
lúa bát ngát, thỉnh thoảng chen lẫn
những căn
nhà ngói tươm
tất có vườn
cây bao quanh, một cảnh thật là thanh
b́nh và sung túc, tôi có cảm nhận rằng
tuy đất nước
Nepal nhỏ nhưng
hầu như không
hề có một cánh đồng
bỏ hoang nào trên đường
chúng tôi đi
qua, trái lại bên Ấn Độ
đoạn đường
từ Patna đến
Bồ Đề
Đạo Tràng
rất nhiều cánh đồng
bỏ hoang cỏ cháy khô không người
khai khẩn. Xe đến
thành phố Rupandehi gần vườn
Lâm Tỳ Ni th́ trời
xẩm tối, mọi người
vào khách sạn ăn
uống xong th́ đi
nghỉ chứ không đi tham
quan nơi nào như
đă định
trước. |
Tŕnh bày: Minh Hạnh và Nguyễn Văn Ḥa |