Hành Tŕnh Tâm Linh - Lumtini |
|
Minh Hạnh phóng sự "Ngày 24 tháng 3 năm 2010 - Chiêm bái thánh tích Lumbini, Nigrodharama, Thăm viếng: chùa Việt Nam, chùa Thái Lan, chùa Tây Tạng, và cổ thành Ca tỳ la vệ Những bài giảng về danh tánh Đức Phật, lịch sử chùa Nigrodharama -- |
|
Ngày 24-3-2010 Khí hậu ở Nepal trời nóng gay gắt, để giữ ǵ sức khỏe cho đoàn TT Giác Đẳng đưa phái đoàn đi thăm viếng các thánh tích rất sớm để buổi trưa về khách sạn ăn cơm xong th́ nghỉ ngơi và 4:00 giờ chiều trời dịu lại th́ chúng tôi đi thăm viếng các thánh tích tiếp. Do vậy 5:30 thức dậy, 6 giờ ăn sáng sau đó chúng tôi ra xe bus để đi tham quan. Xe bus chạy ngang vườn Lumtini, kể từ năm 1970 Liên Hiệp Quốc đă có kế hoạch phát triển thành trung tâm Hoà B́nh Thế Giới, các quốc gia Phật Giáo được Liên Hiệp Quốc chia đất để xây cất những ngôi chùa trong thánh địa do vậy tại đây các ngôi chùa Nhật Bản, Miến Điện, Thái Lan, Đại Hàn, Cambochia, Việt Nam xây dựng qui mô rất lớn và rất đẹp chung quanh thánh địa và tạo thành một cản giác nơi đây chính thật là quê hương tâm linh của người con Phật. Ngày xưa vùng đất này là biên giới của hai vương quốc Sakya và vương quốc Koliyas. |
Vườn Lumbini |
Vương quốc
Sakya là nội tông của Đức
Phật bên phía vua Tịnh Phạn c̣n vương
quốc Koliyas bên ngoại tông của Đức
Phật tức
là bên phía hoàng hậu Maya. Theo phong tục
thời bấy
giờ th́ khi
hoàng hậu Maya sắp
hạ sanh con đầu
ḷng th́ bà về quê ngoại tức
là quê hương
để sanh nở,
đó là phong tục
của người
Ấn Độ,
bà tới khu vườn
tên là Lumbini nằm
giữa biên giới
Koliyas và Sakya, tại khu vườn
sinh đẹp
này Thái Tử
Sĩ Đạt
Đa chào đời.
Dọc đường xe chạy thật là may mắn cho chúng tôi được nghe TT Giác Đẳng giảng về cuộc đời của Đức Phật
|
TT Giác Đẳng giảng: Nhân lúc chúng ta đến thăm thành Ca Tỳ La Vệ th́ chúng tôi xin nói đến một số danh tính của Đức Phật. Khi Ngài chào đời th́ có 8 vị Bà La Môn được tuyển chọn ở trong số mấy trăm vị đến dự lễ đặt tên, đó là phong tục của Ấn Độ thời xưa và nay vẫn c̣n giữ là những người giàu có khi sanh ra họ không đặt tên cho đứa con ngay lúc mới sanh giống như cha mẹ ở Việt Nam mà thay vào đó th́ tổ chức một buổi lễ ba ngày sau khi hài nhi chào đời, nhất là những gia tộc giàu có th́ họ mời rất nhiều vị thầy chiêm tinh hay những giáo sĩ Bà La Môn đến để có lời tiên tri về tương lai của đứa bé. Trong 8 vị này ở trong đó có 7 vị đưa 2 ngón tay lên và tiên tri rằng Thái Tử lớn lên sẽ thành tựu được sở nguyện lớn lao của ḿnh tức là vua th́ sẽ trở thành một đại đế và nếu rời bỏ gia đ́nh sống đời sống xuất gia th́ sẽ trở thành một tôn sư vĩ đại, chỉ có một người trẻ duy nhất là đạo dĩ Kondanna tức là vị đạo sĩ Kiều Trần Như th́ khẳng định rằng Thái tử sẽ đi theo con đường xuất thế, cho dù là tiên tri cách nào đi nữa th́ mọi người đều nói rằng Thái Tử sẽ đạt thành sở nguyện vĩ đại của ḿnh, do đó nhà vua đặt tên là Siddattha có nghĩa là là đạt thành sở nguyện hay viên thành sở nguyện. |
TT Giác Đẳng đang về lịch sử danh tánh Đức Phật tại khuôn viên Lumbini |
Như vậy
Siddattha là tên của Đức
Phật, nhưng
chúng ta chỉ dùng tên này khi Ngài c̣n là
Thái tử ở
trong cung là Thái Tử
Sĩ Đạt
Đa. Ngài theo chế
độ mẫu
hệ do vậy mặc
dầu Ngài sanh ra trong gịng Sakya nhưng
mang họ mẹ, mẹ của Ngài họ
là Gautami, Gautami là nói theo nữ
tính c̣n Gautama là nam tính.
Chúng ta thường nghe những người ngoại đạo gọi Ngài là Samon Cồ Đàm lấy từ chữ Samon Gautama. Chữ Cồ Đàm có khi chúng ta c̣n âm thành Kiều Đàm như Kiều-Đàm-Di tức là Gautami là Di Mẫu Cồ Đàm. Th́ Cồ Đàm hay Gautama là họ mẹ, Ngài không lấy họ cha v́ chế độ mẫu hệ hồi xưa. |
Chúng ta có một danh từ
khác thường
dùng đó là Đức
Phật Thích Ca, đúng
ra nói cho đủ
là Thích Ca Mâu Ni hay Sakyamuni. Chữ
Mu Ni âm là Mâu Ni từ
tiếng Phạn có nghĩa là bậc hiền
triết hay bậc ẩn sĩ. Sakyamuni hay
là Thích Ca Mâu Ni là bậc thánh triết hay
bậc hiền triết gịng họ Thích
Ca.
Những vị tỳ kheo tu theo Đức Phật thường gọi là Sakyaputta là Thích tử tức là con của gịng họ Thích Ca, hay là Sakyadhita là Thích nữ là con gái của gịng họ Thích Ca trong trường hợp như vậy th́ dùng chữ Sakya. Người Phật tử th́ không dùng chữ Gautama để gọi Đức Phật mà thường người ngoại đạo mới dùng chữ Gautama hay chữ Cồ Đàm để gọi Đức Phật, ví dụ như họ gọi samôn Cồ Đàm, và trong kinh điển th́ cũng rất ít trường hợp gọi Đức Phật là Sakyamuni tức là Đức Phật Thích Ca Mâu Ni. Ngày hôm nay chúng ta thường là dùng chữ Bhagavato là Đức Thế Tôn để chỉ cho Đức Phật. |
Bên bờ hồ nơi Hoàng Hậu Maya sau khi sanh Thái Tử đă tắm tại hồ này |
Như
trong kinh Tôn Giả Ananda thường
tŕ tụng Tam Tạng chẳng
hạn "Như
vầy tôi nghe một thời
Đức Thế
Tôn", th́ chữ
Đức Thế
Tôn dùng chữ
Bhagavato chứ
không dùng chữ
Gautama, Cồ Đàm
hay dùng chữ
Buddha. Bây giờ
chúng ta hay dùng chữ
Phật Đà để
chỉ Đức
Phật nhưng
thời xưa
th́ dùng chữ Đức
Thế Tôn, Đức
Thế Tôn có nghĩa là bậc tối cao
tối trọng ở
trong cuộc đời
này.
Mỗi thời có một cách gọi nhưng chúng tôi xin được nhắc lại là chữ Thích Ca Mâu Ni th́ chữ Mâu Ni có nghĩa là ẩn sĩ là vị hiền triết là bậc thánh triết gịng họ Thích Ca, chữ Sakya là tên của một gịng tộc Thích Ca, và vương quốc này cũng là vương quốc Sakya kingdom tức là vương quốc của Thích Ca. |
Theo trong kinh th́ trong bản sớ
giải cho chúng ta biết rằng
thời rất
xa xưa ở
xứ Kashi có một
vị vua và vị vua này có tám người
con, sau khi sanh người
con thứ tám
th́ vài năm sau
hoàng hậu qua đời
và nhà vua đi một
bước nữa
cưới một
phụ nữ khác
về làm hoàng hậu, trong lúc vua và hoàng
hậu sau này ở
trong những giờ
phút rất thân mật th́ vị hoàng hậu
có một lời
thỉnh nguyện là mong rằng
đứa con của
bà sanh ra mai mốt sẽ thừa
kế ngai vàng, trong lúc v́ quá thương
hoàng hậu nên nhà vua đă
hứa, sau khi hứa
xong nhà vua mới
chạnh ḷng bởi
v́ hoàng tử do
hoàng hậu sau sanh ra là hoàng tử
nhỏ nhất, trong lúc đó
nhà vua đă có
tám người
con, nhà vua không biết phải làm ǵ khác
hơn là gọi
tám người
con đến và
tám người
con đó đứa
nhỏ nhất th́ cũng 16 tuổi, nhà
vua mới nói rằng:
|
Hồ nơi Hoàng Hậu Maya tắm sau khi sanh Thái Tử |
"Ta v́ một chốc bốc đồng mà hứa sẽ trao vương quyền lại cho đứa bé sơ sinh tức là thái tử út mới chào đời, ta thật sự có lỗi với các con, vậy đây là vàng, đây là bạc, đây là xe ngựa, đây là tùy tùng, anh em các con hăy lấy tất cả những thứ này lên đường tới một nơi nào đó thật xa khỏi quốc độ này, hăy lập một vương quốc riêng của ḿnh th́ như vậy ta mới cảm thấy an ḷng và mẹ của các con cũng cảm thấy ngậm cười." Tám vị hoàng tử và công chúa đảnh lễ phụ hoàng và lên đường cùng với tùy tùng và xa mă châu báu, họ đi về phía bắc đến gần chân núi Hi Mă Lạp Sơn tại vùng đất này, tại đây họ t́m thấy một b́nh nguyên bằng phẳng và đẹp mà không có vua chúa do đó họ quyết định lập nghiệp tại đây. Lúc đó họ đă gặp một vị đạo sĩ tên là Kapila sống trong rừng. Đạo sĩ Kapila vốn trước kia cũng đến từ Varanasi là một người thông hiểu triều nghi thông hiểu luật pháp v́ chán nản sự đời bỏ lại tất cả để đến đây tu tập một ḿnh. Khi gặp tám vị hoàng tử và công chúa th́ đạo sĩ Kapila rất thương có lẽ là có túc duyên từ kiếp trước, do đó đạo sĩ Kapila đă chỉ dẫn cho tám vị hoàng tử và công chúa từ cách lựa chọn mảnh đất nào xây dựng thành kinh đô và những bước đầu cần phải làm để xây dựng một triều đ́nh một biên cương mới, tức là họ tạo một giang sơn đầu tiên của họ, và một vài năm sau th́ quốc gia trở thành phú cường, nơi này trở thành vùng đất giàu có.
|
|
Tám vị hoàng tử và công chúa đă trọn một số tùy tùng trong những người đi theo họ để trở thành một phái bộ về thăm lại vua cha ở Kashi. Khi về thăm lại vua cha th́ phái bộ kể tất cả sự việc của hoàng tử và công chúa tại vùng đất mới mà họ đă chiếm ngự và xây dựng một vương quốc như thế nào họ đă xây dựng kinh đô như thế nào, th́ nghe xong th́ nhà vua thốt lên một câu là "Sakya Sakya" tức là "thật là anh hùng thật là anh hùng." Chữ Sakya đó lại là một chữ mà phái bộ ghi nhớ và khi trở về th́ thuật lại cho các vị hoàng tử và công chúa th́ những người đó rất vui mừng và nói chuyện với đạo sĩ Kapila sau đó họ đă quyết định chọn tên của gịng tộc mới hoàn toàn là Sakya có nghĩa là bậc anh hùng, từ đó trở đi chúng ta có gịng họ Sakya là gịng họ Thích Ca. Về sau này để nhớ ơn vị đạo sĩ đă giúp cho họ nên họ |
Nơi thờ phiến đá có dấu chân Đức Phật khi đản sanh |
đă
chọn tên của vị đạo
sĩ là tên của kinh đô
là Kapilavatthu (Ca Tỳ
La Vệ) vatthu có nghĩa là vùng đất
một quần thể một sự
việc th́ Kapilavatthu có nghĩa là vùng đất
xuất phát từ
đạo sĩ
Kapila. Kapila là tên của vị đạo
sĩ đầu
tiên đă giúp
cho tám vị hoàng tử
và công chúa dựng
lên vương
quốc tại nơi
này, th́ như vậy
th́ chúng ta có gịng Thích Ca chúng ta cũng có
kinh đô
Kapilavatthu.
Có một vài sự kiện liên quan đến gịng họ Sakya theo văn hoá thời xưa th́ người ta rất trọng về huyết thống tức là họ không muốn cho có sự pha lẫn gịng máu này với gịng máu kia. Thời xa xưa người Aryan từ Trung Á đổ xuống đây th́ tại nơi này có rất nhiều những thổ dân như chúng ta thấy ở tại đây và những thổ dân này thuộc cấp nô lệ và do vậy người Aryan có một thái độ kỳ thị rất lớn, thái độ kỳ thị đó là họ luôn luôn xem chuyện gọi là quần chủng là một yếu tố khẳng định giá trị tồn tại của họ nên người Aryan không lấy những người khác chủng tộc mà họ thường lấy những người trong gịng tộc gịng họ của họ, điều này có khác với người Trung Hoa, người Trung Hoa th́ nếu là bên nội tức là chú bác th́ tuyệt đối là không được cưới gả với nhau trong lúc đó bên ngoại th́ có thể cưới gả với nhau, lấy ví dụ như là một người con gái của Trung Hoa không thể nào lấy một người anh hay là em gọi là chú bác gọi là đường ca th́ họ không lấy nhau, nhưng nếu bên ngoại là con bạn d́ ruột họ gọi là biểu ca th́ họ có thể cưới gả với nhau được, th́ việc này rất là b́nh thường ví dụ qúi vị xem phim Thiên Long Bát Bộ th́ Vương Ngọc Yến yêu Mộ Dung Phục tính trong vai vế là con cậu ruột, họ có thể nghĩ tới chuyện hôn nhân th́ đó là quan niệm của người Trung Hoa, nhưng người Ấn Độ thời xưa cho đến bây giờ th́ họ đặt nặng về vấn đề quần chủng gọi là huyết thống thanh tịnh bảy đời, huyết thống thanh tịnh bảy đời tức là nhiều đời gịng máu không bị pha lẫn với người ngoài, về phần này chúng ta có thể t́m thấy ở Ai Cập thời xưa cũng có những chuyện là trong một hoàng tộc như vậy họ lấy nhau chứ họ không lấy người ngoài, đúng ra th́ nếu chúng ta đọc lịch sử của Anh Quốc lịch sử Âu Châu th́ chúng ta thấy rằng vua Đan Mạch, Nga hoàng, vua Tây Ban Nha và Anh Quốc đều là bà con với nhau, thời xưa th́ họ cưới gả qua lại chứ họ không lấy người thường dân ở bên ngoài, dĩ nhiên quan niệm này từ từ đă khóa sổ đă thay đổi, |
|
tại Nhật Bản
th́ Thiên Hoàng mới
hai thế kỷ vừa
qua th́ vị thái tử
lập gia đ́nh
với người
thường dân
mà thôi chứ
không lấy người
trong hoàng tộc đó
là câu chuyện rất phổ thông ở
nhiều nơi
trên thế giới
và điều đó
cũng xảy ra ở
gịng họ Thích Ca.
Chúng tôi xin nhắc lại là tên của Đức Phật là Siddattha mà chúng ta âm là Sĩ Đạt Đa, họ của Ngài là Gautama mà chúng ta âm là họ Cồ Đàm hay là Kiều Đàm, đúng ra trong khuynh hướng ni bộ thường âm là Kiều Đàm bên tăng là Cồ Đàm, nhưng Gautama mà chúng ta đọc ở trong kinh th́ đó là họ của Đức Phật, và chữ Sakya là Thích Ca là tên của gịng tộc chứ không phải là họ cũng không phải là tên của Đức Phật, mà là gịng Thích Ca, như vậy nói theo Phạn âm th́ là tên Sĩ Đạt Đa họ Cồ Đàm người gịng tộc Thích Ca, người ngoại đạo gọi Đức Phật là Samôn Cồ Đàm, samôn có nghĩa là vị tu sĩ và người Phật tử thường gọi Đức Phật là Bhagavato là Đức Thế Tôn. |
Phiến đá dấu chân Đức Phật |
Thành Ca Tỳ La Vệ (Kapilavatthu), xưa kia là một kinh thành trù phú, nơi thái tử Sĩ Đạt Ta (Siddhāttha) sinh ra và lớn lên trong nhung gấm lụa là, và sự kính trọng nể v́ của toàn bộ tộc Thích Ca (Sakya), sự hy vọng và ngưỡng mộ của toàn dân kinh thành Ca Tỳ La Vệ nhưng Ngài từ cảm nhận của sanh lăo bệnh tử những khổ đau và hạnh phúc, sự sống mong manh, cái chết vô thường Ngài đă ra đi, ra đi để t́m chân đế với mục đích cứu khổ chúng sanh và Ngài đă giác ngộ. Đó là câu chuyện lịch sử. Ngày hôm nay chúng tôi được đưa đến thăm viếng hoàng cung nơi Đức Thế Tôn đă sinh sống cho đến khi Ngài từ bỏ để đi xuất ra bây giờ nơi đây chỉ c̣n lại di tích hoang phế, cổng thành bằng gạch nghiêng ngửa với rêu phong lối đi đầy cỏ hoang dại mọc khắp nơi không một bàn tay chăm sóc. Cách cổng gạch không xa là một tháp được Ngài Huyền Trang ghi trong kư sự do vua Tịnh Phạn xây đánh dấu nơi con ngựa Kiền Trắc sau khi đưa Thái Tử Sĩ Đạt Đa đi xuất gia và Thái Tử đă cắt tóc ở gịng sông Anoma, sau đó th́ Xa Nặc đă đem cẩm bào về tới đây c̣n con ngựa Kiền Trắc đă chết ở đó, vua Tịnh Phạn đă xây tháp để tưởng nhớ con ngựa Kiền Trắc và đánh dấu sự ra đi của Thái Tử Sĩ Đạt Đa. Khi phái đoàn của chúng tôi đến th́ tại thánh tích đă có một vài phái đoàn đến trước và đến sau cũng đang chiêm bái thánh tích. Rời thánh tích chúng tôi lên đường đến thăm viếng ngôi chùa Nigrodharama.
|
|
Lịch Sử
Chùa Nigrodharama.
Theo lời giảng của TT Giác Đẳng, chúng tôi xin sơ lượt lại. Chùa Nigrodharama là ngôi chùa rất nổi tiếng trong lịch sử của đạo Phật. Chữ Nigrodha có nghĩa là diệt tận khổ đau, Nigro nghĩa là tịch tịnh. Nigrodharama là một công viên của gịng họ Thích Ca. Ngày xưa
thời Đức
Phật c̣n tại thế th́ không gọi
là chùa như
chúng ta ngày nay. Chúng ta gọi là chùa nhưng
chùa của chúng ta ngày nay có tánh cách là
nơi thờ
phượng.
Thật ra th́ ngày xưa
nơi Đức
Phật và chư
tăng ở
gọi là trú xứ.
Trú xứ để
tu tập. Do vậy chúng ta có nhiều chữ
để gọi,
thí dụ như
chữ viên, như
Trúc Viên - Jetavana, Trúc Lâm -Veluvana. Vana nghĩa
là khu vườn.
Đức Phật
và Chư Tăng
khi đi du hành
th́ thường
t́m đến
những nơi
có cây cao bóng mát.
|
Nền tháp Nigrodharama |
Do vậy vua Tịnh Phạn, ông Cấp Cô Độc hay vua B́nh Sa Vương khi Đức Phật và Chư Tăng về th́ thường dành cho một công viên. Công viên thường cất xa hoàng cung, một ư kiến rất tốt v́ ở trong hoàng cung có luật lệ nên không thoải mái do vậy những vị vua hay những vị trong hoàng tộc thường xây dựng những công viên ở ngoài hoàng cung và đặc biệt chỉ dành cho những người trong hoàng tộc dùng cũng như chúng ta gọi là ngự uyển. Khi Đức Phật về thành Ca Tỳ La Vệ th́ vua Tịnh Phạn đă quyết định lấy công viên Nigrodha này để cúng dường Đức Phật và Chư Tăng, từ đó trở đi công viên Nigrodha thuộc quyền sở hữu của Đức Phật và Chư Tăng, ngoại đạo không đến đây và hoàng tộc không đến đây dùng nữa, và người ta dùng chữ Nigrodharama tức là ngôi chùa Nigrodha. | |
Tại ngôi chùa này là nơi
diễn ra rất nhiều sự
kiện được
ghi nhận trong cuộc đời
của Đức
Phật.
Khi Đức Phật mới về thành Ca Tỳ La Vệ lần đầu tiên th́ tại Nigrodharama Đức Phật đă cho con là Rahula xuất gia. Lúc bấy giờ Rahula lên bảy tuổi và vâng lời khuyên của mẹ tức là công nương Yasodhara đi theo Đức Phật, Đức Phật đi bộ từ hoàng cung tới công viên Nigrodha. Bởi v́ Thái Tử Rahula là một vị hoàng thái tử do đó không ai dám ngăn cản và hơn nữa Thái Tử Rahula là con của Đức Phật. Rahula đi theo Đức Thế Tôn về tới Nigrodharama th́ Rahula đă nói một câu rất ngây thơ nhưng rất hiền hậu hồn nhiên: "Con ở kế bên Ngài cảm thấy rất là mát mẻ thoải mái." |
chụp tại nền nền tháp Nigrodharama |
Sau đó
Rahula nhớ lời
mẹ dặn đă
qùi xuống đảnh
lễ lạy Ngài ba lạy và thưa
với Đức
Phật như lời
của mẹ đă
dạy
"Bạch Đức Thế Tôn, Ngài là cha của con, con là con của Ngài, xin Ngài trao truyền đế nghiệp và tài sản của Ngài lại cho con." Khi Rahula bạch với Đức Phật như vậy th́ Đức Phật không trả lời cho Rahula mà Ngài quay sang Tôn Giả Xá Lợi Phất đang ngồi bên cạnh, Ngài nói với Tôn Giả Xá Lợi Phất "Ta sẽ cho đứa con này sự nghiệp tinh thần của bậc thánh, gọi là thánh sản." Khi Đức Phật nói như vậy rồi th́ Tôn Giả Xá Lợi Phất cạo đầu cho Rahula và Rahula trở thành vị sadi đầu tiên. |
|
Một sự kiện khác là cũng trong dịp Đức Thế Tôn về thành Ca Tỳ La Vệ lúc Thái Tử Nanda 16 tuổi được vua Tịnh Phạn tổ chức lễ cưới với công nương Janapada Kalyani. Thái Tủ Nanda là em cùng cha khác mẹ với Đức Phật. Vua Tịnh Phạn có hai người vợ là hoàng hậu Maya và Pajapati Gotami. Hoàng hậu Maya sau khi hạ sanh Thái Tử Sĩ Đạt Đa bảy ngày th́ hoàng hậu Maya từ trần, Thái Tử Sĩ Đạt Đa được giao cho Pajapati Gotami vừa là kế mẫu vừa là d́ mẫu v́ bà hoàng hậu Pajapati Gotami là em ruột của hoàng hậu Maya, hai chị em cùng lấy vua Tịnh Phạn. Hoàng hậu Pajapati Gotami sống với vua Tịnh Phạn có hai người con là Nanda và công chúa Nandi, công chúa Nandi sau này xuất gia trở thành vị thánh ni. |
Phái đoàn chụp tại Ca Tỳ La Vệ |
Nanda là người
em cùng cha khác mẹ với
Đức Phật,
khi Đức Phật
trở về thành
Ca Tỳ La Vệ nhân dịp đó
vua Tịnh Phạn tổ chức
lễ cưới
thỉnh Đức
Phật đến
để cúng dường
trai tăng. Sau
khi thọ trai Đức
Thế Tôn đă
đứng dạy
và Ngài trao b́nh bát cho Thái Tử
Nanda. Thái Tử
Nanda rất thương
và rất kính Đức
Phật, thấy Đức
Phật trao b́nh bát th́ ôm b́nh bát đi
theo Đức Phật
đến vườn
Nigrodha, và khi đến
vườn
Nirodha th́ Đức
Phật hỏi Nanda một câu là:
" Nanda có muốn xuất gia không?" Th́ một vị hoàng tử tuổi mới lớn lên và thật sự là đang trong ngày hôn lễ mà Đức Phật hỏi có muốn xuất gia không th́ thật là đau buồn, nghĩa là không biết phải trả lời thế nào mà đành trả lời: "dạ, muốn"
|
Và Đức Thế Tôn đă cho Nanda xuất gia. Về sau này câu chuyện mà chúng ta được biết lúc ban đầu Thái Tử Nanda gặp nhiều khó khăn trong việc tu tập, bởi v́ không quen với đời sống xuất gia và vẫn tưởng nhớ vị hôn thê Janapada Kalyani. Lúc Nanda bưng b́nh bát đi theo Đức Phật th́ công nương Janapada Kalyani người vợ sắp cưới của Thái Tử Nanda từ trên lầu cao gọi theo "Này hoàng tử thân yêu hăy mau trở về." Nhưng đến vườn Nigrodha th́ Đức Thế Tôn cho Nanda xuất gia. Đó là một giai thoại truyền kỳ được nhắc nhiều đến trong lịch sử và trong phim ảnh về cuộc đời của Đức Phật Một câu chuyện khác chúng ta được
biết là di mẫu Pajapati Gotami.
|
chụp tại Ca Ty La Ve |
Khi Đức Phật Ngài trở về thành Ca Tỳ La Vệ th́ di mẫu mặc dầu là d́ là mẹ kế nhưng di mẫu rất thương Đức Phật bởi v́ bà đă nuôi Đức Phật từ hồi c̣n tấm bé, từ lúc mới sanh ra được bảy ngày th́ bà đă nhận trách nhiệm nuôi đến lớn, do vậy khi Đức Phật về đây ở trong thời gian Ngài an cư tại đây th́ bà đă làm một việc mà trước đây chưa có ai làm. Đó là bà xin vua Tịnh Phạn một mảnh đất gần hoàng thành, trên mảnh đất đó th́ tự tay bà trồng bông vải, rồi tự tay bà thu hoạch, rồi tự tay bà dệt vải từ bông vải, tự tay bà nhuộm vải rồi bà may một chiếc y, một chiếc y do chính bàn tay của hoàng hậu làm nghĩa là từ lúc trồng bông vải rồi dệt v.v... mặc dù có người đến cố vấn chỉ cho bà nhưng phần làm th́ do bà làm rồi bà đem đến công viên Nigrodha để cúng dường cho Đức Phật bằng tất cả t́nh thương, t́nh thương của một bà mẹ của một người d́ chứng tỏ bà rất quí kính Đức Phật. |
chụp tại Ca Tỳ La Vệ |
Nhưng khi bà đem đến cúng dường Đức Phật thái độ của Đức Phật đă làm cho bà rất sửng sốt. Đức Phật không nhận. Thậm chí Tôn Giả Ananda là thị giả của Đức Phật đă bạch với Đức Phật : "Bạch Đức Thế Tôn, di mẫu là một người đă lo cho Đức Phật và đă chăm sóc Đức Phật xin Ngài từ bi nhận cho bà được vui" Đứ c Phật không nhận và sau đó Ngài thuyết một bài kinh ghi trong Trung Bộ Kinh "Cúng dường vô phân biệt." Ngài nói ngay cả một người cúng dường Đức Phật mà mang tánh cách cá nhân th́ sự cúng dường đó không tốt bằng cúng dường đến đại chúng Tăng Ǵa với tâm không phân biệt. Thí dụ như chúng ta có cái quạt đem vào chùa cúng dường cho thầy A thầy B dùng th́ không có phước bằng ḿnh đem vào chùa cúng cho Chư Tăng vị nào về muốn sài th́ sài, Đức Phật gọi là cúng dường vô phân biệt. H́nh ảnh đó một lần nữa nhắc nhở cho chúng ta thấy rằng khi Đức Phật thọ nhận của tín thí th́ Ngài nghĩ đến lợi ích của chúng sanh, ngay cả di mẫu rất thương Ngài, nhưng Ngài hiểu là di mẫu cúng dường cho Ngài mang t́nh thương rất vị kỷ giữa bà với Đức Phật như một bà mẹ như một bà d́, nhưng Đức Phật có tâm quảng đại hơn nghĩ đến tăng chúng. Sau khi y được cúng dường lên chư tăng th́ chư tăng ngày xưa vẫn làm và ngày nay vẫn c̣n làm là một chiếc y cúng dường đến chư tăng cả mấy trăm vị th́ chư tăng viết tên lên những lá thăm rồi mỗi vị bốc lá thăm, và chiếc y đó về tay một vị tỳ kheo trẻ tuổi nhất là tỳ kheo Ajita. Bà rất buồn. Sau đó Đức Phật đă giải thích cho bà hiểu được giá trị của sự cúng dường đại chúng. |
|
Thật ra trong cuộc đời của Đức Thế Tôn khi c̣n tại thế sau khi Ngài rời khỏi Ca Tỳ La Vệ về đây chỉ có ba lần, lần đầu tiên là năm thứ hai ngay sau khi Ngài thành đạo, lúc đó La Hầu La lên bảy tuổi, Ngài về đây lần đầu tiên lúc đó có sáu vị hoàng tử gịng Thích Ca xuất gia theo Ngài. Ngài trở về đây một lần thứ hai do duyên Ngài đi ngang giảng một bài kinh Cula Dukkhakkhandha Ngài cũng ở Nigrodharama. Lần thứ ba Đức Thế Tôn về đây khi vua Tịnh Phạn băng hà, và vua Tịnh Phạn nằm trên long sàng lúc bấy giờ vua là vị thánh Tu Đà Hườn, Đức Phật Ngài giảng pháp vua Tịnh Phạn đắc quả A La Hán và chính Đức Phật là người đứng ra để lo tang lễ cho vua Tịnh Phạn, đó là lần cuối cùng Ngài đến Nigrodharama. |
chụp tại Ca Tỳ La Vệ |
Sau khi Đức Phật đi th́ Nigrodharama này trở thành một ngôi chùa để chư tăng và Đức Phật khi về đây ở. Chúng ta được biết khi Ngài Pháp Hiển đến đây Ngài cho biết rằng chung quanh Nigrodharama có mười thị trấn, những thị trấn này đang t́nh trạng đi xuống, tuy vậy vẫn c̣n những thị trấn rất thịnh đó là những thị trấn chung quanh Nirodharama. Bây giờ tất cả đều là đồng ruộng hết, do vật đổi sao rời sau 2500 năm. Tại đây có một cái tháp theo kư sự của Ngài Huyền Trang khi Ngài đến thấy có hai tượng Phật, một tượng quay mặt về phương đông một tượng quay mắt về phương tây bây giờ tháp không c̣n, chỉ c̣n lại cái nền tháp thôi. Có một thời gian người Hindu đă lấy nơi này làm nơi thờ tự nhưng về sau nha khảo cổ Nhật Bản và chính phủ Nepal đă lấy lại để làm di tích Phật sử. | |
Rời
chùa Nigrodharama chúng tôi đến
thăm thánh tích
Lum T́ Ni.
Vườn Lâm T́ Ni (Lumbini) là nơi
Đức Phật đản sanh đă trở
thành địa danh hành hương của
Phật giáo nằm trong quận Kapilavastu của
nước Nepal. Nước Nepal là một
thung lũng nằm giữa những núi
đồi của vùng Hy-mă-lạp Sơn,
giáp biên giới vùng Đông Bắc Ấn
Độ. Về phía Bắc, Nepal giáp Tây
Tạng, về phía Đông giáp Sikkim; phía
Nam giáp Bengal và Uttar Pradesh; phía Tây giáp
Kumaon. Nơi biên giới vùng Bắc Nepal,
có rất nhiều đỉnh núi cao nằm
trong dăy Hy-mă-lạp Sơn: Dhawalagiri (26.837
ft), Machapuchar, Gaurishankicr và Yasa (24.000 ft),
Gosain than (26,313 ft), đỉnh Everest (29.002
ft), Kinchinjunga (28.146 ft) v.v...
Vườn Lum T́ Ni nằm gần biên giới
Ấn Độ. Là nơi Hoàng Hậu
Mayadevi hạ sanh Thái Tử Siddhartha Gautama,
trở thành Đức Phật Gautama, đă
tạo nên truyền thống Phật Giáo.
Đức Phật sống khoảng thời
gian 563 và 483 BCE. Lâm T́ Ni là một trong bốn
địa danh hành hương có sức
lôi cuốn mạnh, là nơi chủ chốt
liên quan đến đời sống của
Đức Phật, những nơi khác tại
Câu Thi Na (Kushinagar) nơi Đức Phật
nhập Niết Bàn, Bồ Đề Đạo
Tràng (Bodh Gaya) nơi Đức Phật thành
đạo, và Vườn Lộc Uyển (Sarmath)
nơi Đức Phật chuyển Pháp
Luân đầu tiên. |
Trước chánh điện chùa Thái Lan |
Lâm T́ Ni nằm dưới chân
dăy núi Hi Mă Lạp Sơn, 25 km về phía
đông của thành phố Kapilavastu. Là nơi
Đức Phật sống đến
năm 29 tuổi. Kapilvastu là tên của vị
trí trong câu hỏi cũng như của các
huyện lân cận. Lâm T́ Ni có một số
đền, trong đó có đền thờ
Hoàng Hậu Mayadevi, và những ngôi đền
khác đang được xây dựng.
Ngoài ra nơi đây có hồ Puskarini - nơi
Hoàng Hậu Mayadevi, mẹ của Đức
Phật đă tắm theo lễ nghi trước
khi sanh Ngài và cũng là nơi Ngài
được tắm lần đầu -
những người khác của cung điện
Kapilvastu cũng được tắm. Tại
những địa điểm gần Lâm
T́ Ni, Những Đức Phật thời
quá khứ, y theo truyền thống, sanh,
đạt được giác ngộ tối
thượng và cuối cùng từ bỏ
h́nh dáng trần tục.
|
|
Trong thời Phật, Lâm T́ Ni là một công viên nằm giữa Kapilavastu và Devadaha. Nơi đó Đức Phật được sanh ra. Vua Asoka khi đến chiêm bái đă cho dự một trụ đá để đánh dấu. Dựa theo câu khắc trên trụ đá, nó được đặt tại đây bởi những người ta trách nhiệm coi sóc công viên để tưởng nhớ đến chuyến viếng thăm của vua Asoka. Công viên trước đó đă được biết đến là Rummidei, hai dặm phía bắc của Bhagavanpura. Rời vườn Lâm T́ Ni chúng tôi trở về khách sạn dùng cơm trưa và nghỉ ngơi đến 4:30 chúng tôi được đưa đi thăm ba ngôi chùa, chùa Tây Tạng, chùa Thái Lan và chùa Việt Nam. |
chụp tại trước chùa Tây Tạng ngôi chùa đầu tiên tại Thánh Địa Lumbini |
Tŕnh bày: Minh Hạnh và Nguyễn Văn Ḥa |