Thap Nhi Nhan Duyen = Bai 1

Thap Nhi Nhan DuyenTT. Thích Giác Đẳng

Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 8 - Thủ duyên cho hữu


TT Giác Đẳng giảng tại khoá tu học năm 1995 tại Thụy Sĩ.
Chánh Hạnh chuyển biên

(Xin lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa chữa. Và xin đề rõ tên người chuyển biên


TT Giac Đẳng: Như vậy Hữu được xem như một tiến trình quan trọng của một chuỗi dài hành động hay chuỗi dài tác động. Có thể nói rằng không thể nào nhắc đến chữ hữu mà chúng ta không nói đến sự phân chia thập nhị nhân duyên theo cái nhìn của Ngài Buddhaghosa.
Ngài trình bày thập nhị nhân duyên theo ba đời sống:
-Đời quá khứ gồm có vô minh, hành và thức.
-Đời hiện tại gồm có danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ hữu.
-Sanh và lão tử là đời sống tương lai.
Như vậy thập nhị nhân duyên được trình bày trong thời gian được tính bằng ba kiếp sống nhập lại. Mặc dầu đời trước đời nay và đời sau cũng như nhau, nhưng đời trước chúng ta nhìn vào khía cạnh vô minh, hành và thức. Khi nhìn vào đời hiện tại chúng ta nhìn một cách chi tiết hơn, một cách máy móc hơn, nhìn vào danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, và hữu. Khi nhìn vào đời sống tương lai, chúng ta nhìn vào sanh lão tử.

Nói cách khác khi nói đến ba chi phần trong quá khứ gồm vô minh hành và thức, có nghĩa là do vô minh trong quá khứ tạo thành nghiệp và do nghiệp đó tạo thành thức tái sanh, được xem như một chu kỳ của quá khứ. Chu kỳ hiện tại gồm có danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ và hữu. Từ hữu đó dẫn đi tái sanh trong tương lai, kiếp tưong lai gồm có sanh và lão tử. Như vậy nói đến ba đời, nhưng ba đời đó với ba cái nhìn khác nhau về đời sống. Mặc dầu hiện tại bây giờ sẽ trở thành qúa khứ, và cái qúa khứ hôm nay đã là hiện tại của quá khứ, quá khứ ngày hôm qua cũng có thời gian là tương lai. Tuy nhiên nói về phương diện thời gian, nhìn về hiện tại hoàn toàn khác, nhìn về tương lai hoàn toàn khác, nhìn về quá khứ hoàn toàn khác. Ví dụ nói đến hành động, trong qúa khứ gọi là hành, nói đến nhân của hành động trong quá khứ chúng ta nói đến vô minh. Nhưng nói đến nhân hành động trong hiện tại, cái phiền não trong hiện tại, chúng ta nói đến ái chứ không nói đến vô minh. Do vậy chữ hữu ở đây là một tiến trình hoàn chỉnh của sự hiện hữu trong hiện tại này. Khi nói đến chữ Hữu, có nghĩa là nói đến một chung cuộc của hiện tại. Chung cuộc hiện tại đó là gì? Đó là từ chỗ có thân tâm, có danh sắc, có lục nhập, mới có xúc, thọ, ái, thủ, và hữu ( hữu là dẫn đến sự tạo tác các nghiệp) để thành hiện hữu.

Hay nói một cách khác, chữ hữu có nghĩa là những cơ năng sinh hoạt của đời sống được xem như tạo nghiệp cho đời sống tương lai. Nếu quý vị nhìn vào bản đồ thập nhị nhân duyên chúng tôi cầm trên tay, quý vị sẽ thấy hai khoen cuối cùng là sanh và lão tử được dùng để diễn tả đời sống tương lai, nó cũng là một sự diễn tả hoàn chỉnh, bắt đầu và chấm dứt. Chúng ta cũng thấy từ thức tạo ra danh sắc tức là khởi đầu kiếp sống cho đến hữu. Tại sao đời sống hiện tại này tại sao không chấm dứt ở lão tử mà chấm dứt tại hữu, lão tử chỉ được nhắc trong kiếp sống tương lai? Tại vì lão tử là kết quả của sự sanh. Do vậy có một chút lắc léo tại đây, khi chúng ta dùng chữ hữu là chỉ cho sự hiện diện của đời sống này (thay vì nói đến hành là hành động).

Rất ít khi chúng ta ta gặp một chi pháp tương đối khó định nghĩa và khó nói như thập nhị nhân duyên. Bởi vì ngay trong mười hai chi pháp này, riêng thời gian đã là vấn đề phức tạp rồi. Có thể nói rằng không thể nào đem từ vô minh cho đến lão tử gom vào trong một kiếp sống được. Tại sao vậy? Tại vì :
-Quý vị thấy khoen thứ mười một là sanh, cũng là khởi đầu một kiếp sống,
-Khoen thức duyên cho danh sắc cũng là khởi đầu một kiếp sống.
Như vậy trong mười hai vòng này đã nói đến ba đời sống khác nhau. Xin lập lại một lần nữa, chữ hữu nói lên một kiếp sống hoàn toàn. Trong kinh điển Đức Phật dạy cuộc sống chúng ta đang hiện hữu tại đây, tất cả đều dựa trên ba yếu tố: nghiệp, quả và phiền não. Phiền não là nhân tạo ra nghiệp, nghiệp đó có quả, trở lại phiền não và nghiệp. Trong ba yếu tố này, điều trình bảy bản chất đời sống lớn nhất là nghiệp. Phiền não chỉ là nhân sâu kín bên trong, và quả chỉ là kết quả của nghiệp.
Phra Viriyang Sirintharo

Nói tóm lại làm thiện làm ác, ăn uống ngủ nghỉ nói năng, tạo tác hành động chính là sự hiện hữu của con người. Cũng giống như câu nói “vì tôi có suy tư nên tôi hiện hữu”, người Phật tử nói rằng “vì chúng ta có tạo nghiệp nên chúng ta hiện hữu”.
Chúng ta thấy rõ rằng:
- vô minh là phiền não,
-hành là nghiệp,
-thức danh sắc lục nhập xúc thọ là quả,
-ái thủ là phiền não,
-hữu là nghiệp.
-Hữu là nghiệp đó tạo ra sanh, lão tử là quả.
Do vậy nhìn vào ba tiến trình nghiệp quả và phiền não của lý thập nhị nhân duyên, chữ hữu được xem như là nghiệp, là hành động, tương ứng với chữ hành. Tuy nhiên chữ hữu nói về trong quá khứ gọi là hành, nói về thời gian hiện tại gọi là hữu. Cũng giống như nói trong quá khứ gọi là vô minh, nói trong hiện tại gọi là ái dục. Tại sao? Ví dụ như thế này
Nếu ngày hôm qua chúng ta làm một việc gì đó sai lầm, nhìn lại chúng ta hỏi,
-“Tại sao chúng ta đã làm việc đó”.
-Chúng ta nói rằng, “Tại lúc đó chúng ta không biết”. “Cái không biết” nói về quá khứ là vô minh.
-Nhưng nếu hỏi, “ Tại sao chúng ta đang làm việc đó”.
-Chúng ta nói rằng, “ Tại chúng ta thích làm”. “Cái thích làm” nói trong hiện tại gọi là ái.
Như vậy vô minh và ái chỉ là một. Nó là hai mặt của một đồng tiền, đều là phiền não.
Nhưng cái động lực của ngày hôm qua là vô minh “ vài mê mờ, vì không biết nên đã làm chuyện đó”. Động lực của hiện tại là ái dục, “vì thích làm chuyện đó”.

Như vậy cái rắc rối của thập nhị nhân duyên là, vì dựa trên yếu tố thời gian nên chúng ta có cái nhìn khác đi. Cũng như cái thức dẫn đến danh sắc, thật ra nó đồng nghĩa với chữ sanh trong đoạn sau. Từ thức tái sanh dẫn đến sự hiện hữu của một kiếp người cũng là sự tái sanh. Chữ sanh và lão tử, được Đức Phật nói đến kiếp sống vị lai để cho chúng ta thấy hình ảnh kết quả hành động hiện tại.

Do vậy hữu có dục hữu và sắc hữu và vô sắc hữu. Có nghiệp đưa vào cõi dục giới, có nghiệp đưa vào cõi sắc giới, có nghiệp đưa vào cõi vô sắc giới.

Nghiệp đưa đến cõi dục giới là gì? Những nghiệp nào liên quan đến tham, sân, hoài nghi, hôn trầm thuỵ miên và phóng dật là nghiệp đưa vào cõi dục giới.
Con người chúng ta trong cõi dục có năm đặc tính:
1/Biết cảm nhận vẻ đẹp của cuộc sống. Đó là phương diện tốt. Về phương diện bất thiện, từ cái biết cảm nhận cái đẹp dẫn đến lòng tham. Như con người, ai có cảm tính mạnh thì sự tham muốn cũng mạnh, ưa chuộng cái đẹp.
2/ Có cơ năng biết tránh né những điều trái ý nghịch lòng. Về phương diện bất thiện điều này dẫn đến tâm sân.
3/ Có cơ năng biết nghỉ ngơi, như quý vị làm việc thấy mệt mỏi muốn đi ngủ chẳng hạn. Về phương diện bất thiện, điều này dẫn đến hôn trầm và thuỵ miên
4/ Có sáng tạo, có nghĩa là biết tạo ra những cái mới. Chư thiên ở cõi sắc giới và vô sắc giới không sáng tạo như chúng ta. Về phương diện bất thiện điều này dẫn đến phóng dật. Phóng dật là phóng tâm, tâm không trụ được.
5/ Sống nặng về suy tư và trí tuệ. Chuyện nào không biết không thấy được tự nhiên chúng ta dừng lại, không tiến tới nữa. Về phương diện bất thiện điều này dẫn đến sự hoài nghi.
Năm pháp tham, sân, hôn trầm thuỵ miên, phóng dật, hoài nghi là năm cơ năng của người dục giới. Quý vị thấy chúng ta như cái máy biết trọng cái đẹp, biết né cái xấu, biết nghỉ ngơi biết sáng tạo và biết hoài nghi. Năm trạng thái này dẫn đến năm phiền não. Do vậy khi đạt đến trạng thái cao hơn năm cơ năng này được xem như năm triền cái là năm điều ngăn ngại. Muốn tiêu diệt năm sự ngăn ngại này chúng ta phải phát triển năm chi thiền là tầm, tứ, hỷ, lạc và định. Như vậy nghiệp dẫn vào dục giới có trạng thái khác của nghiệp dẫn vào cõi dục giới. Nghiệp dẫn vào sắc giới có trạng thái khác của nghiệp dẫn vào sắc giới. Nghiệp dẫn vào vô sắc có trạng thái khác của nghiệp dẫn vào vô sắc. Do đó khi nói đến hữu là chúng ta nói đến một sự hiện hữu có bản chất hoàn toàn khác nhau. Chúng tôi đã có lần thưa với quý vị, theo kinh Phật hễ chúng ta sống như con người chúng ta trở thành con người, sống như con vật chúng ta trở thành con vật, sống như chư thiên sẽ trở thành chư thiên.

Đức Phật nói chư thiên có bốn đặc tánh. Chư thiên là bậc có rất nhiều giới hạnh. Ở đời sống này nếu quý vị giữ bát quan trai giới, tâm của quý vị giống như chư thiên vậy. Trong kinh có một lần Đức Phật nói, “ Vị Phạm Thiên luôn luôn có đức từ bi hỷ xả. Do vậy người nào tu tập từ bi hỷ xả, khi đi có từ bi hỷ xả thì đi giống như Phạm Thiên, khi đứng có từ bi hỷ xả thì đứng giống như Phạm Thiên, khi nằm có từ bi hỷ xả thì nằm giống như Phạm Thiên, khi ngồi có từ bi hỷ xả thì ngồi giống như Phạm thiên. Người đi đứng nằm ngồi giống như Phạm thiên sau khi chết sẽ sanh về cộng trú với Phạm thiên.”

Do vậy chữ hữu ở đây, nói lên sự hiện hữu, nói lên bản chất của đời sống hiện tại, bản chất đó là nền tảng của đời sống trong tương lai. Nền tảng hiện tại đó được chi phối bởi xúc, bởi thọ, bởi ái, bởi thủ và do nhân như vậy hữu có mặt. Khi chúng ta nói đến xúc, đến thọ, chúng ta nói đến môi trường nói đến điều kiện. Khi nói đến xúc, chúng ta nói nhãn xúc, nhỉ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Tức là sáu căn tiếp xúc vơí sáu cảnh, sáu căn này tiếp xúc với sáu môi trường, từ chỗ đó sanh ra cảm thọ sanh ra ái. Chúng ta làm một sự lựa chon, và chính sự lựa chọn đó nói lên sự có mặt của chúng ta trong cõi đời này. Nhiều lần Đức Phật nhấn mạnh rằng, “Không phải sanh ra trong một giai cấp là cao thượng, không phải mang một cái tên đẹp là cao thượng, chính hành động mới quyết định con người cao thượng hay không cao thượng”. Có nghĩa là chính hành động mới nói lên sự hiện hữu của con người. Một con người sát sanh trộm cướp v.v.. được xem như hiện hữu trong sự bất thiện . Một người biết bố thí trì giới tham thiền là hiện hữu trong thiện.

Do vậy “ái duyên cho thủ, thủ duyên cho hữu” .
-Ái ở đây tượng trưng cho phản ứng tự nhiên của sự tiếp xúc đối với các cảnh.
-Thủ được xem như là sự lựa chọn của đời sống chúng ta, lựa chọn đi theo con đường này lựa chọn đi theo con đường kia
-Và hữu là khi đời sống chúng ta đã lựa chọn, chúng ta lựa chọn sống theo cách nào đó gọi là hữu.

Khi giảng thập nhị nhân duyên, Ngài buddhaghosa đã đem vào Trong thanh tịnh đạo. Quý vị lật chương thứ 17, tập 2 về thập nhị nhân duyên, quý vị sẽ thấy có một chuyện rất lạ là lý duyên sinh được dùng làm một đề tài cho người tu tập thiền quán. Lý do từ chỗ vấn đề lục nhập duyên cho xúc, duyên cho thọ, duyên cho ái , duyên cho thủ duyên cho hữu. Tất cả đều có mặt đầy đủ khi chúng ta tham thiền theo dõi thân tâm, và ở đó chúng ta ta thấy thân tâm sinh hoạt giống như một cơ năng. Có một phương pháp đi kinh hành với sự quán sát về mười hai xứ, với phương pháp này khi ngồi thiền hay lúc đi kinh hành, chúng ta quan sát thử xem có bao nhiêu âm thanh đến với lỗ tai. Khi âm thanh hiện ra chúng ta biết đó là âm thanh và tai đang nghe tiếng. Nghe tiếng đó là nhĩ thức. Cái gì chúng ta nhìn, chúng ta thấy đó là cảnh sắc và cái biết của mắt đó là nhãn thức. Khi đi kinh hành như vậy một thời gian hành giả cảm nhận rằng đời sống là một sự tiếp xúc của nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý với sắc thinh khí vị xúc bên ngoài. Khi người này có đủ khả năng bén nhạy để theo dõi, khi nào thấy, khi nào nghe, khi nào ngửi, khi nào nếm, khi nào đụng, lâu ngày vị này sẽ bén nhạy hơn và thấy được những cảm thọ của nó, chúng ta gọi là nhãn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ v.v..Tức là thọ từ con mắt, thọ từ lỗ tai, thọ từ lỗ mũi, thọ từ lưỡi, thọ từ thân, thọ do thấy do nghe do ngửi do nếm do đụng. Khi thấy được cảm thọ đó chúng ta thấy được sự dính mắc, thấy được sự từ chối hay sự đam mê đối với những thọ đó. Chúng ta sẽ thấy được ái và thủ. Từ chỗ đó chúng ta nhận thấy rằng, khi chúng ta có cảm giác ưa thích chuyện gì đó nó sẽ dẫn đến hành động và điều đó gọi là hữu.

Ví dụ quý vị đang hành thiền, bỗng nhiên quý vị nhớ đến một người nào đó, nhớ người bạn hay cha mẹ của mình, tức là ý tiếp xúc với pháp gọi là ý xúc sở sanh thọ. Từ ý niệm đó dẫn đến tình trạng chúng ta đi viết thơ. Hành động ngồi viết thơ đó được xem là hữu. Có rất nhiều hành động trong đời sống từ nhỏ đến lớn, có thể được xem được quán sát, được ghi nhận rõ ràng nhờ chúng ta theo dõi từng phần một của xúc, của thọ, của ái, của thủ và của hữu rất dễ dàng. Ví dụ chúng ta thèm café, chúng ta nhớ đến café đó là ý xúc sở sanh thọ, tự nhiên có ý muốn uống café, ý muốn đó là ái, sanh ra hữu là tìm cách gì để có café và chúng ta bắt đầu phát ngôn ra, nói với mọi người rằng tôi muốn uống café, xin hãy mang café đến cho tôi”. Đó là hữu.

Cái nhìn thập nhị nhân duyên trong kiếp hiện tại, là nhìn những diễn biến của sinh lý và tâm lý, nhìn tiến trình đó xem chúng ta sống như thế nào? Khi nhìn về quá khứ, chúng ta nhìn con người đã được tạo ra như thế nào? Khi nhìn về tương lai chúng ta sẽ đi về đâu? Cái đi về đâu đó là sanh già đau chết. Tại sao hữu lại duyên cho sanh? Như đã nói trong chi trước, từ hành động này dẫn đến sự hiện hữu kế tiếp của nó, hầu như bất cứ sự tiếp tục nào của đời sống đều phải có động lực của nó. Không có gì tiếp tục mà không cần có động lực của nó, không cần có nhiên liệu của nó, giống như một ngọn lửa có tiếp tục cháy được hay không là do có bổi và nhiên liệu hay không.

Trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức Phật nói rằng, “ Tất cả chúng sanh tồn tại do vật thực”. Vật thực đó là:
-Đoàn thực là đồ ăn mặn ngọt các chất dinh dưỡng nuôi thân.
-Xúc thực là cảnh nuôi tâm của mình, tâm của chúng ta được nuôi dưỡng được tạo nên bởi cảnh bên ngoài, chúng ta tiếp xúc như thế nào nội tâm chúng ta phản ảnh như vậy.
-Cảnh nuôi tâm, tâm nuôi sự sống chúng ta gọi là thức thực, từ tâm thức này có biến chuyển có hậu quả có ý muốn như thế này như thế khác, chúng ta tạo dựng cuộc sống chung quanh.
-Tư niệm thực là tác ý tạo tác nuôi dưỡng sự luân hồi.
Tất cả đoàn thực, xúc thực, thức thực, và tư niệm thực đều là những nhiên liệu giúp cho ngọn lửa tiếp tục cháy. Ở đây hữu được xem duyên cho sanh bởi vì hữu tiếp tục duyên cho đời sống sanh kế tiếp. Khi chúng ta học tế bào học, chúng ta biết rằng từ đời xa xưa ngàn ngàn năm về trước, ông bà cha mẹ tổ tiên chúng ta có mang những tế bào gọi là gien di truyền DNA, công thức tế bào đó giống như tế bào của chúng ta ngày hôm nay, tiến trình di truyền giống như tiến trình chúng ta copy, lập đi lập lại do vật thực. Và nhiều lần lập đi lập lại như vậy từ đời này sang đời khác, chúng ta tiếp tục hiện hữu cho đến ngày hôm nay.

Chúng tôi nhớ năm 1981, chúng tôi đặt chân đến Hoa-Kỳ, ở tại chùa Pháp Vân, có một đạo hữu là Bác Danh. Bác vẽ một hình Phật đản rất đẹp về Bồ-Tát đản sanh. Tấm hình đó đã được nhiều chùa nhiều tu viện copy để in trên các thiệp của mình. Từ tấm hình nguyên bản đó copy ra nhiều phó bản và truyền từ chùa này qua chùa kia, từ năm này qua năm khác, và bây giờ chúng ta không thể phân ra nguồn gốc ban đầu của nó. Chúng tôi biết được tác giả của bản vẽ đó. Hữu duyên cho sanh chỉ là một trạng thái copy, lập đi lập lại. Từ có nghiệp nên có sanh. Cái nghiệp và cái sanh đó có sự tương đồng với nhau, giống như hôm qua chúng ta nói về “ thức duyên cho danh sắc”, và ngày hôm nay chúng ta nói chuyện lặp lại là “hữu duyên cho sanh”. Điều chúng ta phải ghi nhận tại đây “ Tại sao sanh duyên cho lão tử?” “ Tại sao chúng ta có già có chết? “Vì có sanh nên chúng ta có già và có chết”. Người đời hỏi chúng ta tại sao có già có chết. Chúng ta trả lời rằng, “ Vì chúng ta thiếu dinh dưỡng hay y tế chưa tiến bộ nên chúng ta có già và có chết.” Nhưng Đức Phật Ngài nói khác,” hễ có sanh ra tự nhiên có già và có chết”. Cái già và chết là hậu quả tự nhiên của sanh không ai có thể từ chối được. Trong kinh Phật có chữ sankhara là chữ hành các Ngài thường dịch là các hữu vi. Hữu vi có hợp và có tan. Trong cái tạo nên thì có mầm mống huỷ diệt. Có sanh thì phải có tử. Bởi vì nó sanh ra với một sồ điều kiện nào đó và khi những điều kiện đó chấm dứt thì tự nó phải diệt. Những điều kiện đó không thể có hoài được.

Khi Ngài Xá-Lợi-Phất còn là một cư sĩ, gặp Ngài A-Xà-Chí hỏi đạo lý, Ngài A-Xà-Chí nói, “ Pháp nào do duyên sanh, pháp đó cũng do duyên diệt”
“ Chư Pháp tùng duyên sanh,
Diệt phục tùng duyên diệt,
Ngã Phật Đại Sa môn,
Thường tác như thị thuyết”
Có nghĩa là pháp nào do duyên sanh cũng do duyên nó diệt, Đức Phật vị Đại Sa-Môn đã dạy như vậy

Đối với chúng ta câu nói đó rất bình thường, không thấy có ý nghĩ gì đặc biệt. Với Ngài Xá-Lợi-Phất cảm nhận được chân lý rất sâu xa, trong duyên sanh đã có duyên diệt. Sanh ra là duyên của hoại diệt. Ví dụ như chúng ta gặp gỡ nhau tại chùa này. Quý vị đến đây gặp nhau với điều kiện để được nghe pháp, tu học. Trong cái nghe pháp tu học đã có ý niệm chung cuộc, nghĩa là khi hết nghe pháp tu học thì chia tay, như vậy gặp nhau có điều kiện. Trên đời này hễ cái gì gặp nhau có điều kiện và khi điều kiện đó hoàn tất sẽ chấm dứt. Như vậy trong duyên sanh đã có lão tử.

Có một câu chuyện vui, trong đó chuyên chở một đạo lý quan trọng của đạo Phật. Ngày xưa vua Cảnh Tông bên Tàu đi chơi trên núi Tùng Sơn, khi leo lên núi cao nhìn thấy cảnh vật xinh đẹp hữu tình bên dưới, nhà vua bật khóc.
Quan cận thần là Án Tử đứng kế bên hỏi nhà vua,
-“ Tại sao Hoàng Thượng lại rơi lệ”
Nhà vua mới nói rằng,
-“ Giang sơn gấm vóc, nhưng một lúc nào đó phải chết bỏ lại tất cả, thật là đáng tiếc” Nghe nói như vậy, Án Tử bật cười.
Nhà vua nổi giận hỏi rằng,
-“ Tại sao lúc trẩm đang buồn rầu khanh lại cười? ”
Án Tử thưa với vua Cảnh Tông rằng,
-“ Tâu Hoàng Thượng, nếu Tiên đế lột da sống đời ở kiếp, giang sơn gấm vóc này không đến tay Hoàng Thượng”

Câu chuyện đó nói lên một đạo lý rất căn bản, chúng ta sanh ra để già và để chết. Chúng ta sanh ra có sanh nghiệp và sanh nghiệp có trì nghiệp để giữ mạng sống chúng ta. Nó giữ vì nghiệp quá khứ chúng ta gọi là thủ và hữu. Nghiệp đó khi tác động và ảnh hưởng của nghiệp đó hết, dĩ nhiên sẽ không còn lý do tồn tại, nó sẽ phải chấm dứt mà thôi. Khi Đức Phật nói đến sanh và lão tử, Ngài cho chúng ta biết hình ảnh rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp bất thiện chúng ta tạo ngày hôm nay sẽ có kết quả trong tương lai. Dầu nghiệp bất thiện để sanh vào địa ngục hay nghiệp thiện để sanh làm Thiên Vương Đế Thích hoặc tu thiền để làm trời Phạm thiên cũng có giai đoạn, không vĩnh hằng, đều dẫn đến lão tử. Trong kinh điển có đoạn rất quan trọng thường khi nói về thập nhị nhân duyên, chúng ta cắt bớt đi. Chúng tôi nhắc ở đây khi quý vị đọc về lý duyên khởi nhớ để ý. Trong lý duyên khởi Đức Phật nói, “ Do duyên vô minh có hành, do duyên hành có thức, do duyên thức có danh sắc, do duyên danh sắc có lục nhập, do duyên lục nhập có xúc, do duyên xúc có thọ, do duyên thọ có ái, do duyên ái có thủ, do duyên thủ có hữu, do duyên hữu có sanh, do duyên sanh có già đau chết sầu bi khổ ưu não, như vậy toàn bộ ngũ uẩn này tập khởi” Chúng ta nói chi phần sau ngắn là “ lão tử” thay vì “ lão tử sầu bi khổ ưu não”
Tại vì sao? Vì sanh ra đời già chết không ai hoan hỷ cả. Chính sự vô thường cuả cuộc sống tạo nên nhiều cái khổ triền miên trong cuộc đời này nên có sầu bi khổ ưu não.

Nói một cách đại lược về thập nhị nhân duyên trong thời gian ngắn như vậy, đáng lẽ chúng tôi nói một số chi tiết về sự sanh và lão tử sầu bi khổ ưu não. Chúng tôi muốn dành một ít thì giờ cùng với quý vị đi qua một vài vấn đề tổng quan của lý thập nhị nhân duyên.
1/ Vấn đề thời gian.
-Vô minh là nhân trong quá khứ
-Hành là quả trong quá khứ
-Thức, danh sắc, lục nhập, xúc, thọ là quả của hiện tại
-Ái thủ hữu là nhân của hiện tại
-Sanh, lão, tử là quả của vị lai.
Trong tất cả những tiến trình đó, Đức Phật cố gắng nói lên ba điều nghiệp, quả, phiền não. Phiền não (có tham có sân có si) thì tạo nên nghiệp, nghiệp tạo nên quả, quả tạo nên phiền não. Quả vui thì tham, quả khổ thì sân. Phiền não tạo ra nghiệp.

Phiền nãoà Nghiệpà Quảà Phiền não

Tạo nên một luân lưu có hình thức rất đặc biệt.
2/-Khi Đức Phật trình bày vô minh duyên hành, hành động phát xuất từ thiếu tri kiến, thiếu sự hiểu biết giác ngộ trong quá khứ.
3/-Khi nói đến lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu, nghiệp (hành động) trong hiện tại là do thiếu chánh niệm.
Từ mấu chốt xúc, tho, ái, thủ, hữu này gợi lên một ý niệm rất quan trọng. Nếu ở đây thiền quán được thực hành, như vậy vòng luân hồi được gián đoạn tại một điểm nào đó. Chính vì gián đoạn tại một điểm nào đó, nếu đủ mạnh chúng ta có thể chấm dứt được luân hồi.

Do vậy trong tiến trình của Thập nhị nhân duyên khi nói về danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu là những chi tiết rất căn bản của các vị thiền sinh hành thiền minh sát vậy. Giáo lý này được xem như là nền tảng của thiền học. Quý vị sẽ không bao giờ ngạc nhiên khi đọc quyển Thanh Tịnh Đạo, quyển sách nói về pháp hành. Trong đó lý thập nhị nhân duyên đóng vai trò rất quan trọng để giải thích về cuộc sống. Khi Đức Phật dạy về giáo lý thập nhị nhân duyên, Ngài đề cập đến một yếu tố quan trọng khác mà tất cả các tín đồ của mọi tôn giáo đều quan tâm đến, đó là quan niện về thiện và quan niệm về ác, quan niệm về sự tu tập và quan niệm về sự hiện hữu của con người. Cái thiện và cái ác ở đây không nói lên ở hình thức tội lỗi hay không tội lỗi mà nó là một hệ luỵ tự nhiên của đời sống. Nó tự nhiên giống như chuyện hễ hạt giống khi gieo xuống đất sẽ nẩy mầm, mọc lên cây. Không ai có thể trách móc, không ai có thể nói là tội lỗi được. Hễ có vô minh và có hành đương nhiên phải có thức. Hễ có ái có thủ có hữu thì phải có sanh, phải có lão tử. Điều đó là một hệ luỵ tự nhiên. Mặc dầu Ngài cho rằng tất cả rất tự nhiên, tuy nhiên Ngài cho rằng ý chí của con gnười có thể dự phần vào bẻ gãy nó. Đó là sự khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác khi đưa ra chủ trương hoàn bị, họ cho rằng những điều đó đã được an lập hoàn toàn, chúng ta gọi là tiền định hay gọi là số mệnh. Trong tiền định số mệnh đó tất cả con người phải đi theo nó. Nhưng Đức Phật cho biết rằng, nếu chúng ta nhìn nó một cách chi tiết máy móc thì chúng ta có thể dự phần thay đổi vào.

Ngày xưa trong lúc loài người đang cố gắng để chế chiếc máy bay. Một nhà học giả có tên tuổi nói rằng, “ Nếu Thượng đế muốn cho con người bay, thượng đế đã cho con gnười cặp cánh rồi.” Ông mỉa mai bởi vì ông thấy rằng chuyện con người muốn bay rất điên rồ, vì thượng đế muốn cho con người bay đã sanh chúng ta như con chim rồi. Đối với định luật thiên nhiên, Đức Phật cho chúng ta niềm tin có thể hoán chuyển, có thể sửa đổi được điều đó. Do vậy khi Ngài nói về lý thập nhị nhân duyên, Ngài khuyên chúng ta nên trở về nhìn lại từng chập tư tưởng của mình, sống bằng chánh niệm tỉnh giác, từ đó chúng ta có cơ hội để bẻ gãy sanh tử. Bởi vì Ngài nói cái cơ năng, cái tiến trình của cuộc sống có nhân và duyên, cótrình tự, và nếu trình tự được chấm dứt tại một điểm nào đó thì tự nhiên những cái khác nó sẽ ngưng ngay. Bởi vì niềm tin có nhân có duyên cho nên chúng ta tin vào điều gọi là có sự tu tập.

Trong Tăng Chi Bộ kinh Đức Phật có lần dạy Ngài A-Nan-Đa rằng.
-“ Này A-Nan-Đa, nếu tất cả những việc thiện và việc bất thiện đều do quá khứ an bài định đặt, Như Lai không dạy sự tu”
Dĩ nhiên không phải bất cứ chyện gì nói tại đây, chúng ta đều phủ nhận nghiệp quá khứ. Bên thái Lan có câu chuyện vui. Khi một nhà sư thương một người phụ nữ nào đó rồi hoàn tục. Phật tử nói rằng, “ Tại nghiệp quá khứ”. Ý họ muốn nói rằng chắc kiếp trước là vợ chồng, kiếp này gặp lại nên họ thương nhau. Câu nói đó rất phổ thông, do vậy bên Thái Lan, chuyện tu và hoàn tục rất bình thường. Cái nhìn đó đôi lúc tương tự như là cái nhìn của định mạng vậy. Cái định mạng đó cơ hồ như không thể thay đổi được. Ở đây chúng ta đánh cuộc, không hẳn lúc nào tất cả mọi thứ đều do nghiệp quá khứ. Dĩ nhiên có rất nhều thứ do nghiệp quá khứ, nhưng nghiệp quá khứ đó có thể thay đổi được. Nếu một người không có ý chí không có tâm đạo không có sự phấn đấu thì người đó cũng như sống buông tay, trôi theo dòng nước. Tuy nhiên vẫn có những người có thể ngồi vào chiếc bè và bơi ngược dòng nước.

Trong kinh tạng có nói, “ Người nào trong đời sống này tu tập, nghiệp quá khứ có thể chuyển.”
Khi những Phật tử đem những lá số tử vi đến hỏi Ngài Hộ Giác.
- “ Lá số tử vi nói như vậy có đúng không?”
Ngài Hộ Giác cười và nói rằng,
-“ Trong tử vi coi có đúng nhiều vệc nhưng cung phúc đức chắc coi không đúng được”
Tại sao vậy? Vì không ai biết mình làm thiện ra sao, làm ác ra sao. Cái thiện ác không cố định được, nhất là liên quan đến ý chí của con người. Đức Phật khuyên chúng ta nên nhớ điểm đó. Sống bám vào ý chí để đi ngược lại với cái mà chúng ta gọi là sự an bài của nghiệp lực trong quá khứ để lại cho đời sống hiện tại này.

Nếu quý vị có nhiều thời gian, hãy đọc thập nhị nhân duyên trong bộ Thanh Tịnh Đạo, và suy ngẫm nhiều hơn về những tác động của giáo lý duyên khởi. Càng nghiệm về điều này, nhất là trong thời kỳ nào đó khi cảm thấy thanh thản trong tâm hồn, chúng ta sẽ cảm nhận được rất nhiều điểm đặc biệt liên quan đến đời sống.
Giáo lý của Đức Phật khi trình bày về cuộc sống như một thế giới không có tự chủ, Đức Phật gọi là thế giới vô ngã, thế giới chúng ta không quyết định được hết, có nhiều yếu tố chi phối. Đồng thời Ngài cũng nói lên một điều, chúng ta có thể làm nhiều việc, thậm chí có thể bẻ gãy sanh tử để đạt đến giác ngộ giải thoát.
Hai điều đó nghe rất mâu thuẫn với nhau. tại sao Đức Phật nói thế giới là vô ngã, chúng ta không thể làm chủ được. Lần khác Đức Phật cơ hồ muốn như chúng ta làm chủ đời sống của mình. Khi quý vị nghiền ngẫm về lý thập nhị nhân duyên chúng ta sẽ thấm thía điều đó. Nó có hệ thống và hệ thống này nếu người nào xuôi tay thì người đó sẽ sống với hệ thống đó, nhưng người nào phấn đấu thì người đó có thể vượt ra khỏi.
Có một vị Chư Thiên đến hỏi Đức Phật,
- “ Ngài đang đứng lại hay Ngài đang bước tới?”
Đức Phật nói rằng,
-“Đứng lại thời chìm xuống, bước đi thời trôi giạt, do vậy vượt lên trên, ta đạt chân giải thoát”.
Ý Ngài nói “đứng lại” là không làm gì hết. Khi chúng ta không làm gì hết, chúng ta vẫn có xúc vẫn có thọ, vẫn có ái vẫn có thủ hữu, như vậy đời sống hiện tại sẽ dìm chúng ta xuống. Nói “ bước đi”, ý Đức Phật muốn nói rằng bước đi theo ái dục sẽ dẫn chúng ta trôi giạt lần nữa. Đức Phật vượt ra ngoài điều đó.

Ví dụ, trong xã hội chánh phủ và những ông cha đã tạo ra hiến pháp và những người đã xây dựng cấu trúc xã hội này muốn con người sống và lớn lên theo một hệ thống mà họ đã sắp xếp như vậy. Nhưng không phải ai vào sống ở đây đều bị quăng vào trong hệ thống đó hết và đều phải sống như vậy. Có những người vẫn có thể làm khác đi điều đó, có nghĩa là từ hệ thống như vậy, chúng ta vẫn có cuộc sống riêng tư. Không nhất thiết là lúc nhỏ phải đi học, lớn lên nghe lời cha mẹ, rồi lập gia đình rồi nuôi con cái, rồi lớn lên già phải vào viện dưỡng lão. Đó là điều xã hội an bài cho mình. Tuy nhiên nếu chúng ta không có ý thức và không có sự phấn đấu, chúng ta sẽ sống theo an bài của xã hội. Như vậy trong cuộc đời này cái gì là định mạng và cái gì là không định mạng? Chúng ta không biết được.
Có những người sống với định mạng bởi vì họ không có ý chí phấn đấu, có những người thắng định mạng vì họ có ý chí phấn đấu, Đức Phật nói rằng có thể thay đổi được định mệnh, đó là niềm hy vọng Đức Phật dành cho tất cả chúng ta .

Ngày chúng tôi ở tại trại tỵ nạn, có một vị mục sư tên Bảo. Không biết tại sao ông rất có cảm tình với chúng tôi. Ông nói rằng trong Phúc âm có nói đến chân lý, bình an, và hy vọng, nhưng tại sao đạo Phật chỉ nói cuộc đời là khổ và không có gì là hy vọng. Chúng tôi có thưa với mục sư, “ Thật sự Đức Phật có nói rằng con người sanh ra có hy vọng và hy vọng rất lớn là hy vọng thắng được định mạng” Nếu không có hy vọng, Đức Phật không khuyến khích chúng ta tu. Nếu không có hy vọng , đời sống ra sao nó như vậy hết và Đức Phật không nói đến khả năng tu giới, tu định, tu huệ. Ngài cho chúng ta biết có hy vọng rất lớn đi ngược khỏi vòng đó, nhưng hy vọng đó khó mường tượng. Người ta có hy vọng như thế này, họ nói rằng, “ Không biết theo đạo Phật có được bảo trợ hay không? Theo Đạo Phật có được cơm no áo ấm hay không? Theo đạo Phật có làm giàu được hay không?” Chúng tôi không dám chắc đạo Phật cho quý vị những hy vọng như vậy.

Băng giảng đến đây là hết.




>next page
dieuphap.com