TT.
Thích Giác Đẳng Thập Nhị Nhân Duyên - Bài 8 - Thủ duyên cho hữu
(Xin lưu ý: những bài chuyển biên này chúng tôi hoan hỷ với những ai tải về trang web nhà, để tôn trọng Giảng Sư xin giữ y bản chính, xin đừng sửa chữa. Và xin đề rõ tên người chuyển biên Nói cách khác khi nói đến ba chi phần trong quá khứ gồm vô minh hành và thức, có nghĩa là do vô minh trong quá khứ tạo thành nghiệp và do nghiệp đó tạo thành thức tái sanh, được xem như một chu kỳ của quá khứ. Chu kỳ hiện tại gồm có danh sắc lục nhập xúc thọ ái thủ và hữu. Từ hữu đó dẫn đi tái sanh trong tương lai, kiếp tưong lai gồm có sanh và lão tử. Như vậy nói đến ba đời, nhưng ba đời đó với ba cái nhìn khác nhau về đời sống. Mặc dầu hiện tại bây giờ sẽ trở thành qúa khứ, và cái qúa khứ hôm nay đã là hiện tại của quá khứ, quá khứ ngày hôm qua cũng có thời gian là tương lai. Tuy nhiên nói về phương diện thời gian, nhìn về hiện tại hoàn toàn khác, nhìn về tương lai hoàn toàn khác, nhìn về quá khứ hoàn toàn khác. Ví dụ nói đến hành động, trong qúa khứ gọi là hành, nói đến nhân của hành động trong quá khứ chúng ta nói đến vô minh. Nhưng nói đến nhân hành động trong hiện tại, cái phiền não trong hiện tại, chúng ta nói đến ái chứ không nói đến vô minh. Do vậy chữ hữu ở đây là một tiến trình hoàn chỉnh của sự hiện hữu trong hiện tại này. Khi nói đến chữ Hữu, có nghĩa là nói đến một chung cuộc của hiện tại. Chung cuộc hiện tại đó là gì? Đó là từ chỗ có thân tâm, có danh sắc, có lục nhập, mới có xúc, thọ, ái, thủ, và hữu ( hữu là dẫn đến sự tạo tác các nghiệp) để thành hiện hữu. Hay nói một cách khác, chữ hữu có nghĩa là những cơ năng sinh hoạt của đời sống được xem như tạo nghiệp cho đời sống tương lai. Nếu quý vị nhìn vào bản đồ thập nhị nhân duyên chúng tôi cầm trên tay, quý vị sẽ thấy hai khoen cuối cùng là sanh và lão tử được dùng để diễn tả đời sống tương lai, nó cũng là một sự diễn tả hoàn chỉnh, bắt đầu và chấm dứt. Chúng ta cũng thấy từ thức tạo ra danh sắc tức là khởi đầu kiếp sống cho đến hữu. Tại sao đời sống hiện tại này tại sao không chấm dứt ở lão tử mà chấm dứt tại hữu, lão tử chỉ được nhắc trong kiếp sống tương lai? Tại vì lão tử là kết quả của sự sanh. Do vậy có một chút lắc léo tại đây, khi chúng ta dùng chữ hữu là chỉ cho sự hiện diện của đời sống này (thay vì nói đến hành là hành động). Rất ít khi chúng ta ta gặp một chi pháp tương đối khó định nghĩa và khó nói như thập nhị nhân duyên. Bởi vì ngay trong mười hai chi pháp này, riêng thời gian đã là vấn đề phức tạp rồi. Có thể nói rằng không thể nào đem từ vô minh cho đến lão tử gom vào trong một kiếp sống được. Tại sao vậy? Tại vì : Nói tóm lại làm thiện làm ác, ăn uống ngủ nghỉ nói năng, tạo tác hành động chính là sự hiện hữu của con người. Cũng giống như câu nói “vì tôi có suy tư nên tôi hiện hữu”, người Phật tử nói rằng “vì chúng ta có tạo nghiệp nên chúng ta hiện hữu”. Như vậy cái rắc rối của thập nhị nhân duyên là, vì dựa trên yếu tố thời gian nên chúng ta có cái nhìn khác đi. Cũng như cái thức dẫn đến danh sắc, thật ra nó đồng nghĩa với chữ sanh trong đoạn sau. Từ thức tái sanh dẫn đến sự hiện hữu của một kiếp người cũng là sự tái sanh. Chữ sanh và lão tử, được Đức Phật nói đến kiếp sống vị lai để cho chúng ta thấy hình ảnh kết quả hành động hiện tại. Do vậy hữu có dục hữu và sắc hữu và vô sắc hữu. Có nghiệp đưa vào cõi dục giới, có nghiệp đưa vào cõi sắc giới, có nghiệp đưa vào cõi vô sắc giới. Nghiệp đưa đến cõi dục giới là gì? Những nghiệp nào liên quan đến tham, sân, hoài nghi, hôn trầm thuỵ miên và phóng dật là nghiệp đưa vào cõi dục giới. Đức Phật nói chư thiên có bốn đặc tánh. Chư thiên là bậc có rất nhiều giới hạnh. Ở đời sống này nếu quý vị giữ bát quan trai giới, tâm của quý vị giống như chư thiên vậy. Trong kinh có một lần Đức Phật nói, “ Vị Phạm Thiên luôn luôn có đức từ bi hỷ xả. Do vậy người nào tu tập từ bi hỷ xả, khi đi có từ bi hỷ xả thì đi giống như Phạm Thiên, khi đứng có từ bi hỷ xả thì đứng giống như Phạm Thiên, khi nằm có từ bi hỷ xả thì nằm giống như Phạm Thiên, khi ngồi có từ bi hỷ xả thì ngồi giống như Phạm thiên. Người đi đứng nằm ngồi giống như Phạm thiên sau khi chết sẽ sanh về cộng trú với Phạm thiên.” Do vậy chữ hữu ở đây, nói lên sự hiện hữu, nói lên bản chất của đời sống hiện tại, bản chất đó là nền tảng của đời sống trong tương lai. Nền tảng hiện tại đó được chi phối bởi xúc, bởi thọ, bởi ái, bởi thủ và do nhân như vậy hữu có mặt. Khi chúng ta nói đến xúc, đến thọ, chúng ta nói đến môi trường nói đến điều kiện. Khi nói đến xúc, chúng ta nói nhãn xúc, nhỉ xúc, tỷ xúc, thiệt xúc, thân xúc và ý xúc. Tức là sáu căn tiếp xúc vơí sáu cảnh, sáu căn này tiếp xúc với sáu môi trường, từ chỗ đó sanh ra cảm thọ sanh ra ái. Chúng ta làm một sự lựa chon, và chính sự lựa chọn đó nói lên sự có mặt của chúng ta trong cõi đời này. Nhiều lần Đức Phật nhấn mạnh rằng, “Không phải sanh ra trong một giai cấp là cao thượng, không phải mang một cái tên đẹp là cao thượng, chính hành động mới quyết định con người cao thượng hay không cao thượng”. Có nghĩa là chính hành động mới nói lên sự hiện hữu của con người. Một con người sát sanh trộm cướp v.v.. được xem như hiện hữu trong sự bất thiện . Một người biết bố thí trì giới tham thiền là hiện hữu trong thiện. Do vậy “ái duyên cho thủ, thủ duyên cho hữu” . Khi giảng thập nhị nhân duyên, Ngài buddhaghosa đã đem vào Trong thanh tịnh đạo. Quý vị lật chương thứ 17, tập 2 về thập nhị nhân duyên, quý vị sẽ thấy có một chuyện rất lạ là lý duyên sinh được dùng làm một đề tài cho người tu tập thiền quán. Lý do từ chỗ vấn đề lục nhập duyên cho xúc, duyên cho thọ, duyên cho ái , duyên cho thủ duyên cho hữu. Tất cả đều có mặt đầy đủ khi chúng ta tham thiền theo dõi thân tâm, và ở đó chúng ta ta thấy thân tâm sinh hoạt giống như một cơ năng. Có một phương pháp đi kinh hành với sự quán sát về mười hai xứ, với phương pháp này khi ngồi thiền hay lúc đi kinh hành, chúng ta quan sát thử xem có bao nhiêu âm thanh đến với lỗ tai. Khi âm thanh hiện ra chúng ta biết đó là âm thanh và tai đang nghe tiếng. Nghe tiếng đó là nhĩ thức. Cái gì chúng ta nhìn, chúng ta thấy đó là cảnh sắc và cái biết của mắt đó là nhãn thức. Khi đi kinh hành như vậy một thời gian hành giả cảm nhận rằng đời sống là một sự tiếp xúc của nhãn nhĩ tỷ thiệt thân ý với sắc thinh khí vị xúc bên ngoài. Khi người này có đủ khả năng bén nhạy để theo dõi, khi nào thấy, khi nào nghe, khi nào ngửi, khi nào nếm, khi nào đụng, lâu ngày vị này sẽ bén nhạy hơn và thấy được những cảm thọ của nó, chúng ta gọi là nhãn xúc sở sanh thọ, nhĩ xúc sở sanh thọ v.v..Tức là thọ từ con mắt, thọ từ lỗ tai, thọ từ lỗ mũi, thọ từ lưỡi, thọ từ thân, thọ do thấy do nghe do ngửi do nếm do đụng. Khi thấy được cảm thọ đó chúng ta thấy được sự dính mắc, thấy được sự từ chối hay sự đam mê đối với những thọ đó. Chúng ta sẽ thấy được ái và thủ. Từ chỗ đó chúng ta nhận thấy rằng, khi chúng ta có cảm giác ưa thích chuyện gì đó nó sẽ dẫn đến hành động và điều đó gọi là hữu. Ví dụ quý vị đang hành thiền, bỗng nhiên quý vị nhớ đến một người nào đó, nhớ người bạn hay cha mẹ của mình, tức là ý tiếp xúc với pháp gọi là ý xúc sở sanh thọ. Từ ý niệm đó dẫn đến tình trạng chúng ta đi viết thơ. Hành động ngồi viết thơ đó được xem là hữu. Có rất nhiều hành động trong đời sống từ nhỏ đến lớn, có thể được xem được quán sát, được ghi nhận rõ ràng nhờ chúng ta theo dõi từng phần một của xúc, của thọ, của ái, của thủ và của hữu rất dễ dàng. Ví dụ chúng ta thèm café, chúng ta nhớ đến café đó là ý xúc sở sanh thọ, tự nhiên có ý muốn uống café, ý muốn đó là ái, sanh ra hữu là tìm cách gì để có café và chúng ta bắt đầu phát ngôn ra, nói với mọi người rằng tôi muốn uống café, xin hãy mang café đến cho tôi”. Đó là hữu. Cái nhìn thập nhị nhân duyên trong kiếp hiện tại, là nhìn những diễn biến của sinh lý và tâm lý, nhìn tiến trình đó xem chúng ta sống như thế nào? Khi nhìn về quá khứ, chúng ta nhìn con người đã được tạo ra như thế nào? Khi nhìn về tương lai chúng ta sẽ đi về đâu? Cái đi về đâu đó là sanh già đau chết. Tại sao hữu lại duyên cho sanh? Như đã nói trong chi trước, từ hành động này dẫn đến sự hiện hữu kế tiếp của nó, hầu như bất cứ sự tiếp tục nào của đời sống đều phải có động lực của nó. Không có gì tiếp tục mà không cần có động lực của nó, không cần có nhiên liệu của nó, giống như một ngọn lửa có tiếp tục cháy được hay không là do có bổi và nhiên liệu hay không. Trong Tăng Chi Bộ kinh, Đức Phật nói rằng, “ Tất cả chúng sanh tồn tại do vật thực”. Vật thực đó là: Chúng tôi nhớ năm 1981, chúng tôi đặt chân đến Hoa-Kỳ, ở tại chùa Pháp Vân, có một đạo hữu là Bác Danh. Bác vẽ một hình Phật đản rất đẹp về Bồ-Tát đản sanh. Tấm hình đó đã được nhiều chùa nhiều tu viện copy để in trên các thiệp của mình. Từ tấm hình nguyên bản đó copy ra nhiều phó bản và truyền từ chùa này qua chùa kia, từ năm này qua năm khác, và bây giờ chúng ta không thể phân ra nguồn gốc ban đầu của nó. Chúng tôi biết được tác giả của bản vẽ đó. Hữu duyên cho sanh chỉ là một trạng thái copy, lập đi lập lại. Từ có nghiệp nên có sanh. Cái nghiệp và cái sanh đó có sự tương đồng với nhau, giống như hôm qua chúng ta nói về “ thức duyên cho danh sắc”, và ngày hôm nay chúng ta nói chuyện lặp lại là “hữu duyên cho sanh”. Điều chúng ta phải ghi nhận tại đây “ Tại sao sanh duyên cho lão tử?” “ Tại sao chúng ta có già có chết? “Vì có sanh nên chúng ta có già và có chết”. Người đời hỏi chúng ta tại sao có già có chết. Chúng ta trả lời rằng, “ Vì chúng ta thiếu dinh dưỡng hay y tế chưa tiến bộ nên chúng ta có già và có chết.” Nhưng Đức Phật Ngài nói khác,” hễ có sanh ra tự nhiên có già và có chết”. Cái già và chết là hậu quả tự nhiên của sanh không ai có thể từ chối được. Trong kinh Phật có chữ sankhara là chữ hành các Ngài thường dịch là các hữu vi. Hữu vi có hợp và có tan. Trong cái tạo nên thì có mầm mống huỷ diệt. Có sanh thì phải có tử. Bởi vì nó sanh ra với một sồ điều kiện nào đó và khi những điều kiện đó chấm dứt thì tự nó phải diệt. Những điều kiện đó không thể có hoài được. Khi Ngài Xá-Lợi-Phất còn là một cư sĩ, gặp Ngài A-Xà-Chí hỏi đạo lý, Ngài A-Xà-Chí nói, “ Pháp nào do duyên sanh, pháp đó cũng do duyên diệt” Đối với chúng ta câu nói đó rất bình thường, không thấy có ý nghĩ gì đặc biệt. Với Ngài Xá-Lợi-Phất cảm nhận được chân lý rất sâu xa, trong duyên sanh đã có duyên diệt. Sanh ra là duyên của hoại diệt. Ví dụ như chúng ta gặp gỡ nhau tại chùa này. Quý vị đến đây gặp nhau với điều kiện để được nghe pháp, tu học. Trong cái nghe pháp tu học đã có ý niệm chung cuộc, nghĩa là khi hết nghe pháp tu học thì chia tay, như vậy gặp nhau có điều kiện. Trên đời này hễ cái gì gặp nhau có điều kiện và khi điều kiện đó hoàn tất sẽ chấm dứt. Như vậy trong duyên sanh đã có lão tử. Có một câu chuyện vui, trong đó chuyên chở một đạo lý quan trọng của đạo Phật. Ngày xưa vua Cảnh Tông bên Tàu đi chơi trên núi Tùng Sơn, khi leo lên núi cao nhìn thấy cảnh vật xinh đẹp hữu tình bên dưới, nhà vua bật khóc. Câu chuyện đó nói lên một đạo lý rất căn bản, chúng ta sanh ra để già và để chết. Chúng ta sanh ra có sanh nghiệp và sanh nghiệp có trì nghiệp để giữ mạng sống chúng ta. Nó giữ vì nghiệp quá khứ chúng ta gọi là thủ và hữu. Nghiệp đó khi tác động và ảnh hưởng của nghiệp đó hết, dĩ nhiên sẽ không còn lý do tồn tại, nó sẽ phải chấm dứt mà thôi. Khi Đức Phật nói đến sanh và lão tử, Ngài cho chúng ta biết hình ảnh rằng, tất cả những nghiệp thiện và nghiệp bất thiện chúng ta tạo ngày hôm nay sẽ có kết quả trong tương lai. Dầu nghiệp bất thiện để sanh vào địa ngục hay nghiệp thiện để sanh làm Thiên Vương Đế Thích hoặc tu thiền để làm trời Phạm thiên cũng có giai đoạn, không vĩnh hằng, đều dẫn đến lão tử. Trong kinh điển có đoạn rất quan trọng thường khi nói về thập nhị nhân duyên, chúng ta cắt bớt đi. Chúng tôi nhắc ở đây khi quý vị đọc về lý duyên khởi nhớ để ý. Trong lý duyên khởi Đức Phật nói, “ Do duyên vô minh có hành, do duyên hành có thức, do duyên thức có danh sắc, do duyên danh sắc có lục nhập, do duyên lục nhập có xúc, do duyên xúc có thọ, do duyên thọ có ái, do duyên ái có thủ, do duyên thủ có hữu, do duyên hữu có sanh, do duyên sanh có già đau chết sầu bi khổ ưu não, như vậy toàn bộ ngũ uẩn này tập khởi” Chúng ta nói chi phần sau ngắn là “ lão tử” thay vì “ lão tử sầu bi khổ ưu não” Nói một cách đại lược về thập nhị nhân duyên trong thời gian ngắn như vậy, đáng lẽ chúng tôi nói một số chi tiết về sự sanh và lão tử sầu bi khổ ưu não. Chúng tôi muốn dành một ít thì giờ cùng với quý vị đi qua một vài vấn đề tổng quan của lý thập nhị nhân duyên. Tạo nên một luân lưu có hình thức rất đặc biệt. Do vậy trong tiến trình của Thập nhị nhân duyên khi nói về danh sắc, lục nhập, xúc, thọ, ái, thủ, hữu là những chi tiết rất căn bản của các vị thiền sinh hành thiền minh sát vậy. Giáo lý này được xem như là nền tảng của thiền học. Quý vị sẽ không bao giờ ngạc nhiên khi đọc quyển Thanh Tịnh Đạo, quyển sách nói về pháp hành. Trong đó lý thập nhị nhân duyên đóng vai trò rất quan trọng để giải thích về cuộc sống. Khi Đức Phật dạy về giáo lý thập nhị nhân duyên, Ngài đề cập đến một yếu tố quan trọng khác mà tất cả các tín đồ của mọi tôn giáo đều quan tâm đến, đó là quan niện về thiện và quan niệm về ác, quan niệm về sự tu tập và quan niệm về sự hiện hữu của con người. Cái thiện và cái ác ở đây không nói lên ở hình thức tội lỗi hay không tội lỗi mà nó là một hệ luỵ tự nhiên của đời sống. Nó tự nhiên giống như chuyện hễ hạt giống khi gieo xuống đất sẽ nẩy mầm, mọc lên cây. Không ai có thể trách móc, không ai có thể nói là tội lỗi được. Hễ có vô minh và có hành đương nhiên phải có thức. Hễ có ái có thủ có hữu thì phải có sanh, phải có lão tử. Điều đó là một hệ luỵ tự nhiên. Mặc dầu Ngài cho rằng tất cả rất tự nhiên, tuy nhiên Ngài cho rằng ý chí của con gnười có thể dự phần vào bẻ gãy nó. Đó là sự khác biệt giữa đạo Phật và các tôn giáo khác. Các tôn giáo khác khi đưa ra chủ trương hoàn bị, họ cho rằng những điều đó đã được an lập hoàn toàn, chúng ta gọi là tiền định hay gọi là số mệnh. Trong tiền định số mệnh đó tất cả con người phải đi theo nó. Nhưng Đức Phật cho biết rằng, nếu chúng ta nhìn nó một cách chi tiết máy móc thì chúng ta có thể dự phần thay đổi vào. Ngày xưa trong lúc loài người đang cố gắng để chế chiếc máy bay. Một nhà học giả có tên tuổi nói rằng, “ Nếu Thượng đế muốn cho con người bay, thượng đế đã cho con gnười cặp cánh rồi.” Ông mỉa mai bởi vì ông thấy rằng chuyện con người muốn bay rất điên rồ, vì thượng đế muốn cho con người bay đã sanh chúng ta như con chim rồi. Đối với định luật thiên nhiên, Đức Phật cho chúng ta niềm tin có thể hoán chuyển, có thể sửa đổi được điều đó. Do vậy khi Ngài nói về lý thập nhị nhân duyên, Ngài khuyên chúng ta nên trở về nhìn lại từng chập tư tưởng của mình, sống bằng chánh niệm tỉnh giác, từ đó chúng ta có cơ hội để bẻ gãy sanh tử. Bởi vì Ngài nói cái cơ năng, cái tiến trình của cuộc sống có nhân và duyên, cótrình tự, và nếu trình tự được chấm dứt tại một điểm nào đó thì tự nhiên những cái khác nó sẽ ngưng ngay. Bởi vì niềm tin có nhân có duyên cho nên chúng ta tin vào điều gọi là có sự tu tập. Trong Tăng Chi Bộ kinh Đức Phật có lần dạy Ngài A-Nan-Đa rằng. Trong kinh tạng có nói, “ Người nào trong đời sống này tu tập, nghiệp quá khứ có thể chuyển.” Nếu quý vị có nhiều thời gian, hãy đọc thập nhị nhân duyên trong bộ Thanh Tịnh Đạo, và suy ngẫm nhiều hơn về những tác động của giáo lý duyên khởi. Càng nghiệm về điều này, nhất là trong thời kỳ nào đó khi cảm thấy thanh thản trong tâm hồn, chúng ta sẽ cảm nhận được rất nhiều điểm đặc biệt liên quan đến đời sống. Ví dụ, trong xã hội chánh phủ và những ông cha đã tạo ra hiến pháp và những người đã xây dựng cấu trúc xã hội này muốn con người sống và lớn lên theo một hệ thống mà họ đã sắp xếp như vậy. Nhưng không phải ai vào sống ở đây đều bị quăng vào trong hệ thống đó hết và đều phải sống như vậy. Có những người vẫn có thể làm khác đi điều đó, có nghĩa là từ hệ thống như vậy, chúng ta vẫn có cuộc sống riêng tư. Không nhất thiết là lúc nhỏ phải đi học, lớn lên nghe lời cha mẹ, rồi lập gia đình rồi nuôi con cái, rồi lớn lên già phải vào viện dưỡng lão. Đó là điều xã hội an bài cho mình. Tuy nhiên nếu chúng ta không có ý thức và không có sự phấn đấu, chúng ta sẽ sống theo an bài của xã hội. Như vậy trong cuộc đời này cái gì là định mạng và cái gì là không định mạng? Chúng ta không biết được. Ngày chúng tôi ở tại trại tỵ nạn, có một vị mục sư tên Bảo. Không biết tại sao ông rất có cảm tình với chúng tôi. Ông nói rằng trong Phúc âm có nói đến chân lý, bình an, và hy vọng, nhưng tại sao đạo Phật chỉ nói cuộc đời là khổ và không có gì là hy vọng. Chúng tôi có thưa với mục sư, “ Thật sự Đức Phật có nói rằng con người sanh ra có hy vọng và hy vọng rất lớn là hy vọng thắng được định mạng” Nếu không có hy vọng, Đức Phật không khuyến khích chúng ta tu. Nếu không có hy vọng , đời sống ra sao nó như vậy hết và Đức Phật không nói đến khả năng tu giới, tu định, tu huệ. Ngài cho chúng ta biết có hy vọng rất lớn đi ngược khỏi vòng đó, nhưng hy vọng đó khó mường tượng. Người ta có hy vọng như thế này, họ nói rằng, “ Không biết theo đạo Phật có được bảo trợ hay không? Theo Đạo Phật có được cơm no áo ấm hay không? Theo đạo Phật có làm giàu được hay không?” Chúng tôi không dám chắc đạo Phật cho quý vị những hy vọng như vậy. Băng giảng đến đây là hết.
|